Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú

Thương yêu là phương thuốc diệu kỳ có thể giúp mỗi người chúng ta xoa dịu những nỗi đau của chính mình và mọi người quanh ta.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Văn hóa Phật giáo »» Xem đối chiếu Anh Việt: PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG »»

Văn hóa Phật giáo
»» Xem đối chiếu Anh Việt: PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

(Lượt xem: 6.339)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

BUDDHA EMPEROR TRAN NHAN TONG

Trong cuộc sống có những nhân vật lừng danh lịch sử qua sự cống hiến công lao, tài năng, trí tuệ của họ thuộc nhiều lãnh vực khác nhau cho đời, cho đạo. Bút hầu cùn, mực khô cạn qua thơ phú, văn chương ca tụng tài hoa, chí hướng cao thượng như Đức vua Trần Nhân Tông, tưởng không thể chỉ đơn thuần tán dương công hạnh vị vua anh hùng của dân tộc, bậc Thiền sư ngộ đạo của Phật giáo Việt Nam vào đời nhà Trần thế kỷ mười ba cho hậu thế học hỏi phong cách phi phàm của vị cha già dân tộc, vẫn hằng sống mãi gương hy sinh giữ nước, xây dựng mở mang bờ cõi; phát triển đạo Phật Việt tiếp nối đời Lý - Trần trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
In life, there are famous historical figures through their contributions, talents, and intelligence in many different fields to life and religion. The pen is blunt, the ink is dry through poetry and literature praising the talent and noble aspirations of King Tran Nhan Tong. It seems that we cannot simply praise the heroic deeds of the nation's king, the enlightened Zen master of Vietnamese Buddhism in the Tran Dynasty in the thirteenth century for posterity to learn from the extraordinary style of the father of the nation, who still lives forever as an example of sacrifice to protect the country, build and expand the territory; The development of Vietnamese Buddhism continued the Ly - Tran dynasties in the history of Vietnamese Buddhism.
Không còn nghi ngờ gì nữa, vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đầy đủ túc duyên với Phật Pháp, như Thánh Đăng Ngữ Lục và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên ghi nhận các chi tiết: “Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh Tông đặt tên là Kim Phật. Bên vai phải vua còn nốt ruồi đen như hạt đậu lớn. Kẻ thức giả bảo: ‘Ngày khác chắc chắn có thể gánh vác việc lớn.’”
There is no doubt that King Tran Nhan Tong (1258-1308) had a full affinity with Buddhism, as recorded in the details of Thanh Dang Ngu Luc and Dai Viet Su Ky Toan Thu by Ngo Si Lien: “When the king was born, his skin was as pure gold. Thanh Tong named him Kim Phat. On his right shoulder, there was a black mole as big as a bean. The wise man said: ‘One day, he will definitely be able to take on great responsibilities.’”
Thiền tông bản hạnh mô tả chi tiết này như sau:
The Zen sect describes this detail as follows:
Mãn nguyệt no tháng thoát thai
Mình vàng kim sắc tướng ngài lạ thay
Vua cha thốt bảo rằng bay
Hai ta có đức sanh nay Bụt vàng
Hữu kiên nốt ruồi bên nương
Thuật sĩ xem tướng đoán lường rằng bay
Thái tử trí cả bằng nay
Gánh việc đại khí làm thầy mười phương.
After the full moon, he was born
His golden body and appearance were so strange
His father said:
We have the virtue to be born today
The golden Buddha
Has a strong mole on his shoulder
The physiognomist predicted that The Crown Prince was as wise as ever, shouldering the great task of being a teacher of ten directions. However, when he grew up, his father, King Thanh Tong, named him Kham and took care of his education carefully to prepare him for his future leadership of the country. According to Tran Quang Chi, when writing the inscription for the painting Truc Lam Dai Si Xuat Son Do, he clearly stated the details of how Tran Nhan Tong was raised as a child: "When he grew up, he studied the Three Religions (Buddhism, Confucianism, Taoism) and had a deep understanding of Buddhist scriptures. Even astronomy, calendar, military strategy, medicine, music theory, there was nothing he could not quickly grasp deeply." Therefore, Tran Nhan Tong was both literary and martial in preparation for two great careers later: royal career and religious career. Both were carefully and thoughtfully taken care of. But for the king, who did not want his son to pursue a second career, just like King Tinh Phan did not want Prince Tat Dat Da to leave home to study Buddhism, he found a way to force Tran Nhan Tong to marry at the age of 16 (1274), as well as to appoint him as Crown Prince, with the intention of passing the throne to his younger brother, but the Crown Prince refused and wanted to give the throne to his younger brother.
Nhưng khi lớn lên, vua cha Thánh Tông đặt tên là Khâm và lo việc giáo dục chu đáo để chuẩn bị kế tục sự nghiệp lãnh đạo quốc gia sau này. Theo Trần Quang Chỉ khi đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, đã cho biết rõ chi tiết Trần Nhân Tông đã được nuôi dạy lúc nhỏ: “Khi lớn Ngài học thông Tam giáo (Phật, Khổng, Lão) và hiểu sâu Phật điển. Ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không mau chóng nắm được sâu sắc”. Do vậy Trần Nhân Tông cả văn lẫn võ đều song toàn để chuẩn bị hai sự nghiệp vĩ đại sau này: vương nghiệp và đạo nghiệp. Cả hai đều được lo liệu một cách chu đáo cẩn thận. Nhưng đối với vua cha, không muốn con mình theo sự nghiệp thứ hai, cũng như vua Tịnh Phạn xưa kia không muốn Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia học đạo, nên tìm cách ràng buộc Trần Nhân Tông cưới vợ năm 16 tuổi (1274), cũng như sắc phong làm Hoàng Thái Tử, với ý định truyền ngôi vua, nhưng Hoàng Thái Tử từ chối muốn nhường ngôi lại cho em.
This event was very impressive as Thanh Dang Ngu Luc recorded the details of King Tran Nhan Tong leaving home to go to Yen Tu mountain: "One night at the hour of Ty, the king left the city and went to Yen Tu mountain. When he arrived at Thap pagoda on Dong Cuu mountain, it was already dawn and he was very tired, so he went to rest in the tower. The monk of the pagoda saw that the king's appearance was unusual, so he brought food to offer the king."
Sự kiện này rất ấn tượng như Thánh Đăng Ngữ Lục ghi những chi tiết vua Trần Nhân Tông bỏ nhà đi lên núi Yên Tử: “Một đêm vào giờ Tý, vua bèn vượt thành mà đi, tìm vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp núi Đông Cứu thì trời đã sáng mà mình lại rất mệt, bèn vào nghỉ ở trong tháp. Vị sư chùa thấy diện mạo vua khác thường, bèn đem thức ăn dâng vua.”
The unexpected event made the royal family worried, especially the queen who was determined to find out the king's whereabouts, according to Thanh Dang Ngu Luc: "The queen told Thanh Tong everything. The king ordered his ministers to go out in all directions to search sword. The Crown Prince reluctantly returned and ascended the throne. Although he was in a luxurious position, he still maintained his purity.”
Sự kiện bất ngờ khiến hoàng gia lo lắng, nhất là hoàng hậu một mực tìm cho ra tông tích, theo Thánh Đăng Ngữ Lục viết rằng: “Hoàng hậu đem tâu hết cho Thánh Tông nghe. Vua ra lệnh cho quần thần tung ra bốn phương tìm kiếm. Thái tử bất đắc dĩ tự trở về và lên ngôi. Tuy ở ngôi cửu trùng sang trọng mà vẫn tự mình giữ thanh tịnh.”
Crown Prince Tran Kham accepted to ascend the throne on October 22, Mau Dan year, Bao Phu 6 (1278), in a dangerous situation because the country was invaded by the Northern invaders. King Tran Nhan Tong, with his military talent, used the people's strength to defeat the national enemy in many terrifying battles, typically through two confrontations with Kublai Khan in 1285 at Chuong Duong, not far from Thang Long Citadel. According to historian Le Manh That, "after clearing the enemy out of the country, King Tran Nhan Tong implemented a number of internal and diplomatic measures to stabilize and enhance the fighting potential of the nation." By winning the hearts of the people, King Tran Nhan Tong recruited talented generals such as Tran Hung Dao, Tran Quang Khai, Tran Nhat Duat, Tran Khanh Du, and once again won the battle of Van Don as recorded in historical records: "The victory of Van Don was a resounding and decisive victory. The enemy also admitted that this victory was a great loss for them." Next was the naval battle on Bach Dang River commanded by Hung Dao Vuong, the enemy was defeated. Because he had previously planted stakes in the riverbed, covered them with grass, and waited for the tide to rise. The King ordered his troops to challenge, using the tactic of delaying the troops, pretending to lose and fleeing, causing the enemy to chase, while our army tried to resist the enemy. Waiting for the tide to recede, the enemy's boats got stuck in the stakes, our army fought close to the enemy, the enemy was defeated; the enemy generals O Ma Nhi and Tich Le Co were captured. That was the 1288 national defense war, which was directly commanded and planned by the retired Emperor Tran Thanh Tong, King Tran Nhan Tong, as well as Tran Hung Dao and Nguyen Khoi. If not directed by King Tran Nhan Tong himself, then it must have been approved and agreed to by the king, according to historian Le Manh That.
Thái tử Trần Khâm đã chấp nhận lên ngôi vua ngày 22 tháng 10 năm Mậu Dần, niên hiệu Bảo Phù thứ 6 (1278), trước một tình thế nguy biến vì đất nước gặp lúc giặc phương Bắc xâm lăng. Vua Trần Nhân Tông với tài thao lược đã vận dụng lòng dân quân đánh thắng kẻ thù dân tộc nhiều trận khiếp vía kinh hồn mà điển hình qua 2 cuộc đọ sức với Hốt Tất Liệt năm 1285 tại Chương Dương nằm cách Kinh thành Thăng Long không xa. Theo sử gia Lê Mạnh Thát thì “sau khi quét sạch quân thù ra khỏi đất nước, vua Trần Nhân Tông đã thực hiện một số biện pháp nội trị và ngoại giao nhằm ổn định và nâng cao tiềm lực chiến đấu của dân tộc”. Do chinh phục được lòng dân, vua Trần Nhân Tông đã kết nạp được những tướng tài như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư một lần nữa đã chiến thắng trận Vân Đồn như sử liệu ghi: “Chiến thắng Vân Đồn là một chiến thắng vang dội và quyết định. Phía dịch cũng thừa nhận chiến thắng này là một tổn thất to lớn của chúng.” Tiếp theo là trận thủy chiến ở sông Bạch Đằng do Hưng Đạo Vương chỉ huy, giặc bị thua. Do trước đó ông cho trồng cọc ở lòng sông phủ cỏ lên trên, chờ cho nước triều lên Vương cho quân khiêu chiến, dùng kế hoãn binh, giả thua bỏ chạy, khiến giặc đuổi theo, quân ta ra sức cự địch. Chờ nước triều rút, thuyền giặc bị vướng cọc quân ta xáp đánh với giặc, giặc bị thua; tướng giặc Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ bị bắt. Đó là trận chiến tranh vệ quốc năm 1288 do Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông, cũng như Trần Hưng Đạo và Nguyễn Khoái trực tiếp chỉ đạo, vạch kế hoạch, nếu không do chính vua Trần Nhân tông chỉ đạo kế hoạch thì, cũng phải do nhà vua phê chuẩn và đồng ý thực hiện, theo như sử gia Lê Mạnh Thát.
No matter how glorious the martial victory was, or how stable the king's position was, it could not dampen the strong will to leave the world in the heart of this Buddha king. Therefore, on the one hand, the king directly or indirectly encouraged Crown Prince Anh Tong to succeed to the throne, on the other hand, he was concerned with stabilizing people's minds by reducing taxes, releasing prisoners of all kinds, and strengthening military equipment for an independent, autonomous, and prosperous Vietnam in times of peace.
Dù chiến thắng võ công vẻ vang tới đâu, địa vị nhà vua vững vàng thế mấy, cũng không làm thui chột được chí xuất trần còn vững mạnh nơi tâm của vị Phật vương này. Do vậy, một mặt vua trực hoặc gián tiếp nung chí cho Thái tử Anh Tông lên kế vị, mặt khác lo ổn định nhân tâm như giảm sưu dịch, cho phóng thích tù nhân các loại, củng cố binh bị cho một Việt Nam độc lập, tự chủ, phú cường trong thời bình.
The king assumed the imperial mandate (1278) for 16 years, then abdicated the throne to his son Anh Tong in 1293, and the following year, 1294, King Tran Nhan Tong became a monk at Vu Lam mountain in Hoa Lu, Ninh Binh province today.
Vua đảm nhận chân mạng đế vương (1278) được 16 năm, rồi nhường ngôi cho con là Anh Tông năm 1293, và năm sau 1294 vua Trần Nhân Tông xuất gia tại núi Vũ Lâm ở Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngày nay.
The king's royal career was so famous and prosperous, but once he was determined, he threw it away like a person throwing away a pair of worn-out sandals and no longer cared about it, to devote all his mind to practicing in order to cultivate his spiritual career, which was his ultimate goal. Like the poem "Living in the world and enjoying the path", Tran Nhan Tong expressed his point of view in the ending paragraph as follows:
Vương nghiệp của nhà vua lừng danh và đang thời cực thịnh như thế, nhưng một khi đã quyết tâm thì giũ bỏ như người bỏ đôi dép rách không màng tới nữa, để dành hết tâm tư vào việc tu tập ngõ hầu vun bồi đạo nghiệp là mục đích tối hậu của Ngài. Như bài “Cư trần lạc đạo phú”, Trần Nhân Tông đã diễn tả quan điểm của mình ở đoạn kết như sau:
In life, enjoy the path, let's follow fate
When hungry, just eat, when tired, just sleep
There are treasures in the house, stop searching
When faced with circumstances, be careless, don't ask about Zen.
Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.
(Living in the world and enjoying the path, let's follow fate
When faced with circumstances, be careless, don't ask about Zen.

(Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.)
In the house, there are treasures, stop searching
Sau khi đã xuất gia ở chùa nơi núi Yên Tử tu khổ hạnh, và đây là đoạn bài ca đã nói tới:
When faced with circumstances, be careless, don't ask about Zen.
Yên bề phận khó
Kiếm chốn dưỡng thân
Khuất tĩnh non cao
Náu mình sơn dã...
After becoming a monk at the temple on Yen Tu mountain to practice asceticism, and this is the passage of the song mentioned:
Riêng với người khác, như tôn giả Huyền Quang với cái nhìn khi tả về cảnh chùa Vân Yên và cuộc sống của vua Trần Nhân Tông lúc bấy giờ như thoát tục:
Relaxing with a difficult fate
Finding a place to nourish oneself
Hiding in the quiet high mountains
Hiding in the wild mountains...
... Cảnh tốt hòa lành
Đồ tựa vẽ tranh
Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo
Hèn chi vua Bụt tu hành...
Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng
Vượn bồng con kề cửa nghe kinh
Nương am vắng Bụt hiện từ bi
Gió hiu hiu mây nhè nhẹ
Kề song thưa thầy ngồi thiền định
Trăng vằng vặc, núi xanh xanh...
Mặc cà sa, nằm trướng giấy
Màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương
Quên ngọc thực, bỏ hương giao
Cắp nạnh cà một vò, tương một hũ...
Thầy tu trước đã nên Phật quả
Tiểu tu sau còn vị Tỳ kheo.
As for others, like the Venerable Huyen Quang with his view when describing the scene Van Yen Pagoda and the life of King Tran Nhan Tong at that time were like a world apart:... The scene was good and peaceful. The painting was like a painting. The sky was sacred and powerful. No wonder the Buddha practiced... The bird's friend pecked at the flowers and offered them. The monkey carried his baby near the door to listen to the sutra. In the quiet hermitage, the Buddha appeared with compassion. The wind was gentle, the clouds were light. Next to the window, the monk sat in meditation. The moon was full, the mountains were green... Wearing a monk's robe, lying on a paper bed. The curtain was full of pearls, the chest was full of gems. Forgetting the jade food, abandoning the incense. Carrying a jar of eggplant and a jar of soy sauce... The monk first attained Buddhahood, then became a monk.
Thoát vương bào, khoác phương phục của người Tăng sĩ trong đời đã mấy ai làm được, thế mà một bậc quân vương uy quyền tột đỉnh, thần dân một mực kính tôn, hễ đã nói xả bỏ thì quyết dứt bỏ không một niệm luyến tiếc vấn vương, đó là hạnh đức sáng ngời của Phật hoàng Trần Nhân Tông, một nhân vật lịch sử kiệt xuất của Việt Nam đời nhà Trần, dù đã trải qua gần 800 năm nhưng vẫn như mới tinh chưa hề hoen lớp bụi thời gian. Đó là do nhân cách đạo phong, công phu tu tập và đạo hạnh tu chứng của Ngài như mồi đèn tiếp lửa với vai trò truyền đăng tục diệm trong công cuộc xiển dương đạo Phật Việt ở ngày mai.
Leaving the royal robe and wearing the robes of a monk in life, how many people have been able to do it? Yet a king with supreme power, who is absolutely respected by his subjects, once he said he would give it up, he would definitely give it up without a single thought of regret or attachment. That is the shining virtue of Buddha Emperor Tran Nhan Tong, an outstanding historical figure of Vietnam during the Tran Dynasty. Although nearly 800 years have passed, he is still as good as new, not a trace of time's dust. That is because of his personality, his practice and his moral attainment, like a lamp to light the fire with the role of passing on the light in the work of promoting Vietnamese Buddhism in the future.
Nghiên cứu tìm hiểu nhân vật lịch sử Phật Hoàng Trần Nhân Tông ta phải đặc biệt chú tâm hai vai trò chủ yếu hàng đầu của Ngài: Trọng trách đối với quốc gia dân tộc và sứ mạng đối với đạo Phật Việt:
Researching and understanding the historical figure of King Buddha Tran Nhan Tong, we must pay special attention to his two main leading roles: Responsibility towards the nation and people and mission towards Vietnamese Buddhism:
* Với quốc gia dân tộc:
* With the nation:
Quốc gia dân tộc là di sản ngàn đời của tiền nhân để lại, các thế hệ thừa kế phải chứng tỏ đủ khả năng giữ gìn, cũng như bản lãnh đánh đuổi giặc ngoại xâm để trị an xứ sở và mở mang bờ cõi.
The nation is the thousand-year heritage left by our ancestors, the succeeding generations must demonstrate their ability to preserve it, as well as the courage to repel foreign invaders to secure the country and expand the territory.
Vua Trần Nhân Tông không những lo đối phó với nhà Nguyên mà còn phải lo giải quyết vấn đề Chiêm Thành trong sự nỗ lực xây dựng mối quan hệ ngoại giao thân thiện với quốc gia láng giềng nằm ở biên giới phía Nam của Việt Nam. Vào tháng Giêng năm Thiệu Bảo thứ nhất 1279 vua Chiêm cử một phái bộ gồm các nhân vật Chế Năng và Chế Diệp... đến nước ta để cầu thân và cầu viện binh. Đến tháng 12 năm 1279 bọn quân Nguyên kéo binh sang xâm lược nước Chiêm Thành, vua Trần Nhân Tông gởi sang hai vạn quân và 500 chiến thuyền chi viện, giúp Chiêm Thành đẩy lui được quân Nguyên.
King Tran Nhan Tong not only had to deal with the Yuan Dynasty but also had to solve the problem of Champa in an effort to build friendly diplomatic relations with the neighboring country located on the southern border of Vietnam. In January of the first year of Thieu Bao, 1279, the king of Champa sent a delegation including Che Nang and Che Diep... to our country to ask for friendship and military aid. In December of 1279, the Yuan army invaded Champa. King Tran Nhan Tong sent 20,000 troops and 500 warships to support, helping Champa repel the Yuan army.
Món quà ngoại giao muôn mặt, là vô cùng tinh vi sâu sắc, bấy giờ vua Chiêm Thành là Chế Mân, trước sau gì cũng phải trả. Sau khi Thượng Hoàng đã xuất gia mà vẫn còn mối quan tâm đặc biệt với đất nước, nhất là cuộc vân du nhiều tháng nơi Chiêm quốc của Ngài vào tháng 3 năm 1304, theo ĐVSKTT, qua sự thương thảo sau đó, Chế Mân đem 2 châu Ô và Rí để tạ ơn và làm sính lễ cưới Huyền Trân Công Chúa.
The multifaceted diplomatic gift was extremely sophisticated and profound. At that time, the king of Champa, Che Man, would have to pay it back sooner or later. After the Retired Emperor had become a monk, he still had a special concern for the country, especially his many-month journey to Champa in March 1304. According to the Dai Viet Sutra, through subsequent negotiations, Che Man brought the two provinces of O and Ri to express gratitude and as a dowry to marry Princess Huyen Tran.
Vua Trần Nhân Tông với viễn kiến nhìn xa thấy rộng đặt nền móng mở mang bờ cõi sang phía Nam để giữ vững biên cương, phát triển xứ sở, tiếp tục tới đời chúa Nguyễn Hoàng sau 400 năm tiến xa vào tới miền đồng bằng sông Cửu Long và giáp giới tận cùng đến mũi Cà Mau.
King Tran Nhan Tong, with his far-sighted vision, laid the foundation for expanding the territory to the South to maintain the border and develop the country, continuing to the reign of Lord Nguyen Hoang after 400 years, advancing far into the Mekong Delta and bordering all the way to Ca Mau Cape.
Một sử kiện hào hùng của dân tộc là cuộc hội nghị Diên Hồng do Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông triệu tập các bô lão trong toàn quốc về họp vào tháng 12 năm 1284, hỏi kế sách đánh giặc. Để trả lời câu hỏi của vua về việc có nên đánh hay không, các vị bô lão đã “muôn người như cùng một lời”, đáp lại “nên đánh”, như sử gia Lê Mạnh Thát dẫn: Nhà sử học Ngô Sĩ Liên bình luận về hành động này, đã nói: “Thánh tông muốn làm thế để xem sự ái mộ thành thật của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên.” Đúng thế, hội nghị Diên Hồng là một cuộc vận động tư tưởng lớn, nhằm phổ biến rộng rãi chủ trương nhất định kháng chiến của vua Trần Nhân Tông và triều đình cùng quân đội tới toàn dân. (Toàn tập Trần Nhân Tông của Lê Mạnh Thát trang 50 do Nxb Tổng Hợp thành phố HCM ấn hành 2006).
A heroic event of the nation was the Dien Hong conference, in which the Retired Emperor Tran Thanh Tong summoned the elders of the whole country to meet in December 1284, asking for strategies to fight the enemy. In response to the king's question about whether to fight or not, the elders "all spoke with one voice", responding "we should fight", as historian Le Manh That quoted: Historian Ngo Si Lien commented on this action, saying: "The Holy King wanted to do this to see the sincere admiration of the common people and wanted them to hear the question and be moved with enthusiasm." That's right, the Dien Hong conference was a great ideological movement, aiming to widely disseminate the policy of determined resistance of King Tran Nhan Tong and the court and army to all the people. (Complete Works of Tran Nhan Tong by Le Manh That, page 50, published by Ho Chi Minh City General Publishing House in 2006).
Nhờ chính sách ngoại giao khéo léo mềm dẻo, nhân đạo, nhún nhường, thả các tù nhân của giặc trong 2 cuộc chiến năm 1285 và năm 1288, vua Trần Nhân Tông được toàn dân tôn kính, cũng như đối phương nể phục đức trị của ông vua một nước nhỏ yếu kém về mọi mặt: Kinh tế, chính trị, tài chánh, quốc phòng..., nhưng về mặt nhân tâm vua nước Việt có phần thắng lợi.
Thanks to his skillful, flexible, humane, and humble foreign policy, releasing enemy prisoners in the two wars of 1285 and 1288, King Tran Nhan Tong was respected by all the people, as well as the enemy admired the virtue of the king of a small, weak country in all aspects: Economy, politics, finance, national defense..., but in terms of people's hearts, the king of Vietnam was somewhat victorious.
Vua Trần Nhân Tông lên ngôi vua vào tháng 10 năm 1278 đến năm 1293 là 16 năm, rồi nhường ngôi lại cho con là Anh Tông lên trị vì năm 1293.
King Tran Nhan Tong ascended the throne in October 1278 until 1293, a period of 16 years, then gave the throne to his son Anh Tong, who reigned in 1293.
Việc thoái ngôi vị trong lúc vua Trần Nhân Tông tạo được uy thế cũng như uy tín trong lòng dân tộc một cách vẻ vang sau 2 cuộc chiến tranh thắng lợi lừng danh trong lịch sử, nhưng không vì thế Ngài tiếp tục nắm giữ quyền bính trong tay, mà giũ bỏ tất cả, phát đại nguyện xuất gia làm Tăng sĩ, chỉ có mỗi ba y với một bình bát, sống không nhà theo hạnh đầu đà như Phật Tổ, để có thì giờ và tâm lực phục vụ chúng sanh đúng theo tâm nguyện.
The abdication of the throne came at a time when King Tran Nhan Tong had gloriously created prestige and prestige in the hearts of the people after two famous victorious wars in history, but that did not mean that he continue to hold power in his hands, but give up everything, make a great vow to become a monk, with only three robes and an alms bowl, living homeless following the ascetic practice like Buddha, to have time and energy to serve sentient beings according to his wishes.
* Đối với đạo Phật Việt:
* Regarding Vietnamese Buddhism:
Nếu cho rằng Thiền tông Trung Hoa lột bỏ lớp áo của Ấn Độ từ Lục Tổ Huệ Năng thì, Thiền tông Việt Nam cũng bắt đầu từ Phật Hoàng Trần Nhân Tông, không còn hơi hướng của đạo Phật ngoại nhập mà bấy giờ là đạo Phật Việt thuần túy. Đó là do ảnh hưởng sâu đậm bởi hai dòng tư tưởng lớn của Tổ Bồ Đề Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng, cũng có một phần tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, vốn là cậu ruột và là thầy của vua Trần Nhân Tông hình thành như được đề cập ở sau.
If we assume that Chinese Zen Buddhism shed its Indian coat from the Sixth Patriarch Hui Neng, then Vietnamese Zen Buddhism also began with the Buddha King Tran Nhan Tong, no longer having the tendency of imported Buddhism but at that time was pure Vietnamese Buddhism. That was due to the deep influence of the two great schools of thought of Patriarch Bodhidharma and the Sixth Patriarch Hui Neng, also partly having the thoughts of Tuệ Trung Thuong Si Tran Quoc Tung, who was the uncle and teacher of King Tran Nhan Tong, formed as mentioned below.
Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Hoa truyền pháp do thầy của mình là Tổ Bát Nhã Đa La phó chúc. Ngài qua Đông Độ với một sứ mạng như Phật bổ xứ để làm sống lại đạo Phật, trong khi bị lu mờ chính nơi phát xuất tại Thiên Trúc (Ấn Độ). Tổ đến Trung Hoa trong khi đạo Phật đã du nhập Trung quốc chừng bốn thế kỷ trước đó, nhưng hình như không hội nhập được vào dòng chính của văn hóa bản địa. Vì tại đấy đã có đạo Lão, đạo Khổng bắt được gốc rễ từ đầu trong lòng dân tộc Trung Hoa, nên đạo Phật đến sau được xem như là thứ yếu, niềm tin của quần chúng vào đạo Phật hãy còn lơ là lỏng lẻo, vì không có cơ sở vững chắc. Bằng chứng hiển nhiên dễ thấy qua thái độ người Trung quốc đối với Ngài Đạt Ma lúc đầu mới đến nơi đất Ngụy, chùa Thiếu Lâm trên ngọn Tung Sơn, họ nhìn Ngài như một người xa lạ nếu không muốn nói như vô cảm qua câu “ông Bà-la-môn nhìn vách” (bích quán Bà la môn) thành ra có một khoảng cách khá lớn, để tiếp xúc gần gũi. Phải chăng đây chính là động lực để Tổ ngồi tham thiền nhập định suốt chín năm? Nếu như nhận định này đúng thì thật quả việc Tổ diện bích là xứng đáng để cho tinh hoa Phật giáo phát tiết sau này như chủ trương của Tổ Đạt Ma:
Patriarch Bodhidharma went to China to transmit the Dharma, entrusted by his teacher, Patriarch Bat Nha Da La. He went to the East with a mission like Buddha to revive Buddhism, while it was overshadowed in its place of origin in India. The Patriarch came to China while Buddhism had been introduced to China about four centuries before, but it seemed that it could not integrate into the mainstream of the local culture. Because there were already Taoism and Confucianism that had taken root in the hearts of the Chinese people, Buddhism that came later was considered secondary, and the people's faith in Buddhism was still lax, because it did not have a solid foundation. The evidence is obvious and easy to see through the attitude of the Chinese people towards Bodhidharma when he first arrived in Wei land, Shaolin Temple on Mount Song, they looked at him as a stranger, if not to say indifferent, through the phrase "Brahmin looking at the wall" (bich quan Ba la mon), so there was a large distance, to get close to each other. Could this be the motivation for the Patriarch to sit in meditation for nine years? If this assessment is correct, then the act of the Patriarch facing the wall is truly worthy of the quintessence of Buddhism to be revealed later, as advocated by Patriarch Bodhidharma:
Bất lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.
No text established
Separate transmission outside the teachings
Directly pointing to the human mind
Seeing nature and becoming a Buddha.
Nghĩa
Meaning
Không lập văn tự
Truyền ngoài giáo pháp
Chỉ thẳng tâm người
Thấy tánh thành Phật.
No text established
Transmitting outside the teachings
Directly pointing to the human mind
Seeing nature and becoming a Buddha.
Tới đây phải nói là đạo Phật nhảy vọt một bước tiến khá xa trên đường hoằng hóa mà Thiền tông Trung Quốc mở đầu cho tư trào khai phóng này mãi cho tới ngày nay qua bao nhiêu đời truyền thừa, từ Sơ Tổ Đạt Ma, đến Lục Tổ Huệ Năng cũng như trên 30 vị Tổ sư thiền khác chỉ riêng Trung Quốc mà chưa kể đến Phật giáo Thiền tông các quốc gia Đông Nam Á Châu khác. Như trăm hoa đua nở, Phật giáo phát triển cực thịnh vào đời Đường (618-907) suốt 300 năm tại Trung Quốc, hơn 200 năm tại Nhật Bản (vào đời Thánh Đức Thái Tử Sotoku Taishi (574-622) cho đến dòng dõi Đức Xuyên (Toku Gawa) và gần 400 năm tại Việt Nam vào đời Lý - Trần từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 13, Phật giáo gần như là quốc giáo tại 3 quốc gia như vừa nêu trên.
Here it must be said that Buddhism has made a huge leap forward on the path of propagation, which Chinese Zen Buddhism initiated for this liberal movement that has lasted until today through many generations of transmission, from the First Patriarch Bodhidharma, to the Sixth Patriarch Hui Neng as well as over 30 other Zen masters in China alone, not to mention Zen Buddhism in other Southeast Asian countries. Like a hundred flowers blooming, Buddhism flourished during the Tang Dynasty (618-907) for 300 years in China, more than 200 years in Japan (during the reign of Prince Sotoku Taishi (574-622) until the Toku Gawa lineage) and nearly 400 years in Vietnam during the Ly - Tran Dynasty from the 10th to the 13th century, Buddhism was almost the state religion in the three countries mentioned above.
Tư tưởng Thiền Phật giáo như cắm sâu gốc rễ vào vùng đất Trung Hoa manh nha từ Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma cho đến 200 năm sau tới đời Lục Tổ Huệ Năng (638-713) chủ trương Nam đốn Bắc tiệm hay Nam Năng Bắc Tú qua kệ ngộ đạo của Ngài như sau:
The Zen Buddhist ideology seemed to have taken deep roots in the land of China from the first Patriarch Bodhidharma until 200 years later until the reign of the Sixth Patriarch Hui Neng (638-713) who advocated the Southern sudden Northern gradual or Southern Neng Northern Tu through his enlightenment verse as follows:
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhứt vật
Hà sử nhạ trần ai?
Bodhi has no tree
The bright mirror is also not a stand
Originally there is nothing
Why should I be covered with dust?
Nghĩa:
Meaning:
Bồ đề chẳng phải cây
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào nhiễm trần ai?
Bodhi is not a tree
The bright mirror is not a stand
There is no place in the past
where is there any thing contaminated by the world?
Ngài Huệ Năng cũng cải cách công cuộc truyền thừa pháp không truyền trao y bát từ Thầy xuống đệ tử như từ trước mà chấm dứt kể từ sau đời Ngài. Tinh thần khế lý và khế cơ như lời Phật dạy đã được thẩm thấu qua hơi thở Trung Hoa mà Lục Tổ cùng chư Tổ đem ứng dụng thành công và lưu truyền ở đời.
Master Hui Neng also reformed the process of transmitting the Dharma, not passing the robe and bowl from Master to disciple as before, but ending after his time. The spirit of appropriateness and appropriateness as taught by Buddha was permeated through the Chinese breath that the Sixth Patriarch and the Patriarchs successfully applied and passed down to the world.
Vua Trần Nhân Tông chịu ảnh hưởng tư tưởng Thiền của Sơ Tổ Đạt Ma, Lục Tổ Huệ Năng và cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ không ít, mặc dù ông chỉ là cư sĩ, chứ chưa là Tăng sĩ. Ảnh hưởng như thế nào? Theo như Thánh Đăng Ngữ Lục thì Trần Nhân Tông đã “tham học với Tuệ Trung Thượng Sĩ, sâu được cốt tủy của thiền, nên thường lấy lễ thầy mà thờ”. Theo giáo sư Lê Mạnh Thát, vậy người truyền tâm ấn cho Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ai khác hơn là Tuệ Trung Thượng Sĩ, “danh tướng đã giải phóng Thăng Long trong cuộc chiến vệ quốc năm 1285, và người đã đi điều đình với giặc ở căn cứ Vạn Kiếp, để cho quân ta có cơ hội tấn công chúng.” (Sđd trang 170)
King Tran Nhan Tong was influenced by the Zen thought of the First Patriarch Bodhidharma, the Sixth Patriarch Hui Neng, and was also influenced by the thought of Tuệ Trung Thuong Si, although he was only a layman, not yet a monk. How was he influenced? According to Thanh Dang Ngu Luc, Tran Nhan Tong "studied with Tuệ Trung Thuong Si, deeply understood the essence of Zen, so he often worshiped the teacher." According to Professor Le Manh That, so the person who transmitted the heart seal to the retired Emperor Tran Nhan Tong was none other than Tue Trung Thuong Si, “the famous general who liberated Thang Long in the war to defend the country in 1285, and who went to negotiate with the enemy at the Van Kiep base, so that our army had the opportunity to attack them.” (Ibid., page 170)
Khi Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung mất, vua Trần Nhân Tông đã viết tiểu sử của vị thầy, đồng thời cũng là cậu ruột của mình. Nhân đó, vua Trần Nhân Tông đã kể lại kinh nghiệm ngộ đạo của mình như sau: “Trước đây khi ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh Mẫu Hậu, nhân đó đi mời Thượng Sĩ. Người trao cho hai bộ ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên. Ta thấy Thượng Sĩ sống rất thế tục, nên sinh ngờ vực, bèn giả bộ ngây thơ lén hỏi: ‘Chúng sinh quen nghiệp uống rượu, ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo?’ Thượng Sĩ giải rõ: ‘Giả như có người đứng quay lưng lại, bỗng có nhà vua đi qua sau lưng, người kia bất ngờ ném một vật gì đó trúng vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như vậy phải biết hai việc không liên quan với nhau.’ Bèn mới viết hai bài kệ để chứng tỏ:
When Tue Trung Thuong Si Tran Quoc Tung passed away, King Tran Nhan Tong wrote a biography of his teacher, who was also his uncle. On that occasion, King Tran Nhan Tong recounted his experience of enlightenment as follows: “Before I became a monk, I encountered the time of mourning for the late Nguyen Thanh Mau Hau, so I went to invite Thuong Si. He gave me two sets of sayings by Tuyet Dau and Da Hien. I saw that Thuong Si lived a very worldly life, so I became suspicious, so I pretended to be naive and secretly asked: ‘Living beings are used to drinking alcohol and eating meat, so how can they avoid retribution?’ Thuong Si explained clearly: ‘Suppose there is a person standing with his back turned, and suddenly the king passes by Behind, the other person suddenly threw something and hit the king. Was he afraid? Was the king angry? Thus, one must know that the two things are not related.' So he wrote two verses to prove:
Vô thường các pháp hành
Lòng nghi, tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.
All dharmas are impermanent
If one doubts, sin immediately arises
There has never been a single thing
Whether it is the same or the same, it is not a seed.
Lại nói:
It is also said:
Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm ra
Tâm cảnh xưa nay chẳng
Chốn chốn đều ba la.
Every day when facing situations
The situation comes from the mind
The mind and situation have never been
Everywhere is the three lamas.
Ta hiểu ý, chặp lâu mới nói: “Tuy là như thế, nhưng tội phước đã rõ thì làm sao?” Thượng Sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:
I understood the meaning, and after a while, I said: "Although it is like that, but what can we do if sin and virtue are clear?" The Master continued to read the verses to instruct:
Ăn cỏ với ăn thịt
Chúng sinh mỗi có thức
Xuân đến trăm cỏ sinh
Chỗ nào thấy họa phúc.
Eating grass or eating meat
All living beings have consciousness Spring comes, hundreds of grasses grow. Where do you see misfortune or happiness? I said: “If that is the case, then what is the point of diligently maintaining pure conduct without any distraction?” The monk only smiled and did not answer. I asked again, and the monk composed two verses to confirm for me:
Ta nói: “Chỉ như thế thì công phu giữ sạch phạm hạnh không chút xao lãng để làm gì.” Thượng Sĩ chỉ cười mà không đáp. Ta lại thỉnh ích (hỏi lần nữa), Thượng Sĩ lại làm thành 2 bài kệ, để ấn chứng cho ta:
Keeping precepts with patience will bring sin and not blessings. If you want to know whether there is no sin or blessing,
If you do not keep precepts and patience,
Trì giới với nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phúc
Muốn biết không tội phúc
Chẳng trì giới nhẫn nhục.
He also said:
Lại nói:
Like a person climbing a tree,
While still, he seeks danger for himself.
Like a person who no longer climbs,
What can the moon and wind do?
Như người lúc leo cây
Đang yên tự tìm nguy
Như người không leo nữa
Trăng gió làm được gì?
He also secretly told me: “Do not tell someone who is not worthy.”
Lại kín đáo dặn ta: “Chớ bảo cho người không đáng.”
According to historian Le Manh That, also through From the above passage, we know the time of the king's enlightenment, which was in the spring of Dinh Hoi year (1278), when the whole country was bustlingly preparing forces in all aspects to deal with the third invasion of the Yuan army, and that was when Nguyen Thanh Thien Cam Hoang Thai Hau passed away, as recorded in DVSKTT 5, page 51 b5: "When his mother passed away, King Tran Nhan Tong invited his mother's brother, Tue Trung Thuong Si Tran Quoc Tung, to attend the funeral. On that occasion, a dialogue took place between the two, which we just quoted above, and was recorded by King Tran Nhan Tong himself. Tue Trung certified King Tran Nhan Tong in that dialogue." (Ibid., pages 172 and 173)
Theo sử gia Lê Mạnh Thát, cũng chính qua đoạn văn trên ta biết thời gian chứng ngộ của vua, đó là vào mùa xuân năm Đinh Hợi (1278), khi cả nước đang rầm rộ chuẩn bị lực lượng về mọi mặt để đối phó với cuộc xâm lược lần thứ ba của quân Nguyên, và đó là lúc Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái Hậu mất, như ĐVSKTT 5 tờ 51 b5 đã ghi: “Nhân lúc mẹ mình mất, vua Trần Nhân Tông đã đến mời người anh của mẹ là Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung đến dự tang. Vào dịp ấy, đã xảy ra cuộc đối thoại giữa hai người, mà ta vừa dẫn trên, và do chính vua Trần Nhân Tông ghi lại. Tuệ Trung đã ấn chứng cho vua Trần Nhân Tông trong cuộc đối thoại đó.” (Sđd trang 172 và 173)
Due to such ideological influence, later King Tran Nhan Tong wrote Cu Tran Lac Dao Phu as a guide for the development of Buddhism completely secular, with no distinction between lay and monastic life. It should be known that this is also the reason for the secularization of Buddhism only existed for about four hundred years later (from 1300 to 1695). It was not until more than 250 years later in the mid-20th century that Venerable Thanh Tu began to restore the Truc Lam Yen Tu Zen sect through the work of opening monasteries, accepting disciples, establishing Zen rules in many places in the country and expanding to other countries such as the United States, Canada, France, Australia, etc.
Do ảnh hưởng tư tưởng như thế, nên sau này vua Trần Nhân Tông viết Cư Trần Lạc Đạo Phú là chỉ nam cho sự phát triển của Phật giáo hoàn toàn thế tục, không có sự cách biệt giữa tại gia và xuất gia. Nên biết rằng, đây cũng là nguyên nhân để Phật giáo thế tục hóa chỉ tồn tại được chừng bốn trăm năm sau (từ 1300 đến 1695). Mãi cho đến hơn 250 năm sau đó vào giữa thế kỷ 20, Hòa thượng Thanh Từ mới nhen nhúm khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử qua công cuộc khai mở đạo tràng, tiếp nạp đồ chúng, lập thiền quy tại nhiều nơi ở trong nước và mở rộng ra các nước khác như Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Úc Đại Lợi v.v...
Thich Bao Lac
Thien Lam Phap Bao Sydney, March 1, 2018
Thích Bảo Lạc
Thiền Lâm Pháp Bảo Sydney, ngày 1 tháng 3 năm 2018
________________

 Reference documents
________________

 Tài liệu tham khảo
- Complete Annals of Dai Viet by Ngo Si Lien
- Đại Việt Sử Ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên
- Zen Buddhism by Venerable Chan Nguyen compiled based on the book Thanh Dang Luc recounting the meditation practice and enlightenment of 5 kings of the Tran Dynasty, translated and interpreted by Venerable Thanh Tu, Ho Chi Minh City Publishing House 1998
- Thiền tông bản hạnh của HT. Chân Nguyên biên soạn y cứ theo quyển Thánh Đăng Lục kể lại sự tu thiền ngộ đạo của 5 ông vua đời Trần, HT. Thanh Từ dịch giải, nxb Thành phố HCM 1998
- Complete Works of Tran Nhan Tong by historian Le Manh That, Ho Chi Minh City General Publishing House, 2006 - VN
- Toàn tập Trần Nhân Tông của sử gia Lê Mạnh Thát, nxb Tổng Hợp Thành phố HCM năm 2006 - VN
- Buddhist Dictionary by Phat Quang Son, Taipei Phat Quang Son Publishing House, volume 6, 2000, translated by Venerable Quang Do
- Phật học Đại Từ Điển của Phật Quang Sơn, nxb Phật Quang Sơn Đài Bắc tập 6 năm 2000, do HT. Quảng Độ dịch
- Platform Sutra of the Sixth Patriarch, translated by Venerable Hue Hung.
- Lục Tổ Đàn Kinh, do HT. Huệ Hưng dịch.




    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Chuyện Phật đời xưa


Pháp Hoa Văn Cú - Tập 1


Gọi nắng xuân về


Sống đẹp giữa dòng đời

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học