Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)

Khó khăn thách thức làm cho cuộc sống trở nên thú vị và chính sự vượt qua thách thức mới làm cho cuộc sống có ý nghĩa. (Challenges are what make life interesting and overcoming them is what makes life meaningful. )Joshua J. Marine
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Hãy học cách vui thích với những gì bạn có trong khi theo đuổi tất cả những gì bạn muốn. (Learn how to be happy with what you have while you pursue all that you want. )Jim Rohn
Thành công là tìm được sự hài lòng trong việc cho đi nhiều hơn những gì bạn nhận được. (Success is finding satisfaction in giving a little more than you take.)Christopher Reeve
Một số người mang lại niềm vui cho bất cứ nơi nào họ đến, một số người khác tạo ra niềm vui khi họ rời đi. (Some cause happiness wherever they go; others whenever they go.)Oscar Wilde
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Hãy nhã nhặn với mọi người khi bạn đi lên, vì bạn sẽ gặp lại họ khi đi xuống.Miranda

Trang chủ »» Danh mục »» SÁCH TẠP BÚT - TRUYỆN KÝ »» Tìm hiểu một trong 5 việc của Đại Thiên »» Xem đối chiếu Anh Việt: Tìm hiểu một trong 5 việc của Đại Thiên »»

Tìm hiểu một trong 5 việc của Đại Thiên
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Tìm hiểu một trong 5 việc của Đại Thiên

(Lượt xem: 8.942)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Tìm hiểu một trong 5 việc của Đại Thiên

Learn one of the five things of Dai Thien

I.- ĐẠI THIÊN LÀ AI?
I.- WHO IS DAI THIEN?
Đại Thiên là nhân vật xuất hiện sau Phật nhập Niết Bàn 100 năm, hay sau Phật 200 năm? một nhân vật gây sóng gió không những trong Tăng đoàn thời bấy giờ, còn để lại hậu quả lâu dài mà các học giả, các nhà nghiên cứu không ngớt tranh luận. Có những nhà nghiên cứu sử xem ông ta là thủy tổ của Đại chúng bộ, thậm chì là Đại thừa. Điều này không đúng, vì theo quan điểm của Kimura Taiken thì dựa vào văn hóa của Ấn Độ và những tác phẩm trước và sau công nguyên, tư tưởng Đại thừa chưa được hình thành. Trong khi đó lịch sử phiên dịch kinh tạng của Trung Quốc ghi nhận đến thế kỷ thứ II sau Tây Lịch kinh điển Đại thừa mới bắt đầu được phiên dịch. Cho nên học giả Kimura Taiken cho rằng nếu nhận định Phật giáo Đại thừa hình thành từ trước kỷ nguyên Tây lịch thì không phù hợp. Trong khi đó nhà nghiên cứu Lữ Trừng lại cho rằng Đại thừa Phật giáo hình thành vào giữa thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ IV Công nguyên. Ta thấy hai nhà nghiên cứu này, đều cho rằng Đại thừa Phật giáo không thể hình thành từ trước kỷ nguyên của Tây lịch.
Dai Thien is a character who appeared 100 years after Buddha entered Nirvana, or 200 years after Buddha? A character who caused turmoil not only in the Sangha at that time, but also left long-term consequences that scholars and researchers have constantly debated. There are historical researchers who consider him the founder of the Mahasanghika, or even Mahayana. This is not correct, because according to Kimura Taiken's point of view, based on Indian culture and works before and after the Christian era, Mahayana thought had not yet been formed. Meanwhile, the history of translating Chinese Buddhist scriptures recorded that it was not until the 2nd century AD that Mahayana scriptures began to be translated. Therefore, scholar Kimura Taiken believes that it is inappropriate to assume that Mahayana Buddhism was formed before the Christian era. Meanwhile, researcher Lu Trung believes that Mahayana Buddhism was formed between the 1st and 4th centuries AD. We see that these two researchers both believe that Mahayana Buddhism could not have been formed before the Western era.
Một Đại Thiên khác sau Phật 200 năm, theo Phật Quang Đại từ điển: "Vị tổ khai sáng Chế Đa Sơn bộ Tiểu thừa; lúc đầu ngài theo ngoại đạo, trở thành lãnh tụ của phái Tặc trụ. Sau ngài bỏ ngoại đạo xuất gia với Đại chúng bộ, được đặt tên là Đại Thiên.
Another Dai Thien 200 years after Buddha, according to the Buddhist Quang Dai Dictionary: "The founder of the Hinayana sect, Che Da Son; at first he followed the heretics, becoming the leader of the Tac Tru sect. Later he abandoned the heretics to become a monk with the Mahasangha sect, and was named Dai Thien.
Do lịch sử phân phái từ sự bất đồng tranh chấp quan điểm về 5 việc của Đại Thiên, xẩy ra sau Phật 100 năm, từ đó người ta kết luận Đại Thiên xuất hiện sau Phật nhập diệt 200 chỉ là nhân vật kế thừa trùng tuyên lại 5 việc của Đại Thiên đầu tiên.Ngài Huyền Trang cũng đồng quan điểm này nên bảo Đại Thiên sau 200 năm Phật nhập diệt là nhân vật "trùng tùng ngũ sự".
Due to the history of sectarian divisions from disagreements and disputes about the 5 things of Dai Thien, which occurred 100 years after Buddha, people concluded that Dai Thien appeared 200 years after Buddha's death and was just a character who inherited and repeated the 5 things of the first Dai Thien. Master Huyen Trang also agreed with this point of view, so he said that Dai Thien 200 years after Buddha's death was a character who "repeated the five things".
II.- Sự phân phái sau Phật nhập diệt do 10 việc (thập sự) hay do 5 việc (ngũ sự) xuất phát trong Tăng đoàn?
II.- The sectarian divisions after Buddha's death originated from 10 things (ten things) or 5 things (five things) within the Sangha?
Sự phân phái đã từng xảy ra hai lần trong thời kỳ Phật còn tại thế. Lần phân phái thứ nhất ở Kausambi được giải quyết nhanh chóng. Lần phân phái thứ hai, do Devadatta chủ xướng, dẫn tới thành lập một bộ phái riêng rẽ. Dưới thời vua Asoka (300 trước CN), Phật giáo tuy đại thịnh, nhưng nội bộ Phật giáo đã có sự chia rẽ nghiêm trọng, mà Asoka có nói tới trong các trụ đá ở Kosambi, Sanchi và Sarnath. Trong các trụ đá, Asoka đe dọa sẽ tẩn xuất khỏi Tăng chúng tất cả những ai chủ xướng chia rẽ và phân phái. Nhưng cũng dưới thời Asoka đã xảy ra lần phân phái nghiêm trọng và lớn nhất, khiến tách ra bộ phái Ðại chúng bộ, chiếm số đông, tán thành 5 điểm của Mahadeva (Ðại Thiên), đối lập với Thượng tọa bộ, thiểu số và có tư tưởng bảo thủ.
The schism occurred twice during the Buddha's lifetime. The first schism in Kausambi was quickly resolved. The second schism, initiated by Devadatta, led to the establishment of a separate sect. During the reign of King Asoka (300 BC), although Buddhism flourished, there was a serious split within Buddhism, which Asoka mentioned in the stone pillars in Kosambi, Sanchi and Sarnath. In the stone pillars, Asoka threatened to expel from the Sangha all those who advocated division and schism. But also during Asoka's reign, the most serious and largest schism occurred, which led to the separation of the Mahasanghika sect, which occupied the majority and approved of the 5 points of Mahadeva (Great Heaven), in opposition to the Theravada sect, which was a minority and had a conservative ideology.
Phân phái là hệ quả tất yếu cho sự phát triển của đạo Phật hay trong bất cứ tổ chức nào một khi tồn tại và phát triển với thời gian, không gian sở tại, đáp ứng nhu cầu đương thời để cập nhật hóa Phật giáo với đương xứ.. đồng thời hòa nhập với phong tục tập quán tín ngưỡng bản địa tránh mọi xung đột mà vẫn tồn tại và phát triển. Đó là đặc tính "tùy thuận" "tùy duyên" của Phật Phật giáo.
Sectarianism is an inevitable consequence for the development of Buddhism or in any organization once it exists and develops with time, local space, meeting the contemporary needs to update Buddhism with the locality... at the same time integrating with local customs and beliefs to avoid all conflicts while still existing and developing. That is the "accommodating" and "depending on circumstances" characteristic of Buddhism.
Sau khi Đức Phật diệt độ, các môn đệ cũng như các tăng sỹ trong hàng ngũ tăng già có quan điểm khác nhau về giáo lý và giới luật của Đức Phật, thể hiện rõ ở hai quan điểm bảo thủ và cách tân. Đại đa số các tăng sĩ, trong đó có Ca Diếp, đều theo quan điểm bảo thủ, chủ trương bảo vệ truyền thống, nghĩa là “không ai được thêm bớt chút nào trong các luật lệ mà Đức Thế Tôn đã ban hành”, giữ nguyên lời giảng của Đức Phật lúc còn tại thế. Trái lại, những người theo quan điểm cách tân như A Nan lại cho rằng, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, có thể thêm bớt vào những lời giảng, những giới luật của Đức Phật cho phù hợp.
After the Buddha's death, the disciples as well as the monks in the Sangha had different views on the Buddha's teachings and precepts, clearly shown in two conservative and innovative views. The vast majority of monks, including Kasyapa, followed the conservative view, advocating the protection of tradition, meaning "no one is allowed to add or subtract anything to the laws that the Buddha promulgated", keeping the teachings of the Buddha when he was alive. On the contrary, those who follow the innovative view like Ananda believe that, depending on the specific circumstances, it is possible to add or subtract to the teachings and precepts of the Buddha to suit.
Sự khác nhau trong quan niệm về giới luật là nguyên nhân thứ hai của quá trình phân phái. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, những người theo quan điểm tiến bộ chủ trương sửa đổi lại một số luật lệ truyền thống cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại. Theo họ, nếu tất cả những điều xưa kia bị cấm, thì trong hoàn cảnh hiện tại, có thể được phép làm mà không phạm giới. Trong khi đó, phần lớn các trưởng lão, các tăng sỹ cương quyết giữ nguyên giới luật truyền thống, không thay đổi, thêm bớt, dù là nhỏ nhất. Điều này dẫn đến sự khác nhau về giới luật giữa các tăng đoàn.
The difference in the concept of precepts is the second cause of the process of division. After the Buddha entered Nirvana, those who followed the progressive view advocated revising some traditional rules to suit the current situation. According to them, if all the things that were forbidden in the past, then in the current situation, they can be allowed to do without breaking the precepts. Meanwhile, most of the elders and monks firmly maintained the traditional precepts, without changing or adding or subtracting even the smallest thing. This led to differences in precepts among the Sangha.
Nguyên nhân thứ ba, là sự khác nhau về triết học và giáo lý trong nội bộ Phật giáo. Chẳng hạn, ở phạm vi triết lý, có hai lập trường khác nhau về vấn đề bản thể luận. Quan điểm “hữu luận” chủ trương thế giới vật chất tồn tại chân thực và hiện hữu tương đối. Ngược lại, quan điểm “không luận” lại cho rằng, thế giới vạn vật hiện hữu đấy, nhưng không có thật, cái gốc của nó vẫn là “không". Cũng tương tự như vậy, ở phạm vi giáo lý, các tăng sỹ phật tử cũng theo một mục đích tôn chỉ phấn đấu cho sự giải thoát cuối cùng là Niết bàn, nhưng họ lại có quan điểm khác nhau về cách thức giải thoát. Một số chủ trương mỗi người tự tu luyện để đạt Niết bàn, không ai có thể làm thay hoặc trợ giúp. Đó là sự giải thoát mang tính cá nhân – tự giác. Số khác lại quan niệm rằng, để giải thoát, con người không chỉ dựa vào bản thân, mà còn cần đến sự giúp đỡ từ bên ngoài - “giác giả giác tha”. Vì thế, có một số vị Bồ Tát đã đạt Niết bàn, tự nguyện ở lại cứu nhân độ thế, giải thoát chúng sinh.
The third reason is the difference in philosophy and doctrine within Buddhism. For example, in the philosophical scope, there are two different positions on the issue of ontology. The "existence" view advocates that the material world exists truly and is relatively present. On the contrary, the "emptiness" view believes that the world of all things exists, but is not real, its origin is still "emptiness". Similarly, in the doctrinal scope, Buddhist monks also follow a The ultimate goal of striving for liberation is Nirvana, but they have different views on the way to liberation. Some advocate that each person cultivates to attain Nirvana, no one can do it for them or help them. It is a personal liberation - self-awareness. Others believe that, to attain liberation, people not only rely on themselves, but also need help from the outside - "enlightened ones enlighten others". Therefore, there are some Bodhisattvas who have attained Nirvana, voluntarily staying to save people and liberate sentient beings.
Lúc bấy giờ, tuy phân phái, nhưng các bộ phái vẫn giao lưu trong tinh thần đồng đạo, thế nên giữa các bộ phái, quan hệ vẫn là quan hệ giữa những người đồng đạo. Khi Huyền Trang qua Ấn Ðộ vào thế kỷ VII Tây lịch, ngài nhận xét là các Tăng sĩ Tiểu thừa giáo và Ðại thừa giáo có thể ở cùng trong một chùa, một tu viện mà không xảy ra xích mích gì. Chỉ có điều khác là Tăng sĩ Tiểu thừa thì tụng các kinh sách Tiểu thừa, còn các Tăng sĩ Ðại thừa giáo thì tụng các kinh Ðại thừa. Tăng sĩ bất cứ thuộc bộ phái nào, đều được các chùa và tu viện Phật giáo tiếp đón tử tế lịch sự, theo đúng nghi thức của Tăng đoàn.
At that time, although there were sects, the sects still communicated in the spirit of fellow practitioners, so between the sects, the relationship was still that of fellow practitioners. When Xuanzang went to India in the 7th century AD, he commented that Hinayana and Mahayana monks could live together in the same temple, the same monastery without any conflicts. The only difference was that Hinayana monks chanted Hinayana scriptures, while Mahayana monks recited Mahayana scriptures. Monks of any sect were received politely and courteously by Buddhist temples and monasteries, according to the Sangha's rites.
Vậy 10 việc lúc bấy giờ là gì?
So what were the 10 things at that time?
Thập sự phi pháp là 10 việc không hợp với luật Phật chế do Vajjiputtaka chủ xướng sau khi Phật nhập diệt 100 năm. Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ hai diễn ra sau Hội nghị kết tập lần thứ nhất khoảng một trăm năm. Nguyên nhân đưa đến hội nghị kết tập kinh điển lần này là do một số Tỳ kheo sống tại thành phố Phệ Xá Li (Vesali) đề xướng mười điều không có trong giới luật do Phật chế, nhưng họ tự cho là hợp pháp. Mười điều đó bao gồm:
The Ten Illegal Things were 10 things that were not in accordance with the Buddhist precepts, initiated by Vajjiputtaka 100 years after the Buddha's passing. The second Buddhist scripture council took place about a hundred years after the first Buddhist scripture council. The reason for this Buddhist scripture council was that some monks living in the city of Vesali proposed ten things that were not in the Buddhist precepts, but they considered them legal. Those ten things include:
1. Diêm tịnh: thức ăn ướp muối để cách đêm vẫn được dùng. 2. Chỉ tịnh: có thể ăn quá giờ ngọ một chút, trong khoảng thời gian mặt trời xế bóng chừng hai lóng tay. 3. Tụ lạc gian tịnh: được ăn thêm lần nữa nếu đến làng khác mà chưa quá ngọ. 4. Trụ xứ tịnh: ở đâu thì bố tát tại đó. 5. Tùng ý tịnh: những quyết định đã thông qua, dù đa phần hay thiểu số, đều có hiệu lực. 6. Cửu trụ tịnh: làm theo thói quen tiền lệ vẫn không trái với giới luật. 7. Sinh hòa hợp tịnh: sau giờ ngọ, có thể uống nước pha với sữa. 8. Bất ích lũ ni sư đàn tịnh: tọa cụ nếu không có viền chung quanh thì có thể dùng khổ lớn hơn quy định. 9. Thủy tịnh: có thể dùng rượu pha với nước để uống trong trường hợp chữa bệnh. 10. Kim tiền tịnh: trong trường hợp cần thiết, Tỳ kheo có thể giữ tiền bạc.
1. Salt and purity: food preserved in salt and left overnight can still be used. 2. Only purity: one can eat a little after noon, within a period of The time the sun sets is about two finger widths. 3. The village is quiet: one can eat again if one arrives at another village before noon. 4. The place of residence is quiet: one can observe the confession at the place where one is. 5. The decision that has been passed, whether majority or minority, is valid. 6. The nine dwellings are quiet: following the previous habits is not against the precepts. 7. The place of birth is quiet: after noon, one can drink water mixed with milk. 8. The place of no use for nuns: if the sitting mat does not have a border around it, it can be larger than the prescribed size. 9. The place of water is quiet: one can use wine mixed with water to drink in case of medical treatment. 10. The place of money is quiet: in case of necessity, a monk can keep money.
Trưởng lão Da xá cho 10 việc trên đây trái với luật Phật chế, là phi pháp. Để xét lại căn cứ giới luật của 10 việc trên đây, ngài bèn tổ chức kết tập lần thứ 2 Kết quả, Thượng tọa bộ đã nhất trí cho rằng 10 việc này trái với luật Phật chế
Elder Da Xa considered the above 10 things to be contrary to the Buddha's law and illegal. To review the precepts of the above 10 things, he organized a second council. As a result, The Theravada school unanimously agreed that these 10 things are contrary to the Buddha's laws.
Và 5 việc của Đại Thiên đưa ra:
And the 5 things that Dai Thien brought up:
"Dư sở dụ, vô tri, Do dự, tha linh nhập, Ðạo nhân thanh cố khởi, Thị danh chân Phật giáo"
"Du so du, vo tri, Do doi, tha linh nhap, Ðao nhan thanh co khoi, Thi danh chan Phat giao"
Nghĩa là:
Meaning:
(1) Bậc A La Hán tuy đã đoạn tận hết phiền não nhưng vì còn nhục thân nên về sinh lý vẫn có hiện tượng di tinh trong mộng mị (Dư sở dụ).
(1) Although an Arhat has completely eliminated all afflictions, because he still has a physical body, physiologically he still has the phenomenon of spermatorrhea in his dreams (Du so du).
(2) A La Hán đã đoạn tận vô minh nhưng không phải là người biết hết mọi điều trong đời sống thế tục (vô tri).
(2) An Arhat has completely eliminated ignorance but is not someone who knows everything in worldly life (no tri).
(3) A La Hán tuy không còn do dự về con đường giải thoát, nhưng vẫn còn những do dự về các điều vô hại, như làm thế nào thì hợp lý, thế nào thì không (Do dự).
(3) Although an Arhat no longer hesitates about the path to liberation, he still has hesitations about harmless things, such as what is reasonable and what is not (Do doi).
(4) Có vị đã chứng đắc A La Hán đôi khi phải nhờ Phật hay bậc sư trưởng chỉ dẫn mới biết là mình đã chứng ngộ (tha linh nhập).
(4) There are people who have attained Arhatship who sometimes have to rely on the Buddha or their teacher to guide them to know that they have attained enlightenment (tha linh (enter).
(5) A La Hán cũng có vị ngộ đạo nhờ vào âm thanh thuyết pháp, trong đó có sự thuyết khổ và than khổ (Ðạo nhân thanh cố khởi).
(5) Arhats also have enlightenment thanks to the sound of preaching, including the preaching of suffering and lamenting of suffering (Ðạo nhân thanh Cố Khởi).
Và ngài Ðại Thiên cho như vậy là hoàn toàn đúng với Phật pháp (Thị danh chân Phật giáo).
And the Great Heavenly Father thought that this was completely in accordance with Buddhism (This name is true Buddhism).
Thực tế năm điều mà ngài Ðại Thiên nêu ra, phải chăng là nhằm để so sánh quả vị Phật và A La Hán ? Ngài quan niệm rằng chỉ có Phật mới là hoàn hảo, còn A La Hán vẫn còn những khiếm khuyết. Quan niệm này đã dấy lên những bất đồng. Nhóm tán thành lập ra Ðại chúng bộ, nhóm phản đối, lập nên Thượng tọa bộ.
In reality, the five things that the Great Heavenly Father raised, were they intended to compare the Buddhahood and Arhatship? He believed that only the Buddha was perfect, while Arhats still had shortcomings. This concept gave rise to disagreements. The group that supported established the Mahasanghika, the group that opposed established the Theravada.
Vẫn còn nhiều nhà nghên cứu chưa đồng thuận vấn đề này. Nay chỉ xét vấn đề Đại Thiên đưa ra 5 việc đã bị Hữu bộ của Thượng tọa bộ phủ bác và kết án nặng nề, bị xem là ác kiến làm băng hoại Phật pháp.
There are still many researchers who do not agree on this issue. Now, let's just consider the issue of the five things that the Great Heavenly Father raised that were rejected and severely condemned by the Sarvastivada of the Theravada, considered as evil views that corrupted Buddhism.
Trường phái Thượng Tọa bộ phản bác Đại Thiên là việc đương nhiên, nhưng tại sao Đại chúng bộ lại ủng hộ Đại Thiên?
The Theravada school's rejection of the Great Heavenly Father is natural, but why did the Mahasanghika support it? support Dai Thien?
Theo thầy Hạnh Bình trong quyển "Nghiên cứu về 5 việc của Đại Thiên", nhận xét thì: "Không phải Đại Thiên tự nhiên trở thành một nhân vật được mọi người chú ý trong lịch sử Phật giáo của Ấn Độ, dĩ nhiên phải có một bối cảnh xã hội đặc thù nào đó, để hình thành 5 việc của ông; ông cũng không thể bổng nhiên trở thành người lãnh đạo tinh thần cho phái cải cách, lại được đại đa số Tăng chúng lúc bấy giờ chấp nhận, chắc chắn ở nơi ông có cái gì đó hợp lý, với tư tưởng trong sáng lành mạnh, mới có thể tạo thành nhân vật đáng tin cậy, có sức hấp dẫn, tạo thành sự đồng lòng của đa số giới Tỳ kheo trẻ, ông mới trở thành nhân vật lãnh đạo cho phái Đại chúng mang tư tưởng canh tân, làm người tiên phong, cho phong trào cải cách Phật giáo. Mặc dù, ông luôn luôn bị chỉ trích nặng nề bởi phái bảo thủ thậm chí trong "Đại Tỳ Ba Sa" còn kết tội ông là kẻ lăng loàn với mẹ, giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, ngay cả "kathvatthu" gọi ông là "ác kiến - tà kiến" ( nhà xuất bản Phương Đông, trang 15 sách NGHIÊN CỨU VỀ 5 VIỆC CỦA ĐẠI THIÊN) giấy phép xuất bản ngày 12/4/2014.
According to Master Hanh Binh in the book "Research on the 5 deeds of Dai Thien", he commented: "Dai Thien did not naturally become a figure that everyone paid attention to in the history of Buddhism in India. Of course, there must have been a specific social context to form his 5 deeds; he also could not suddenly become the spiritual leader of the reformist sect, and was accepted by the majority of the Sangha at that time. There must have been something reasonable in him, with pure and healthy thoughts, that could create a trustworthy character, with attractiveness, creating the consensus of the majority of young Bhikkhus. Only then did he become the leader of the Mahayana sect with reformist thoughts, a pioneer for the Buddhist reform movement. Although, he was always heavily criticized by the conservative faction, even in "Dai Ty Ba Sa" they accused him of being promiscuous with his mother, killing his father, killing his mother, killing an Arhat, even "kathvatthu" called him "evil view - wrong view" (Phuong Dong Publishing House, page 15 of the book RESEARCH ON THE 5 THINGS OF DAI THIEN) published on April 12, 2014.
Nếu chúng ta đứng từ góc độ này mà nhìn về Đại Thiên và 5 việc của ông, chúng ta thấy ở nơi ông có cái gì đó hợp lý." (cùng tựa đề như trên,trang 3 nhà xuất bản Tôn giáo, giấy phép xuất bản số: 01-1753/XB-QLXB ngày 7.10.2005).
If we look at Dai Thien and his 5 things from this perspective, we see that there is something reasonable in him. (same title as above, page 3 of the Religion Publishing House, published license number: 01-1753/XB-QLXB dated October 7, 2005).
Trường hợp Đại Thiên đưa ra 5 việc của bậc A La Hán, không hẳn là một cải cách như thầy quan niệm, đây chỉ là quan điểm cá nhân về trạng thái mà theo Đại thiên - là trạng thái bất toàn của một A La Hán. Nếu thầy bảo rằng quan điểm của Đại Thiên là hợp lý và trong sáng, thì cần phải xét lại.Trong bất cứ tổ chức, đoàn thể nào, luôn xuất hiện những quan điểm khai mở, lập dị... của cá nhân bất chợt nào đó, việc này không hẳn là một sáng kiến, nhưng thường thổi luồng gió mới để kích thích tính hiếu kỳ của một bộ phận nào đó trong một tập thể, nhất là tuổi trẻ. Vì thế, ta sẽ xét tính trong sáng và hợp lý mà thầy Hạnh Bình đã xác định trong phần diễn luận trên đây.
In the case of Dai Thien giving the 5 things of an Arhat, it is not necessarily a reform as the official concept, this is just a personal view on the state that according to Dai Thien - is the imperfect state of an Arhat. If the teacher says that Dai Thien's view is reasonable and pure, then it needs to be reconsidered. In any organization or group, there always appear open, eccentric views... of some sudden individual, this is not necessarily an initiative, but often brings a breath of fresh air to stimulate the curiosity of a certain part of a group, especially the youth. Therefore, we will consider the purity and reasonableness that teacher Hanh Binh has identified in the above discussion.
...Trong "Xá Lợi Phất A Tỳ đàm luận" dưới hình thức vấn đáp: phái Thượng Tọa bộ hỏi: -A La Hán có còn Tham, sân, si không? - Đại Thiên đáp:-Không. Các vị Thượng Tọa hỏi tiếp:- A La Hán có còn xuất tinh không? Đại Thiên đáp: - Có! Các vị Thượng tọa kết luận: - Nếu ông chấp nhận A La Hán không còn tham, sân, si thì ông không nên chủ trương A La Hán vẫn còn xuất tinh.
... In "Xá Lợi Phất A Tỳ luận" in the form of questions and answers: the Theravada sect asked: - Does an Arhat still have greed, anger, and ignorance? - Dai Thien replied: - No. The Venerables continued to ask: - Does an Arhat still ejaculate? Dai Thien replied: - Yes! The Venerables concluded: - If you accept that an Arhat no longer has greed, anger, and ignorance, then you It is not advisable to assert that Arhats still ejaculate. According to Master Hanh Binh, that is a hasty and careless accusation and should be asked further. So what is the point of asking further besides the precepts and teachings? Greed, anger, and delusion are the three poisons, the root of all defilements and afflictions. Solving the three poisons is solving all related problems. So, the Theravada sect asked Dai Thien about the three poisons. That is enough to conclude that the afflictions that affect the defilements of the mind that an Arhat is no longer affected by, so why ask further? Master Hanh Binh believes that ejaculation is a physical matter, while greed, anger, and ignorance are mental. The teacher said: "The difference is physical and mental. In terms of the spirit, of course, an Arhat no longer has greed, anger, or ignorance. However, in terms of the physical, an Arhat, although having attained Sainthood, still has a body of the four elements, so that body is still subject to natural laws, such as heat and cold, urination and defecation, and even physiological excretion. (The book cited, page 18, Phuong Dong Publishing House, page 15). That means, teacher Hanh Binh determined that psychology and physiology are completely separate and do not affect each other? Perhaps teacher Hanh Binh forgot "Abhidharma or Duy Thuc Tam Thap Tuong", Nhat Thiet Duy Tam Tao - then. The problem of physiological excretion such as runny nose, flu, heat and cold, urination and defecation... is inevitable for the body in response to weather, climate, and circulation in the body, but the physiological problem due to psychological impact, the Saint is the master of life and death, and proactive in physiological needs, so the two cannot be equated as one. If a practitioner still falls into the state of wet dreams, then he is not yet a practitioner who has attained the status of an Arhat.
Theo thầy Hạnh Bình cho đó là lời kết tội vội vã, thiếu thận trọng mà nên hỏi tiếp, vậy hỏi tiếp là hỏi vấn đề gì ngoài giới luật và giáo nghĩa? Tham-sân-si là tam độc, căn bản của mọi phiền não uế trược, giải quyết tam độc là giải quyết mọi vấn đề liên đới, thế thì, phái Thượng tọa bộ hỏi Đại Thiên về Tam độc, như thế cũng đủ kết luận những chi phần phiền não tác động tâm uế trược mà một vị A La Hán không còn bị tác động, cần gì phải hỏi thêm! Thầy Hạnh Bình quan niệm việc xuất tinh là thuộc cơ thể vật lý, còn tham, sân, si là thuộc tinh thần. Thầy nói: "Điểm khác nhau đó là thể chất (vật lý) và tinh thần. Về phương diện tinh thần thì dĩ nhiên A La Hán không còn tham, sân, si, tuy nhiên về mặt thể chất A La Hán tuy đã chứng Thánh quả, nhưng vẫn còn thân tứ đại, thì thân ấy vẫn phải chịu những quy luật tự nhiên, như nóng lạnh, đại tiểu tiện, ngay cả hiện tượng bài tiết sinh lý. (Sách đã dẫn, trang 18 nhà xuất bản Phương Đông, trang 15). Nghĩa là thầy Hạnh Bình xác định giữa tâm lý và sinh lý hoàn toàn cách biệt, không tác hưởng lẫn nhau? Có lẽ thầy Hạnh Bình quên "A tỳ đàm hay Duy Thức tam thập tụng", Nhất thiết duy tâm tạo - rồi. Vấn đề bài tiết sinh lý như sổ mũi, cảm cúm, nóng lạnh, đại tiểu tiện...là điều tất yếu của cơ thể đối với thời tiết, khí hậu và tuần hoàn trong cơ thể, nhưng vấn đề sinh lý do tác động tâm lý thì bậc Thánh làm chủ sống chết, chủ động nhu cầu sinh lý thì không thể đánh đồng cả hai việc làm một. Nếu một hành giả còn rơi vào tình trạng mộng tinh thì đó chưa phải là một hành giả chứng đắc huống là một quả vị A La Hán.
The Great Deva blaming the Devil for being disturbed is a fallacy. Ejaculating while unconscious, how can one know that the Devil has come to destroy him? It is like an evil monk in Dinh Mountain, Ba Ria-Vung Tau blaming that in his previous life he was a king so he had many concubines, in this life he had remaining blessings and had to enjoy the precepts of sex, when his disciples accused him of damaging too many monastic and lay disciples. This case is the Devil Monk, it cannot be any other way. Because a monk who commits the sin of sex, whether in thought or in sleep, is a serious violation of the Parajika precept due to unrighteous thoughts.
Đại Thiên đổ thừa bị Thiên ma đến quấy nhiễu là lối ngụy biện, xuất tinh trong lúc vô ý thức thì làm sao biết Thiên Ma đến phá? Cũng giống như một tà sư ở Núi Dinh, Bà Rịa-Vũng Tàu đổ thừa là kiếp trước làm vua nên nhiều cung tần mỹ nữ, kiếp này phước báu còn sót lại phải hưởng thụ giới dâm, khi đệ tử quy tội cho ông ta làm hư hại quá nhiều đệ tử xuất gia và tại gia. Trường hợp này là ma Tăng chứ không thể khác hơn. Vì một tỳ kheo còn phạm tội dâm dù trong tư tưởng hay trong giấc ngủ đều là phạm trọng giới của Ba La Di do tư tưởng bất chánh.
III. How to understand the Arhat status?
III. Hiểu thế nào về quả vị A La Hán?
Arhat translates to "Ki Tac" as "a worthy person" or "a perfect person" according to Theravada Buddhism, who has attained Nirvana, freed from the world. the whole of Samsara. However, according to other sects in Buddhism, this term refers to those who have progressed very deeply on the path of enlightenment, have also escaped the cycle of birth and death but have not yet reached complete perfection, in other words, have not yet attained Buddhahood.
A-la-hán dịch nghĩa Sát Tặc , là "người xứng đáng hoặc là "người hoàn hảo" theo Phật giáo Nguyên thủy, đã đạt tới Niết-bàn, thoát khỏi hoàn toàn Luân hồi. Tuy nhiên theo các giáo phái khác trong Phật giáo, thì thuật ngữ này để chỉ những người đã tiến rất sâu trên con đường giác ngộ, cũng thoát được sinh tử luân hồi nhưng chưa hoàn toàn viên mãn, nói cách khác là chưa đạt Phật quả.
An Arhat is also called Nirvana with remainder. When this Arhat passes away, it is called entering Nirvana without remainder.
Một A-la-hán còn gọi là Hữu dư Niết-bàn khi A-la-hán này viên tịch thì gọi là nhập Vô dư Niết bàn.
An Arhat is someone who has broken the 10 fetters.
Một vị A La Hán là một vị đã phá bỏ được 10 kiết sử.
However, due to different blessings and causes and conditions, the abilities and supernatural powers of Arhats may differ. Therefore, creating meritorious deeds, cultivating good deeds, respecting the Buddha, the Saints and the venerable ones, are factors among many factors to attain the Arhat fruit in the future.
Tuy nhiên do phước đức và nhân duyên khác nhau, mà khả năng và thần thông của các vị A La Hán có thể có sự chênh lệch. Vì thế tạo những điều phước, tu tập những hạnh lành, tôn kính Đức Phật, các vị Thánh và những bậc đáng kính, là những nhân tố trong rất nhiều nhân tố để chứng đạt quả vị A La Hán trong tương lai.
In short, a person who attains Arhat has immense merit, virtue and affinity, which is one of the causes to attain this fruit. We must also eliminate the ten fetters (ten afflictions): greed, anger, ignorance, arrogance, doubt (self-view, extreme views, attachment to views, attachment to precepts and prohibitions, wrong views, the five hindrances).
Tóm lại, một vị chứng được A La Hán có công đức, phước đức và nhân duyên vô cùng lớn, đó là một trong các nhân duyên để chứng đạt được quả vị này. Còn phải đoạn trừ thập kiết sử (thập phiền não): tham sân si mạn nghi kiến (thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến, 5 triền cái.
We see in the suttas that the Buddha said about Arahants as follows: “The Arahants experience the happiness of nirvana by attaining the fruit of Arahantship in this present life. They have controlled the six senses like a well-trained horse, have eliminated pride and are free from defilements. Such a steadfast person is even admired by the gods.”
Chúng ta thấy trong kinh tạng Đức Phật nói về Arahant như sau: “Chư vị A La Hán chứng nghiệm hạnh phúc niết bàn bằng cách chứng đắc đạo quả A La Hán trong kiếp sông hiện tiền. Đã chế ngự được lục căn như tuấn mã được huấn luyện thuần thục, đã tiêu trừ ngã mạn và không còn ô nhiễm. Người vữngchắc như thế, chí đến chư thiên cũng quý mộ”
In the Majjhima Nikaya, describing the dialogue between the Buddha and the wandering ascetic Vacchagotta, the Buddha rebuked Vaccha for being unwise when referring to the state of attainment of the Arahant: “Vaccha, enough of it, your ignorance! Enough of it, your delusion. Vaccha. This Dhamma is profound, difficult to see, difficult to realize, peaceful, sublime, indisputable, subtle, only the wise can understand.” Meanwhile, the Buddha determined that Arahant is the most excellent among gods and humans: “By thoroughly knowing all dharmas, if there is any feeling, pleasant, painful, or neutral, he lives contemplating impermanence, lives contemplating detachment, lives contemplating cessation, lives contemplating renunciation in those feelings. By living contemplating impermanence, lives contemplating detachment, lives contemplating cessation, lives contemplating renunciation in those feelings, he does not cling to anything in the world; because of not clinging, he does not suffer, because of not suffering, he attains Nibbana. He understands: 'Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming back to this world.' In brief, O God, to such an extent, a Bhikkhu is liberated by the destruction of craving, is ultimately achieved, is ultimately safe from suffering, is ultimately holy, is saved "The perfect wing, the supreme one between the gods and humans." It is a mistake to consider Arahant as a Sravaka, or a Hinayana person who only knows how to liberate himself. Meanwhile, Mahayana Buddhism, by inheriting the essence of Bodhisattva thought in Theravada Buddhism, has formed a Bodhisattva according to the needs of the times. The Bodhisattva ideal of Mahayana carries the spirit of actively entering the world. Taking the need to transform sentient beings as the goal towards enlightenment. This characteristic is found in the sutras of Theravada mentioned as follows: "Bhikkhus, travel, for the happiness of all beings, for the peace of all beings, out of compassion for the world, for the benefit, for the happiness, for the peace of gods and humans." Because some Mahayana views think that Hinayana is passive in its ideal of propagation, only concerned with personal liberation, they hastily label the Theravada sect as "Hinayana". In fact, the essence negative spirit, not focusing on liberation for others, only appeared in a group of sects and not entirely in Theravada, so they thought that the Arhat fruit was lower than the Buddha fruit.
Trong kinh Trung bộ diễn tả cuộc đối thoại giữa đức Phật và du sĩ ngoại đạo Vacchagotta, đức Phật đã quở Vaccha là vô trí khi đề cập đến trạng thái chứng đắc của bậc Arahant: “Này Vaccha, thôi vừa rồi, vô tri của ông! Thôi vừa rồi, mê mờ (của ông). Này Vaccha. Sâu kín là pháp này, khó thấy, khó giác ngộ, an tịnh, thù thắng, không thể luận bàn, tế nhị, chỉ bậc trí mới hiểu”. Trong khi đó đức Phật xác định rằng Arahant là bậc tối thắng giữa chư thiên và loài người:“Do biết một cách rốt ráo tất cả pháp, nếu có một cảm thọ nào, lạc thọ, khổ thọ hay bất khổ bất lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy. Vị ấy nhờ sống quán tánh vô thường, sống quán tánh ly tham, sống quán tánh đoạn diệt, sống quán tánh xả ly trong các cảm thọ ấy, nên không chấp trước một vật gì ở đời; do không chấp trước nên không phiền não, do không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết-bàn. Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa". Này Thiên chủ, một cách tóm tắt, đến mức độ như vậy, một Tỷ-Kheo ái tận giải thoát, cứu cánh thành tựu, cứu cánh an ổn khỏi các khổ ách, cứu cánh phạm hạnh, cứu cánh viên mãn, bậc tối thắng giữa chư Thiên và loài Người".
The Buddha is the fully enlightened Arahant, he is the one who found the path to liberation and enlightenment. And the Arahants are the ones who are walking on the path that the Buddha found:“Brahmin, the World-Honored One is the one who arouses the path that has not arisen before, makes known the path that has not been known before, speaks of the path that has not been spoken of before; is the one who understands the path, knows the path and is skillful in the path. And now his disciples are those who live and practice the path and will achieve (those dharmas) later...
Thật sai lầm khi nhận định Arahant là thanh văn, hay bậc tiểu thừa chỉ biết vì sự giải thoát cho mình. Trong khi đó Đại thừa Phật giáo bằng sự kế thừa tinh hoa của tư tưởng Bồ tát trong Phật giáo Nguyên thủy đã hình thành nên một Bồ tát theo nhu cầu của thời đại. Lý tưởng Bồ tát của Đại thừa mang tinh thần nhập thế tích cực đi vào thế giaṇ. Lấy nhu cầu hóa độ chúng sinh làm mục tiêu hướng đến giác ngộ. Đặc điểm này này được tìm thấy trong kinh tạng của Nguyên thủy đề cập như sau: “Này các Tỳ kheo, hãy du hành, vì hạnh phúc cho quần sanh, vì an lạc cho quần sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người.”
Through the spirit of understanding the path, knowing the path, being skillful in the path, and living and practicing the path, how can it be called Hinayana? In the Middle Length Discourses we see that the holy disciples are also walking on the path that the Buddha found to attain the Arahant fruit like him. Meanwhile, Bodhisattva in Mahayana Buddhism also goes on the path of saving lives like Buddhas have gone to attain enlightenment and liberation. Between Arahant and Bodhisatta, they both aim for the same goal as Buddha has gone. Arahant fruit in Theravada Buddhism is likened to a fruit equivalent to Buddha's enlightenment. Buddha praised his holy disciples as great wisdom, supreme wisdom... comments about Buddha's ability towards his holy disciples: "Hey Sàriputta, I have nothing to criticize you about your body, or your speech. Hey Sàriputta, you are a Great Wisdom. Hey Sàriputta, you are a Wide Wisdom. Hey Sàriputta, you are a Swift Wisdom. Hey Sàriputta, you are a Simplified Wisdom. Hey Sàriputta, you are a Wise Wisdom. Hey Sàriputta, you are a Penetrating Wisdom. Hey Sàriputta, for example, the eldest son, the son of a Cakravartin king, truly turns the wheel that his father turned. Likewise, Sàriputta, you truly turn the unsurpassed Dharma wheel that I turned.”
Do một số quan điểm Đại thừa nghĩ rằng Tiểu thừa mang tính thụ động về lý tưởng hoằng hóa, chỉ lo giải thoát cá nhân nên vội quy chụp cho bộ phái Nguyên thủy là "tiểu thừa". Thật ra tinh thần tiêu cực, không chú trọng đến giải thoát cho tha nhân, chỉ xuất hiện trong một nhóm bộ phái chứ không hoàn toàn của Nguyên Thủy, vì vậy, họ nghĩ rằng quả vị A La Hán thấp hơn quả vị Phật.
I still remember the positive spirit of the Venerable Purana who was willing to give up his life to go into the region of Du Na, the evil demon of the heretics. Are those Holy Monks called Sravakas or Arhats already Bodhisattvas? Thus, it is not correct to conceive of the Arhat fruit as a Hinayana, a level not equal to Buddha. So, what does the Great Deva say: - Arhat still has "impure outflows, undefiled ignorance, and a nature of doubt"? What does it mean to affirm that Arhat still has ejaculation, ignorance, doubt, and is pointed out by others in Kathavatthu?
Đức Phật là bậc Arahant chánh đẳng giác, Ngài là người tìm ra con đường để đi đến giải thoát, giác ngộ. Còn chư vị Arahant là người đang đi trên con đường mà đức Phật đã tìm ra: “Này Bà la môn, thế tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. và nay các đệ tử của ngài là những vị sống hành đạo và tùy đạo, và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau...
Venerable Elder Thich Minh Chau commented: “There is no Mahayana, or Hinayana, Southern or Northern sects, the reason for the division of sects is the evolution of history and the spread of Buddhism through many different traditions, cultures, languages, customs, countries, and each sect accepts a number of basic teachings common to all traditions.”
Qua tinh thần hiểu đạo, biết đạo, thiện xảo về đạo, và sống hành đạo, tùy đạo như thế sao gọi là Tiểu thừa? Kinh Trung bộ ta thấy chư vị thánh đệ tử cũng đang đi trên con đường đức Phật đã tìm ra để đạt đến quả vị Arahant như ngài. Trong khi đó Bồ tát trong Đại thừa Phật giáo cũng đi trên lộ trình độ sinh như chư Phật đã từng đi để chứng đạt quả vị giác ngộ giải thoát. Giữa Arahant và Bodhisatta cùng hướng đến mục đích như đức Phật đã từng đi. Quả vị Arahant trong Phật giáo Nguyên thủy được ví như quả vị tương đương với quả vị chứng ngộ của đức Phật. Đức Phật đã tán thán chư vị thánh đệ tử của mình là bậc đại trí tuệ, bậc tối trí… những lời nhận định về khả năng của Phật đối với chư vị thánh đệ tử của Phật: “Này Sàriputta, Ta không có gì chỉ trích Ông về thân, hay về lời nói. Này Sàriputta, Ông là bậc Ðại trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Quảng trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Tốc trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Tiệp trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Nhuệ trí. Này Sàriputta, Ông là bậc Thể nhập trí. Này Sàriputta, ví như trưởng tử, con vua Chuyển luân vương, chơn chánh vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển. Cũng vậy, này Sàriputta, Ông chơn chánh chuyển vận pháp luân vô thượng đã được Ta chuyển vận”.
IV. Regarding the argument of Dai Thien To resolve the doubt about the issue of Arhats still having wet dreams, which Dai Thien affirmed in the case of "The remainder of the example, ignorance," that is, although an Arhat has completely eliminated all afflictions, because he still has a physical body, physiologically he still has the phenomenon of wet dreams in his dreams. (This is a clever explanation.)
Ta còn nhớ tinh thần tích cực đi hoằng pháp của ngài Purana nguyện bỏ mạng đi vào vùng Du Na, ác ma ngoại đạo, phải chăng các Thánh Tăng gọi là Thanh văn hay A La Hán đó đã là Bồ tát đạo? Như thế không thể quan niệm quả vị A La Hán là tiểu thừa, cấp độ chưa bằng Phật là không đúng. Vậy thì, Đại Thiên bảo: - A La Han vẫn còn "bất tịnh lậu thất, bất nhiễm ô vô tri, tùy miên tánh nghi" chính là câu khẳng định A La Hán vẫn còn xuất tinh, vô tri, hoài nghi, bị người khác chỉ điểm trong Kathavatthu" là thế nào?
The Different Schools summarize the five things of Dai Thien: Due to the doubt of ignorance - hesitation of others entering - the path of the person who heard it started - this is the true name of Buddhism. It is explained as: "the ejaculation is done by someone else - the Arhat is still ignorant - the Arhat still has doubts - the attainment of Arhatship must be pointed out by someone else - this doctrine must be based on sound...
Hòa Thượng trưởng lão Thích Minh Châu nhận định: “Không có Đại thừa, hay Tiểu thừa, Nam tông hay Bắc tông, sở dĩ có phân chia tông phái là sự diễn biến của lịch sử và sự truyền bá của đạo Phật qua nhiều truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, quốc độ khác nhau, và tông phái nào cũng chấp thuận một số giáo lý căn bản chung cho tất cả truyền thống.”
According to Medical argument: people with wet dreams due to - watching stimulating, pornographic pictures before going to bed, the body is too tired, weak, nervous tension... Those factors can be the cause of wet dreams happening more often. Simply put, wet dreams are a physiological mechanism to solve the physiological sexual needs of men unconsciously. This is a mechanism to release excess semen when there is no masturbation or sex, masturbation can also be the cause of wet dreams, and there are other reasons such as:
IV. Về luận cứ của Đại Thiên Để giải nghi vấn đề A La Hán vẫn còn mộng tinh mà Đại Thiên đã xác quyết trong trường hợp "Dư sở dụ, vô tri," tức là Bậc A La Hán tuy đã đoạn tận hết phiền não nhưng vì còn nhục thân nên về sinh lý vẫn có hiện tượng di trong mộng mị. (Đây là lối giải thích mang tính lợi khẩu.)
Inadequate nutrition, weak body causing ejaculation disorder
Tired body, weak, nervous tension
Wearing underwear that is too tight and often rubs against the penis causing frequent erections
Watching movies, pictures, books, magazines with pornographic content before going to bed
Sexual stimuli cause psychological obsession. During the day, being exposed to sexually stimulating situations or masturbating too much, at night it is easy to have wet dreams sperm
Regular use of alcohol and stimulants
Dị bộ luận tóm ý 5 việc của Đại Thiên: Do sở dự vô tri -do dự tha linh nhập - đạo nhân thinh cố khởi - thị danh chơn phật giáo. Được giải thích là: "sự xuất tinh là do người khác làm- A la Hán vẫn còn vô tri -A La hán vẫn còn hoài nghi - sự chứng đắc A La hán phải nhờ người khác chỉ điểm mới biết - đạo lý này phải dựa vào âm thanh mà có...
The phenomenon of wet dreams in men is often accompanied by dreams related to sex. "Partners" are often girls they admire, love, are pursuing, or a beautiful, famous girl...., and ejaculation occurs unconsciously during sleep. Besides, there are some cases where men have wet dreams without any dreams.
Theo luận cứ y học: người bị mộng tinh do - xem tranh ảnh kích thích, khiêu dâm trước khi đi ngủ, cơ thể quá mệt mỏi, suy nhược, căng thẳng thần kinh... Những yếu tố đó có thể là nguyên nhân dẫn đến việc mộng tinh xảy ra nhiều hơn. Hiểu đơn giản, mộng tinh là một cơ chế sinh lý nhằm giải quyết nhu cầu sinh lý tình dục của nam giới một cách không ý thức. Đây là một cơ chế giải phóng tinh dịch dư thừa khi không có thủ dâm hay quan hệ tình dục, thủ dâm cũng có thể là nguyên nhân gây mộng tinh, và còn những lý do khác như:
– Semen release: according to normal physiological development, sperm is produced in the seminal vesicles, stored in the epididymis and goes up the vas deferens. When the number of sperm produced increases, it will accumulate more along with the contraction of the vas deferens, prostate, seminal vesicles and the pressure in the urethra in the prostate area increases, leading to the lower end being released.
• Ăn uống không đầy đủ chất dinh dưỡng, cơ thể suy nhược làm rối loạn việc xuất tinh
• Cơ thể mệt mỏi, suy nhược, căng thẳng thần kinh
• Mặc quần lót quá bó chặt và thường cọ vào dương vật gây cương cứng thường xuyên
• Xem phim, ảnh, sách báo, tạp chí có nội dung khiêu dâm trước khi ngủ
• Các kích thích tình dục khiến tâm lý ám ảnh. Ban ngày tiếp xúc với tình huống kích dục hay thủ dâm quá nhiều, ban đêm dễ bị mộng tinh
• Thường xuyên sử dụng rượu bia và các chất kích thích
– Stage 2: when the lower ends of the sphincter are released, it will lead to the simultaneous contraction of muscles such as the ischiocavernosus muscle, prostate muscle Paralysis, muscles in the seminal vesicles, etc. create a strong pushing force that causes sperm to be shot out.
Hiện tượng mộng tinh ở nam thường đi kèm những giấc mơ liên quan đến tình dục. "Đối tác" thường là những cô gái mà họ cảm mến, yêu thương, người đang theo đuổi, hoặc một cô gái xinh đẹp, nổi tiếng...., và tình trạng xuất tinh xảy ra một cách vô thức trong giấc ngủ. Bên cạnh đó, có một số trường hợp nam giới bị mộng tinh mà không có bất kỳ giấc mơ nào.
There is also an internal cause of wet dreams: this is the cause according to traditional medicine due to yin deficiency and internal heat and yin deficiency and excess fire. It is easier to understand that men suffer from health damage due to overwork, uncomfortable thoughts, anxiety, sexual promiscuity, kidney failure, etc.
– Giải thoát tinh dịch: theo sự phát triển sinh lý bình thường, tinh trùng được sản xuất ra trong túi tinh, được tích trữ trong mào tinh theo ống dẫn tinh đi lên. Khi số lượng tinh trùng sản xuất ra ngày càng nhiều sẽ tích trữ nhiều cùng với sự co thắt các ống dẫn tinh, tuyến tiền liệt, túi tinh và áp suất trong niệu đạo ở khoảng tuyến tiền liệt căng lên dẫn đến đầu dưới bị bung ra.
In short, the causes leading to wet dreams in normal men cannot be in the case of a person who has escaped the "three poisons". They cannot be unconscious in sleep, meaning they are no longer conscious in sleep. The eating, sleeping, and daily activities of practitioners are always in mindfulness, so why would an Arahant let their thoughts wander? Arahants also do not commit the ways of ordinary men such as watching pornographic movies and books, not drinking alcohol, not masturbating, not wearing tight pants, not being tired from work... meaning there is no sufficient condition To influence the mind to bring about normal physiological instincts, Dai Thien gave the reason - because these are things disturbed by the Devil. There are two cases of ejaculation: the first is due to afflictions, the second is just an impure object. The event of ejaculation due to afflictions, of course, is no longer an Arhat, but it is just an impure object, so in the Arhat position it still remains.
– Giai đoạn 2: khi các đầu phía dưới cơ vòng bị bung ra sẽ kéo theo sự co bóp đồng loạt của các cơ như cơ ngồi hang, cơ tuyến tiền liệt, cơ trong túi tinh,… tạo ra lực đẩy mạnh khiến cho tinh trùng bị bắn ra ngoài.
How can a person who has attained the Arahant position still let the Devil disturb him in his sleep? Even the first fruit is only for the Srotapanna in the four fruits of the monk, the person who has attained this fruit has eliminated the views of the three realms of desire, form and formlessness and entered the ranks of the Saints (Buddhist Dictionary of the Light of the Buddha), so why is it that an Arhat, a Saint who has eliminated all afflictions, attained complete wisdom and received offerings. The person who has attained this fruit has the four wisdoms unobstructed and there is no more dharma to learn, so it is called the non-learning, non-learning fruit, non-learning position (Buddhist Dictionary of the Light of the Buddha), still entangled in the devil's affairs?
Còn có một nguyên nhân bị mộng tinh từ bên trong: đây là nguyên nhân theo quan niệm y học cổ truyền do âm hư nội nhiệt và âm hư hỏa vượng. Dễ hiểu hơn đó là do nam giới bị hao tổn về sức khỏe do làm việc quá sức, tư tưởng không thoải mái, hay lo lắng phiền muộn, thói quen sống buông thả tình dục, do thận hư,…
When the four wisdoms are unobstructed, how can it still be called
Tóm lại, những nguyên nhân đưa đến mộng tinh của nam giới bình thường thì không thể nằm trong trường hợp của một bậc đã thoát ly "tam độc". Các ngài không thể vô thức trong giấc ngủ, nghĩa là không còn ý thức trong giấc ngủ. Việc ăn ngủ, sinh hoạt thường nhật của các hành giả luôn trong chánh niệm thì hà tất một Arahant lại buông thả tư tưởng? Các A La Hán cũng không phạm phải những cách của nam giới phàm tục như xem phim ảnh sách báo khiêu dâm, không rượu bia, không thủ dâm, không mặc quần bó sát, không mệt mỏi vì lao tác... nghĩa là không có một điều kiện nào đủ để tác động tâm lý đưa đến bản năng sinh lý bình thường, thì Đại Thiên viện dẫn lý do - vì đây là những thứ do Thiên ma quấy nhiễu. Phàm sự kiện xuất tinh có 2 trường hợp: thứ nhất là do phiền não, thứ 2 chỉ là vật bất tịnh. Sự kiện do phiền não mà xuất tinh, tất nhiên A La Hán không còn nữa, nhưng nó chỉ là vật bất tịnh thì ở quả vị A La Hán vẫn còn.
"Remainder of example, ignorance,
Hesitation, other spirits entering,
The pure path of the Way arises,
This is called true Buddhism"?
Một bậc đã chứng đắc quả vị Arahant mà còn để cho Thiên ma quấy nhiễu trong giấc ngủ sao? Ngay cả sơ quả chỉ cho Tu đà hoàn trong 4 quả sa môn, người chứng quả này đã dứt trừ kiến hoặc trong 3 cõi dục, sắc và vô sắc mà dự vào hàng Thánh (Phật Quang đại từ điển) thì hà cớ một bậc A la Hán là bậc Thánh đã đoạn trừ hết thảy mọi phiền não, được tận trí và nhận lãnh sự cúng dường. Người chứng được quả vị này thì bốn trí dung thông vô ngại và không còn pháp nào để học nữa, vì thế gọi là vô học, vô học quả, vô học vị (Phật Quang đại từ điển) mà còn vướng vào ma sự?
Why is there still the latent nature of doubt, which means the doubts belonging to the state of sleep, the state of indeterminateness?
Bốn trí dung thông vô ngại rồi thì sao còn gọi là
Bhikkhus, there are these five higher fetters. What are the five? Form-desire, formless-desire, conceit, restlessness, ignorance. These dharmas, Bhikkhus, are the five higher fetters. Bhikkhus, to know, understand, cut off, and completely cut off these five higher fetters, the four Dhyanas must be practiced. What are the four?
"Dư sở dụ, vô tri,
Do dự, tha linh nhập,
Ðạo nhân thanh cố khởi,
Thị danh chân Phật giáo" ?
Here, monks, a monk who has abandoned lust, abandoned unwholesome dharmas, attains and abides in the first Dhyana, a state of joy and happiness born from detachment from lust, with thought, with reflection... Second Dhyana... Third Dhyana... Fourth Dhyana. (Samyutta Nikaya)
Sao còn tùy miên tánh nghi là mang ý nghĩa những loại nghi ngờ thuộc trạng thái ngủ yên, là trạng thái vô ký?
The process of destroying the fetters to reach the four Noble Concentrations has resolved the psychological and physiological states of defilements. The consciousness of an Arhat has abandoned lust and unwholesome dharmas, the problem of waking and sleeping is always in a state of calm, mindfulness and alertness. So what can one do in a state of deep sleep and ejaculate? Once the consciousness fundamentally resolves the Three Poisons and is always awake, it cannot be affected by the physiological state as the Great God advocated and Master Hanh Binh called reasonable and clear!
Này các Tỷ-kheo, có năm thượng phần kiết sử này. Thế nào là năm? Sắc tham, vô sắc tham, mạn, trạo cử, vô minh. Những pháp này, này các Tỷ-kheo, là năm thượng phần kiết sử. Này các Tỷ-kheo, để thắng tri, liễu tri, đoạn diệt, đoạn tận năm thượng phần kiết sử này, bốn Thiền cần phải tu tập. Thế nào là bốn?
"One day, Dai Thien dreamed of ejaculating. The disciple washing clothes asked: An Arhat has completely eliminated all defilements, so why does this still happen? Dai Thien explained: - You should not doubt or blame, because these are things that are disturbed by the Devil. Generally, there are two cases of ejaculation: the first is due to afflictions, the second is just an impure thing. The event of ejaculation due to afflictions, of course, is no longer an Arhat, but it is just an impure thing, so at the Arhat level it still exists. Why? Because although an Arhat has completely eliminated all defilements, he cannot stop defecating, urinating, and having runny nose and phlegm... At the same time, the Devil Kings are often jealous of the Buddha Dharma. They see those who practice often have destructive thoughts, and Arhats are also destroyed by them. That is why I ejaculated while sleeping. You should not have a doubtful mind."
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ... Thiền thứ hai... Thiền thứ ba... Thiền thứ tư. (Kinh Tương Ưng)
After that, Dai Thien wanted to make his disciples happy. appearance, no longer doubting, immediately gave each person the first to fourth fruit of the fruit. At that time, the disciple said: - When the Arhats attained the fruit, they themselves knew they had attained it, how come we have attained it but do not know? The Great Deva then replied: - The Arhats are still in a state of "ignorance", you should not doubt me. There are two types of "ignorance"...
Quá trình diệt các kiết sử để đi đến tứ Thánh định là đã giải quyết được trạng thái tâm lý và sinh lý lậu hoặc. Tâm thức A La Hán đã ly dục ly bất thiện pháp, vấn đề thức và ngủ luôn trong trạng thái an định chánh niệm tỉnh giác. thì làm gì trong trạng thức ngủ mê mà bị xuất tinh? Một khi tâm thức giải quyết căn bản Tam độc và luôn tỉnh thức thì không thể bị tác động bởi trạng thái sinh lý như Đại Thiên chủ xướng và thầy Hạnh Bình gọi là hợp lý và trong sáng!
V. Conclusion The Great Deva brought up five things that the Sarvastivada considered illegal, evil views, the Mahasamghika agreed, this was a matter of individual views, an exceptional individual change that made the Theravada surprised and dissatisfied. The Great Deva's explanations were still not convincing enough when blaming the Devil for disturbing, as well as the remaining four things due to the sharp tongue that the Great Deva showed intelligence and sharpness in defending himself.
"Một hôm Đại Thiên nằm mộng bị xuất tinh, đệ tử giặt đồ mới hỏi: Bậc A La hán các lậu đã đoạn tận, tại sao vẫn còn việc đó? Đại Thiên giải thích: - Các ông không nên nghi ngờ và trách móc, vì đây là những thứ do Thiên ma quấy nhiễu. Phàm sự kiện xuất tinh có 2 trường hợp: thứ nhất là do phiền não, thứ 2 chỉ là vật bất tịnh. Sự kiện do phiền não mà xuất tinh, tất nhiên A La Hán không còn nữa, nhưng nó chỉ là vật bất tịnh thì ở quả vị A La Hán vẫn còn. Tại sao? vì A la hán tuy các lậu hoặc đã đoạn trừ, nhưng không thể không còn việc đại tiểu tiện, không có chảy nước mũi đàm dãi... Đồng thời các ma vương thường ganh tỵ với Phật pháp, chúng thấy những ai tu hành thường sanh tâm phá hoại, A la hán cũng bị chúng phá hoại, đó là lý do tại sao ta bị xuất tinh trong khi ngủ. Các ông không nên có tâm hoài nghi."
In this part, only the first thing "Du so du, vo tri" of the Great Deva is considered illogical, so the remaining four things will not be considered; If there is an opportunity, we will gradually learn more based on the sutras and treatises, but until now, no one has determined whether Dai Thien is right or wrong, we do not know who Dai Thien is, born 100 or 200 years after Buddha's death. If we stand on the open point to make Buddhism compatible with modern trends, then the issue of sectarianism as well as bold interpretations is still something for Buddhism to respond to the need for knowledge and innovation that is appropriate to the times, appropriate to reason, and appropriate to the situation. However, to preserve the original tradition of Buddha's time, a sect of Theravada preserving the ancient customs of the precepts is also necessary for an ancient beauty. The sectarianism is a symbol of the development of the Buddhist Bodhisattva body. It is natural that each perspective disagrees, but that does not weaken the house of Buddhism. The multi-colored flower garden is still a beautiful flower garden, that is why Buddhism today, primitive Buddhism, developed Buddhism, Vajrayana, Zen, Pure Land and many other sects and schools have contributed to the flourishing of Buddhism.
Sau đó, Đại Thiên muốn cho các đệ tử vui vẻ, ko còn nghi ngờ, liền thọ ký cho từng người chứng quà thứ nhất đến quả thứ 4. Bấy giờ đệ tử bạch rằng:- Các vị A La hán khi chứng quả, tự mình biết mình đã chứng, sao chúng con đã chứng mà không biết? Đại thiên bèn trả lời:- các vị A La hán vẫn còn trạng thái "vô tri", các ông không nên hoài nghi tôi. Trạng thái "vô tri" có 2 loại ...
Master Hanh Binh thinks that Dai Thien has a clear, reasonable and healthy ideology, which is also a personal opinion and does not represent the Mahasanghika, because, if the Theravada does not agree with Dai Thien's opinion, then considering it reasonable, clear and healthy is still something that cannot be popularized.
V. Kết luận Đại Thiên đưa ra 5 việc mà Hữu Bộ cho là phi pháp, ác kiến, Đại chúng bộ lại đồng thuận, đây là việc thuộc quan điểm cá biệt, một cá biệt đột biến kiệt xuất làm cho Thượng tọa bộ bất ngờ và bất mãn. Những giải thích của Đại thiên vẫn chưa đủ thuyết phục khi mà đổ tội cho Thiên Ma quấy nhiễu, cũng như bốn việc còn lại do lợi khẩu mà Đại Thiên tỏ ra thông minh nhạy bén tự biện hộ.

Trong phần này chỉ xét việc đầu tiên "Dư sở dụ, vô tri" của Đại Thiên mang tính phi lý, nên không xét tiếp bốn việc còn lại; nếu có dịp, sẽ lần lượt tìm hiểu thêm căn cứ trên kinh tạng, luận tạng, mà đến nay, chưa ai xác định Đại Thiên đúng hay sai, chưa biết Đại Thiên là ai, sinh vào sau 100 hay 200 năm Phật nhập diệt. Nếu đứng trên quan điểm khai mở để Phật giáo tương thích với trào lưu hiện đại, thì vấn đề phân phái cũng như kiến giải táo bạo vẫn là điều để Phật giáo đáp ứng với nhu cầu kiến thức và canh tân mà khế thời, khế lý, khế cơ đòi hỏi. Tuy nhiên, để giữ truyền thống nguyên thủy của thời đức Phật, một bộ phái của Thượng Tọa bộ bảo lưu cổ tục về giới luật cũng là điều cần cho một nét đẹp xa xưa. Việc phân phái là biểu tượng cho sự phát triển của thân Bồ đề Phật giáo. Mỗi góc độ không đồng thuận nhau là điều tất nhiên, nhưng không vì thế mà làm suy yếu ngôi nhà Phật pháp. Vườn hoa đa sắc vẫn là vườn hoa đẹp, chính vì thế Phật giáo ngày nay, Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo phát triển, Kim Cang thừa, Thiền học, Tịnh độ tông và còn bao nhiêu tông môn hệ phái đã góp phần cho Phật giáo khởi sắc muôn hoa.

Thầy Hạnh Bình cho Đại Thiên có tư tưởng trong sáng, hợp lý và lành mạnh cũng là quan điểm cá nhân mà không đại diện cho Đại chúng bộ, bởi vì, Thượng Tọa bộ không đồng quan điểm của Đại Thiên thì việc cho là hợp lý, trong sáng và lành mạnh, vẫn là điều chưa thể là đại chúng hóa.


    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học