Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm

Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Điều người khác nghĩ về bạn là bất ổn của họ, đừng nhận lấy về mình. (The opinion which other people have of you is their problem, not yours. )Elisabeth Kubler-Ross
Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Bất lương không phải là tin hay không tin, mà bất lương là khi một người xác nhận rằng họ tin vào một điều mà thực sự họ không hề tin. (Infidelity does not consist in believing, or in disbelieving, it consists in professing to believe what he does not believe.)Thomas Paine
Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Chúng ta không học đi bằng những quy tắc mà bằng cách bước đi và vấp ngã. (You don't learn to walk by following rules. You learn by doing, and by falling over. )Richard Branson
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Cốt lõi bản dịch mới Tâm Kinh của thầy Nhất Hạnh qua bài viết của Trịnh Đình Hỷ »» Xem đối chiếu Anh Việt: Cốt lõi bản dịch mới Tâm Kinh của thầy Nhất Hạnh qua bài viết của Trịnh Đình Hỷ »»

Cốt lõi bản dịch mới Tâm Kinh của thầy Nhất Hạnh qua bài viết của Trịnh Đình Hỷ
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Cốt lõi bản dịch mới Tâm Kinh của thầy Nhất Hạnh qua bài viết của Trịnh Đình Hỷ

(Lượt xem: 9.099)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Điều chỉnh font chữ:

Cốt lõi bản dịch mới Tâm Kinh của thầy Nhất Hạnh qua bài viết của Trịnh Đình Hỷ

The core of the new translation of the Heart Sutra by Master Nhat Hanh through the article of Trinh Dinh Hy

Niềm vui bắt được giữa thinh không

Điều thú vị nhất của một người học Phật là được học hỏi nội dung những lời dạy của đức Thế Tôn ngay chính từ những gì xảy ra trong thực tế cuộc sống này chứ không phải chỉ trên những trang kinh tĩnh lặng. Vì thế, người Phật tử cầu học luôn mang ơn sâu sắc những ai chỉ ra cho mình các nhận thức sai lệch hoặc chưa thực sự chuẩn xác, bởi điều đó giúp ta điều chỉnh lại kịp thời những sai lầm của bản thân, và nhờ đó mới có thể tiếp tục con đường tu học theo đúng hướng.
Chúng tôi – bao gồm Jayarava, Giáo sư Lê Tự Hỷ và tôi – đã suýt có được một cơ hội may mắn được hàm ơn như thế, khi cả ba người đều được đưa vào trong một bài viết của anh Trịnh Đình Hỷ với nhan đề “Về các bài phê bình bản dịch mới Tâm Kinh của thiền sư Thích Nhất Hạnh”. Các bài “phê bình” được “điểm mặt chỉ tên” ở đây là bài viết của tôi đăng tải từ tháng 11 năm 2014 (khoảng 3 tháng sau khi “bản dịch” Tâm kinh mới của thầy Nhất Hạnh được công bố), bài của Jayarava (bằng Anh ngữ) được công bố tháng 3 năm 2016 và bài của Giáo sư Lê Tự Hỷ, vừa được đăng tải gần đây nhất vào ngày 29 tháng 11 năm 2017. Trong các bài viết này, chỉ duy nhất bài của Jayarava dùng đến chữ “critique” (phê phán) một lần trong bài cũng như được viết với văn phong phê phán rõ nét, còn bài của tôi và Giáo sư Lê Tự Hỷ đều chỉ nhằm nêu lên một số ý kiến xoay quanh vấn đề “dịch lại” Tâm kinh chứ không nhắm đến phê phán hay bình phẩm. Giáo sư Lê Tự Hỷ xác định rất rõ khuynh hướng này từ đầu bài viết: “...với lòng vô cùng tôn kính thầy Nhất Hạnh, tôi xin nêu ra một số suy nghĩ như sau.”
Ông Jayarava là người nói tiếng Anh, sống ở Cambridge, nên bài viết của ông chỉ nhằm vào bản dịch tiếng Anh của thầy Nhất Hạnh. Mọi liên kết, so sánh với bản Việt dịch của thầy đều là dụng công của người Việt dịch, không phải chủ ý của ông. Và cũng vì thế, rào cản ngôn ngữ sẽ không cho phép ông tiếp cận được với bài viết đặc biệt này của anh Trịnh Đình Hỷ. Riêng Giáo sư Lê Tự Hỷ đã có lời cảm ơn trang trọng gửi đến anh Trịnh Đình Hỷ qua lời mở đầu trong bài viết: “Vài nhận xét về “Về các bài phê bình bản dịch mới Tâm kinh của Thiền sư Thích Nhất Hạnh của Bác sĩ Trịnh Đình Hỷ”. Bản thân tôi có lẽ cũng nên có đôi lời cảm kích về bài viết dụng công rất lớn của anh Trịnh Đình Hỷ vì đã cùng lúc đưa ra phân tích cả ba bài viết, mà mỗi bài trong số đó đều hàm chứa những nội dung không đơn giản, nếu không muốn nói là khá khúc chiết và phức tạp.
Tuy nhiên, trước hết tôi muốn nhân đây có lời cảm ơn chân thành đến Jayarava và Giáo sư Lê Tự Hỷ. Qua bài viết của cả hai vị, tôi đã có cơ hội đọc lại bài viết của mình cách đây hơn 3 năm; và từ bài viết của hai vị, tôi đã củng cố được nhiều nhận thức bổ ích về Tâm kinh, học hỏi thêm được nhiều điều mới lạ từ những góc nhìn khác nhau đối với văn bản Tâm kinh. Tôi chưa có cơ hội trao đổi với Giáo sư Lê Tự Hỷ, nhưng đã có thư từ qua lại với Jayarava nhằm làm rõ thêm các ý tưởng của ông trong bài viết. Vì thế, tôi không chỉ học hỏi từ ông qua bài viết, mà còn cả trong các lá thư ông viết cho tôi nữa.
Mặc dù cả hai bài viết của Jayarava và Giáo sư Lê Tự Hỷ đều chỉ mới công bố khá muộn so với bài viết của tôi, khi vấn đề “dịch mới Tâm kinh” đã phần nào lắng xuống và cũng ít người còn nhớ đến, nhưng tôi nhận ra được khá nhiều điểm tương đồng trong các nhận xét của họ. Hơn nữa, góc nhìn phân tích của hai vị đều khác biệt, và chính những khác biệt này là điều cho phép tôi học hỏi được rất nhiều.
Tôi cũng chân thành cảm ơn dịch giả Phước Nguyên vì thông qua việc phát hiện và nêu ra các sai lầm nghiêm trọng trong bản Việt dịch của vị này rồi gửi đến cho BBT Thư viện Hoa Sen, tôi mới có cơ hội dành nhiều thời gian cho bài khảo cứu của Jayarava. Rất nhiều chỉnh sửa trong bản dịch của dịch giả Phước Nguyên ngay sau đó được “copy” từ bản Việt dịch của tôi trên trang nhà Rộng Mở Tâm Hồn, nhưng rất tiếc là vào một thời điểm tôi chưa thực sự hoàn tất. Vì thế, quý độc giả quan tâm có thể tìm đọc bản hoàn chỉnh hiện nay tại đây. Trên tinh thần trách nhiệm học thuật tôi buộc phải nói ra điều này (vì dịch giả Phước Nguyên đã không đề cập đến) để tránh cho độc giả sự hiểu lầm về một số điểm giống nhau và có thể sẽ nhầm lẫn rằng chính tôi đã “sao chép” từ một bản dịch được công bố trước.
Trở lại với bài viết của anh Trịnh Đình Hỷ, tôi đã hết sức vui mừng khi vừa đọc qua đoạn mở đầu:
“... với chủ yếu 3 bài phê bình và nhận xét được đăng trên mạng, của Nguyễn Minh Tiến, Jayarava Attwood, và Lê Tự Hỷ. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm đặc biệt vào bài Kinh này bởi các Phật tử và các nhà Phật học, và theo tôi tự nó là một điều đáng mừng và nên khuyến khích. Kinh Phật không phải chỉ để tụng niệm, đóng khung trưng bầy hay giữ trong tủ sách, mà phải được suy ngẫm, tìm hiểu sâu về ý nghĩa cũng như lịch sử của chúng.
Tuy nhiên, đọc xong các bài phê bình và nhận xét này, tôi không khỏi thất vọng về chất lượng, chiều sâu cũng như tầm nhìn của chúng, bởi vì phần lớn đặt nặng vào hình thức hơn vào nội dung, và luẩn quẩn trong các chi tiết nhỏ nhặt, các lập luận phức tạp về ngôn ngữ, mà không thấu hiểu dụng tâm của tác giả, cũng như những khó khăn gặp phải mỗi khi đọc và dịch Tâm Kinh.”
Sự vui mừng của tôi không phải vì các bài viết này được anh cho là “đáng mừng và nên khuyến khích”, mà là từ câu phê phán đầy hứa hẹn của anh: “Tôi không khỏi thất vọng về chất lượng, chiều sâu cũng như tầm nhìn của chúng, bởi vì phần lớn đặt nặng vào hình thức hơn vào nội dung, và luẩn quẩn trong các chi tiết nhỏ nhặt, các lập luận phức tạp về ngôn ngữ, mà không thấu hiểu dụng tâm của tác giả...
Thử tưởng tượng, ngày còn đi học mà nghe thầy cô giáo buông ra một câu phê phán cỡ này sau khi đọc qua bài luận văn của mình, hẳn bất kỳ ai trong chúng ta cũng sẽ buồn nẫu ruột vì biết chắc sau đó là một điểm không to tướng. Thế nhưng, khi đã bước chân vào đời, thì hầu như những cơ hội được nghe phê phán như thế này không nhiều lắm, nếu không muốn nói là cực kỳ hiếm hoi. Biết bao nhiêu rào cản như sự nể nang, tình cảm, hoặc thường gặp hơn là sự thiếu quan tâm thực sự, hoặc đơn giản hơn nữa chỉ là vì muốn né tránh sự va chạm... đã khiến cho những phê phán trung thực (và nghiêm khắc) có rất ít cơ hội được đưa ra với chúng ta. Thú thật, trong gần hai mươi năm chính thức làm công việc viết lách, đây là lần đầu tiên tôi được nghe một lời phê phán như trên. Vì thế, tôi không dám nói thay cho tâm trạng của Giáo sư Lê Tự Hỷ, nhưng riêng bản thân tôi thì sự vui mừng thật không bút nào tả xiết, bởi đây mới chính là điều một người học Phật cần được nghe từ người khác. Không phải những lời ngợi khen tán tụng, mà là sự phê phán trung thực và nghiêm khắc, chỉ ra được những điểm sai lầm hoặc yếu kém của bản thân mình.
Cũng xin nói ngay để tránh sự hiểu lầm, tôi vui mừng không phải vì đã đạt đến sự “khen chê bất động”, mà vì một suy nghiệm rất đơn giản trong lãnh vực học thuật. Một khi đã nêu ra tiên đề phê phán vấn đề gì, chắc chắn người viết sẽ có trách nhiệm tiếp tục đưa ra những luận cứ thuyết phục người đọc về nội dung phê phán đó. Vì thế, nguyên nhân vui mừng thực sự của tôi không phải là vì “bị chê”, mà nó nằm xa hơn chút nữa là vì tôi hết sức háo hức mong đợi được nghe phân tích những bất ổn, yếu kém hoặc sai lầm của mình đã dẫn đến sự phê phán trên. Và tất nhiên, đó mới là điểm quan tâm chính.

Bỗng nhiên tan biến... chẳng cần nguyên do

Với sự háo hức mong chờ của đứa học trò lần đầu tiên được vị thầy hứa khả việc chỉ dạy, tôi tiếp tục đọc ngấu nghiến phần còn lại của bài viết để mong thấy được những luận cứ nhằm giải thích cho sự phê phán trên, không chỉ là với bài viết của tôi mà cả với hai bài của Jayarava và Giáo sư Lê Tự Hỷ, bởi đây hẳn là cơ hội “có một không hai” để tôi học hỏi từ chính những sai lầm hoặc yếu kém của họ khi được anh Trình Đình Hỷ chỉ ra.
Tuy nhiên, sự háo hức mong chờ của tôi hóa ra chỉ là... mơ mộng hảo, vì ngay sau đó cho dù đã đọc rất kỹ toàn bài viết, tôi không tìm được bất kỳ luận cứ nào tương hợp với những nội dung phê phán trên. Thay vì vậy, nhận xét đầu tiên của tôi sau khi đọc xong là bài viết của anh Trịnh Đình Hỷ quả là... vô cùng khó đọc. Sự khó đọc này có nguyên do của nó. Tuy là một bài viết “phê bình tổng hợp” nhưng tác giả lại không xây dựng được một dàn ý tổng hợp cho toàn bài viết để người đọc tiện theo dõi, mà lại viết lan man theo lối... điểm sách, nghĩa là cứ “tuần tự nhi tiến” mà liệt kê tất cả các điểm anh đọc thấy trong mỗi bài viết, ngay cả những điểm anh ghi rõ là “không có gì để nói” nhưng vẫn cứ liệt kê ra. Điều này thật khác thường, vì theo nguyên tắc thông thường thì chúng ta chỉ nêu ra và phê bình một ý kiến của tác giả khác khi bản thân ta có ý kiến rõ ràng, hoặc tán thành, hoặc phản đối, nhưng một khi đã “không có gì để nói” thì nêu ra làm gì cho rối mắt và mất thời gian của người đọc?
Hơn thế nữa, sau khi lướt qua hết phần “điểm sách” như trên, đến mục cuối cùng được ghi rõ ràng là “Kết luận” thì người đọc chắc chắn phải trông chờ một ý kiến tổng kết, một phán quyết cuối cùng về cái tiên đề lớn lao anh đã nêu ra ở đoạn mở đầu, nhưng rồi tất cả những gì anh viết trong “kết luận” lại không liên quan gì đến nội dung ấy cả.
Đó là một vài cảm nhận tổng quát ban đầu. Trước khi đi sâu vào bài viết, tôi muốn dẫn lại ở đây một đoạn đối đáp trong kinh Tỳ-kheo Na-tiên, giữa đức vua Di-lan-đà và Tỳ-kheo Na-tiên:
Vua lại hỏi: “Bạch đại đức, ngài có thể cùng với trẫm đối đáp về nghĩa lý trong kinh điển hay chăng?”
Đại đức Na-tiên đáp: “Nếu như đại vương theo cách nói chuyện của bậc trí giả mà cùng bần tăng vấn đáp thì có thể được. Bằng như theo cách nói chuyện của hàng vương giả kiêu ngạo thì không thể được.”
Vua hỏi: “Cách nói chuyện của bậc trí giả là như thế nào?”
Na-tiên đáp: “Bậc trí giả khi nói chuyện thì chất vấn lẫn nhau đến cùng cực, giải thích cho nhau để cùng hiểu được vấn đề, khi tranh luận sẵn lòng chấp nhận có hơn có kém, có thắng có bại, có đúng có sai, tự biết nhận ra lý lẽ đúng đắn nhất, sáng suốt nhất. Bậc trí giả không hề có sự giận dữ, nóng nảy khi tranh luận. Cách nói chuyện của bậc trí giả là như thế.”

(Kinh Tỳ-kheo Na-tiên,

Nguyễn Minh Tiến Việt dịch,

NXB Tôn giáo - 2003, trang 26)

 
Tôi sẽ vô cùng cảm kích nếu anh Trịnh Đình Hỷ hoan hỷ chấp nhận tinh thần này. Những phân tích dưới đây sẽ dựa trên chính những điều anh viết ra chứ không qua suy diễn, và tôi sẽ rất vui khi nhận được các ý kiến không đồng thuận nếu có. Rất nhiều trong số bạn bè của chúng ta có thể là những người trước đây đã từng có bất đồng trong tranh luận, nhưng sau khi giải quyết xong vấn đề thì chúng ta hãy là bạn tốt của nhau, cùng giúp nhau tu học. Thế giới này tuy đông đảo nhưng những người có duyên biết đến nhau hẳn không nhiều lắm, và nếu có được đôi chút tương đồng về niềm tin, tín ngưỡng thì lại càng ít hơn. Vì thế, chúng ta nên trân trọng điều đó.

Phê mà... chưa phê

Tôi đã hoan hỷ đón nhận lời phê phán của anh Hỷ đưa ra ở đầu bài viết, dù không được hoan hỷ lắm ở phần sau vì không tìm được luận cứ thuyết phục chứng minh cho những phê phán ấy. Cụ thể, anh bày tỏ sự thất vọng về “chất lượng, chiều sâu cũng như tầm nhìn” của cả 3 bài viết, nhưng anh không chứng minh cho người đọc thấy chúng kém cỏi như thế nào (chất lượng), chúng cạn cợt ở đâu và đến mức độ nào (chiều sâu) cũng như chúng thiếu tầm nhìn ở những khía cạnh nào. Và anh cho rằng “phần lớn đặt nặng vào hình thức hơn vào nội dung, và luẩn quẩn trong các chi tiết nhỏ nhặt” nhưng cũng không chỉ ra cho người đọc thấy được những điểm nào trong các bài viết đã khiến anh đưa ra nhận xét đó. Anh cũng cho rằng các tác giả đã “không thấu hiểu dụng tâm của tác giả” (ở đây anh dùng chữ tác giả để chỉ thầy Nhất Hạnh là không chính xác, vì thầy đang được đề cập như dịch giả của Tâm kinh), nhưng lại không chỉ ra cái “dụng tâm” đó là gì, nó đã bị hiểu sai hoặc phớt lờ đi ra sao để anh có thể kết luận rằng cả 3 tác giả đều đã không hiểu được.
Rất có thể bản thân anh đã nhận hiểu được những điều anh đưa ra, nhưng muốn chỉ cho người đọc thấy được và đồng thuận, chấp nhận ý kiến của mình, anh cần phải viết một cách cụ thể và đầy đủ hơn nữa, phải chứng minh được ý nghĩa chuẩn xác của từng từ ngữ mà mình đã đưa ra khi phê phán.
Điều trớ trêu là khi anh đưa ra các phê phán trong bài viết của anh thì chính ở đó lại bộc lộ nhiều điểm... cần phê phán. Tôi sẽ không “tuần tự nhi tiến” điểm qua hết những gì anh viết, vì như thế sẽ làm mất nhiều thời gian của người đọc, chỉ xin điểm qua một vài nét mà chính anh cho là quan trọng nhất mà thôi.
Phê bình bài viết của Jayarava, anh đưa ra 2 đặc điểm:
“Thứ nhất, sự chỉ trích Bản dịch của TNH nói chung rất nặng nề, điều ít khi thấy nơi các nhà nghiên cứu Phật học nghiêm chỉnh.”
Khách quan mà nói, việc chỉ trích nặng nề hay không nặng nề thật ra không liên quan gì đến tính “nghiêm chỉnh” của một nhà nghiên cứu Phật học. Một bài viết có thể hết sức từ tốn, nhẹ nhàng... nhưng không có sự nghiên cứu nghiêm túc, không đưa ra những cứ liệu xác đáng và thuyết phục, không có sự lập luận chặt chẽ và mạch lạc... thì chắc chắn tác giả không thể là một nhà nghiên cứu nghiêm chỉnh. Ngược lại, một bài viết với văn phong thiếu sự từ hòa, thậm chí sử dụng từ ngữ dễ gây tổn thương cho người đọc, nhưng nếu hội đủ các yêu cầu của nghiên cứu khoa học thì người đọc sẽ vẫn chấp nhận đó là một nhà nghiên cứu “nghiêm chỉnh”. Tất nhiên, đó là chỉ nói cho cạn ý thôi, để thấy tiêu chí anh đưa ra là không hợp lý. Còn trong Phật học thì tất nhiên ai cũng ủng hộ một sự trao đổi nhẹ nhàng, từ ái và cảm thông.
Tuy nhiên, hai chữ “nặng nề” anh dùng đó cũng chỉ là cảm nhận của riêng anh. Một người đọc khác, chẳng hạn như tôi, khi đọc bản Anh ngữ của Jayarava lại không thấy có gì là nặng nề, mà chỉ thấy đó là sự chuẩn xác và trung thực. Rất có thể anh bị ảnh hưởng phần nào từ bản Việt dịch của Phước Nguyên như anh có nhắc đến sau đó, nhưng nếu vậy thì không thực sự công bằng khi phê phán. Để phê phán Jayarava thì yêu cầu trước hết là phải đọc trực tiếp từ những gì ông ấy viết ra mà thôi. Qua đặc điểm thứ nhất mà anh đưa ra, tôi tin chắc rằng không một độc giả “nghiêm chỉnh” nào có thể được anh thuyết phục rằng Jayarava là một nhà nghiên cứu “không nghiêm chỉnh” chỉ vì ông ấy đã phê phán “nặng nề”. Anh cũng tiếp tục nêu ý riêng của mình khi cho rằng Jayarava “có vấn đề” với Tâm kinh, nhưng trong suốt bài viết của mình anh không chứng minh rõ được “vấn đề” này ở đâu như đã hứa.
Đặc điểm thứ hai mà anh nhận xét về Jayarava là ông này “đặt nặng vào các điểm «kỹ thuật», và lý luận chủ yếu về ngôn ngữ học (linguistics)”. Và sau khi nêu ra đặc điểm này, anh... phê Jayarava rằng:
“Nhưng JA lại vấp phải một mâu thuẫn lớn: ông trách TNH chỉ dịch từ bản tiếng Hán chứ không phải từ bản tiếng sanskrit, đồng thời ông cũng hoàn toàn đồng ý với thuyết của Jan Nattier, tức là Tâm Kinh là một tác phẩm được biên tập tại Trung quốc bằng tiếng Hán, và dịch ngược lại sang tiếng sanskrit. Như vậy thì dịch Tâm Kinh từ bản tiếng Hán có gì là đáng trách? Và liệu có cần gì lý luận dài giòng về cách dịch tiếng sanskrit trên Bản dịch mới này?”
Chỗ này anh sai hoàn toàn vì có lẽ đã không đọc kỹ bản văn của Jayarava. Đây là những gì Jayarava đã viết liên quan đến nội dung anh đề cập:
“TNH likes to cite the Sanskrit text, because he still believes that this is the original, most authentic version of the text. As I say he appears to reject the Chinese origins thesis. But as I will show he is in fact translating from Chinese and only citing Sanskrit in order to add gravitas to his words.”
(TNH muốn trích dẫn văn bản Sanskrit vì ông vẫn tin rằng đây là phiên bản ban đầu, xác thực nhất của bản kinh. Như tôi đã nói, ông có vẻ như phủ nhận thuyết nguồn gốc Trung quốc. Nhưng rồi tôi sẽ chỉ ra rằng thực tế ông ta đã dịch từ bản Trung quốc và việc trích dẫn tiếng Sanskrit chỉ để tăng thêm tính trang trọng cho phát biểu của ông ta mà thôi.)
Như vậy, Jayarava đâu có “trách TNH chỉ dịch từ bản tiếng Hán chứ không phải từ bản tiếng sanskrit”? Ông chỉ đưa ra nhận xét rằng thầy Nhất Hạnh đã trích dẫn bản văn Sanskrit – và điều này có thật, và tuy trích dẫn bản văn Sanskrit (thật ra thầy còn nói đã sửa cả nguyên văn Sanskrit) nhưng trong thực tế bản dịch của thầy là hoàn toàn dựa vào bản Hán văn. Và điều đó được Jayarava chứng minh rất nghiêm túc qua nhiều chi tiết. Người đọc có thể tin hoặc không tin ông ta, nhưng ở cương vị một nhà nghiên cứu ông đã nêu vấn đề một cách rất nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm.
Như vậy, qua cả hai đặc điểm anh chọn ra từ bài viết của Jayarava, anh đều đã đưa ra những phê phán không chuẩn xác, và cũng không liên quan đến “mục tiêu ban đầu” mà anh nêu ra ở đầu bài viết.
Phần phê bình bài viết của Giáo sư Lê Tự Hỷ thì vị này đã gửi lời cảm ơn anh rồi, tôi không nhắc lại ở đây.
Về bài viết của tôi, có lẽ tôi cần phải cảm ơn anh vì dường như tôi đã nhận được sự ưu ái nhất trong 3 người. Tuy rằng bài của tôi đăng sớm nhất và đã “dầm mưa dãi nắng” trên không gian mạng hơn 3 năm rồi, không chỉ ở Thư viện Hoa Sen mà còn được đăng lại ở nhiều trang mạng khác, nhưng anh đã đề cập đến nó sau cùng và thực sự anh cũng không... phê gì cả, chỉ đưa ra một số điểm góp ý. Vì những kết luận tôi đưa ra trong bài viết đều dựa vào chính những câu chữ của thầy Nhất Hạnh đã viết, nên tôi nghĩ anh cũng không có gì để phàn nàn về những kết luận đó.
Về 3 điểm góp ý của anh với bài viết của tôi, xin lần lượt tiếp nhận dưới đây:
- NMT cho rằng «chưa từng có vị tổ sư nào biên tập Tâm kinh cả»: các nghiên cứu Phật học gần đây đưa tới kết luận ngược lại, và điều này sẽ được trình bầy sơ qua trong chương sau.
Điều tôi viết ra là căn cứ vào thông tin chính thức đã được chấp nhận và lưu truyền qua hơn ngàn năm. Hiện nay, trong cả 3 bộ Đại Tạng Kinh phổ biến nhất là Càn Long tạng, Vĩnh Lạc Bắc tạng và Đại Chánh tạng đều ghi rõ bản dịch Tâm kinh đang lưu hành (và đang được chúng ta đề cập đến) là do ngài Huyền Trang dịch. Sách Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋教錄), quyển 8 (Đại Chánh Tạng, tập 55, kinh số 2154), trang 555, tờ c, dòng thứ 3-4 chép rõ ràng về ngày tháng năm và nơi tiến hành dịch bản kinh này như sau:
般若波羅蜜多心經一 卷... (Bát-nhã ba-la-mật-đa Tâm kinh, nhất quyển)
貞觀二 十三年五月二 十四日於終南山翠微宮譯沙門知仁筆受 (Trinh Quán nhị thập tam niên, ngũ ngoạt nhị thập tứ nhật, ư Chung Nam sơn, Thúy Vi cung dịch, sa-môn Tri Nhân bút thọ)
Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh, một quyển. Niên hiệu Trinh Quán thứ 23 (Dương lịch 649), vào ngày 24 tháng 5, dịch tại núi Chung Nam, trong cung Thúy Vi, Sa-môn Tri Nhân làm bút thọ.
Như vậy, việc thừa nhận Tâm kinh do ngài Huyền Trang dịch không phải ý riêng của tôi, mà là thông tin chính thức hiện đang được cộng đồng Phật tử khắp nơi chấp nhận và sử dụng, kể cả các học giả gần đây nhất đã tham gia biên tập hình thành Đại Chánh tân tu Đại Tạng Kinh. Và nếu Tâm kinh do ngài Huyền Trang dịch từ Phạn bản sang thành Hán ngữ, thì điều tất nhiên là chưa từng có bất kỳ tổ sư nào biên tập Tâm kinh cả!
Còn việc “các nghiên cứu Phật học gần đây đưa tới kết luận ngược lại” thì đó chỉ có thể là một thông tin tham khảo mà thôi. Hẳn anh thừa biết là trong y khoa cũng thế, khi một kết quả còn trong phạm vi nghiên cứu, vị bác sĩ không thể áp dụng vào việc khám và điều trị cho bệnh nhân, mà phải đợi đến khi nào kết quả đó được chính thức công nhận trên phạm vi quốc gia hoặc quốc tế. Khi chưa được cộng đồng công nhận, mọi kết quả nghiên cứu chỉ nên dùng để tham khảo mà thôi. Đó không phải ý kiến của riêng tôi, mà là một nguyên tắc khoa học. Việc tin rằng có vị tổ sư nào đó đã biên tập Tâm kinh là quyền của mỗi người, nhưng việc sử dụng thông tin này như một nguồn chính thức khi chưa được cộng đồng Phật tử công nhận là điều sai lầm. Trong nghiên cứu Phật học, nếu không phân biệt rõ giữa thông tin chính thức và thông tin tham khảo thì kết quả nghiên cứu sẽ không bao giờ có được độ tin cậy.
- Theo EC, các ý tưởng Mật giáo đã bắt đầu thâm nhập Kinh Bát Nhã từ khoảng năm 600, và theo các nhà Phật học McRae và Fukui...
Góp ý này của anh rất tiếc là... lạc đề. Nhận xét trong bài của tôi liên quan đến đoạn văn này của thầy Nhất Hạnh:
"Tâm kinh Bát-nhã ra đời muộn khi tín ngưỡng mật giáo đã bắt đầu thịnh hành. Vị tổ sư biên tập Tâm kinh đã muốn tín đồ Mật giáo đọc tụng Tâm kinh, nên trong đoạn cuối đã trình bày Tâm kinh như một linh chú."
Như vậy anh đâu cần trích dẫn Conze cũng như các nhà Phật học khác để giải thích về việc đưa yếu tố Mật giáo vào Tâm kinh? Vấn đề tôi nêu ra ở đây là sự mâu thuẫn về niên đại, vì thầy Nhất Hạnh cho rằng “khi tín ngưỡng Mật giáo đã bắt đầu thịnh hành”. Xin chú ý hai chữ “thịnh hành”, có nghĩa là đã có nhiều người tin theo, đã phát triển đến một mức khá phổ biến. Và lịch sử ghi nhận một giai đoạn “thịnh hành” như thế của Mật giáo tại Trung Hoa sớm nhất cũng phải rơi vào niên đại của ngài Bất Không (sinh năm 705 và mất năm 774), tức là sau ngài Huyền Trang gần 2 thế kỷ.
- Đối với NMT, Tâm Kinh trước hết là một bài chú, được trì tụng với niềm tin ở sức mạnh che chở và giải thoát của nó. Tôi hoàn toàn tôn trọng niềm tin này, cũng như niềm tin trong mọi tôn giáo...
Điểm góp ý này anh sai hoàn toàn vì không đọc kỹ những gì tôi viết. Tôi viết như sau:
“Tâm kinh Bát-nhã trước hết là một bài chú đối với rất nhiều người. Trong số hàng triệu Phật tử trì tụng Tâm kinh trong thời khóa công phu mỗi ngày của mình, không phải ai cũng hiểu thấu suốt được ý nghĩa của từng câu chữ.”
Tôi thừa nhận rằng chính bản thân tôi trong tuổi ấu thơ cũng từng tiếp cận Tâm kinh như một bài linh chú, nhưng đó không phải điều tôi muốn nói ở đây. Điều tôi muốn nói là tâm trạng, là cảm nhận của rất nhiều người, và đó mới là điều quan trọng, mới là động lực để tôi nêu ra ý kiến phản biện của mình. Vì thế, việc anh nêu ra “Tân phái Trí tuệ” với “Cổ phái Trí tuệ” và “đặt nặng trí tuệ hơn đức tin”... đều là những lý lẽ không cần thiết. Và nhầm lẫn khởi đầu từ chỗ khi tôi viết “đối với rất nhiều người” thì anh lại đọc hiểu thành “đối với Nguyễn Minh Tiến”.
Ý kiến duy nhất hàm nghĩa phản biện mà tôi nhận ra được trong phần anh viết về bài viết của tôi có lẽ là khi anh cho rằng chuyện thầy Nhất Hạnh dịch lại Tâm kinh thật ra không quan trọng:
 “Nhưng thật ra, nếu so sánh Bản dịch mới với các bản dịch trước, chúng ta sẽ thấy không có nhiều đổi thay quan trọng...”
Nếu anh đúng ở điểm này, thì cả Jayarava, Giáo sư Lê Tự Hỷ và tôi cùng với rất nhiều Phật tử khác quan tâm đến vấn đề này (bài viết của tôi đã có hơn 17 ngàn lượt xem trên TVHS) đều đã sai lầm khi nêu lên vấn đề mà không chịu “so sánh Bản dịch mới với các bản dịch trước” như anh đã làm, bởi vì qua đó anh đã thấy là “không có nhiều đổi thay quan trọng”.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là, tuy anh nói thế nhưng chính thầy Nhất Hạnh lại xem việc đưa ra bản dịch mới này là cực kỳ quan trọng, vì theo ý thầy thì nó sẽ giúp xóa bỏ “nhiều hiểu lầm qua các thời đại” do sự “vụng về” của vị Tổ sư biên tập Tâm kinh trước đây.
Vậy là tầm nhìn của thầy Nhất Hạnh khi đưa ra “bản dịch mới” có thể đã không tương hợp với tầm nhìn của anh Trịnh Đình Hỷ khi đọc lại cũng chính “bản dịch” đó. Và do đó, ý kiến tưởng như “xoa dịu” của anh hóa ra lại đẩy vấn đề đến một góc độ khác, rằng thầy Nhất Hạnh đã làm một việc khá vô ích vì nó không quan trọng. Tôi nhận thấy anh lặp lại ý kiến này một lần nữa rõ rệt hơn ở phần kết luận sau đó.

Luận mà không kết...

Thầy Nhất Hạnh đã nêu lý do phải “dịch lại” Tâm kinh như sau:
“Sở dĩ Thầy phải dịch lại Tâm kinh, vì vị tổ sư biên tập Tâm kinh đã không đủ khéo léo trong khi sử dụng ngôn từ; do đó, đã gây ra nhiều hiểu lầm qua các thời đại...”
Tiếp đó thầy kể chuyện chú sa-di bị kéo mũi để chứng minh rằng “sự hiểu lầm qua các thời đại” đó chính là việc hiểu chữ “không”“không có gì”.
Nhưng trong phần kết luận của bài viết, anh Trịnh Đình Hỷ đã không đồng ý về điều đó. Anh viết:
“Đối với tôi, cái tai hại khi hiểu lầm Tâm Kinh không phải hiểu chữ «không» là «không có gì». Điều đó, cũng như chuyện «chú tiểu bị vặn mũi», ít khi xảy ra.”
Với một chuyện theo anh là không tai hại và “ít khi xảy ra”, nhưng thầy Nhất Hạnh lại xem là nguyên do khiến thầy phải “dịch lại” Tâm kinh, vậy nếu tin vào nhận xét của anh, chúng ta không thể không cho rằng thiền sư Nhất Hạnh đã làm một việc khá là vô ích.
Thật ra, trong một đoạn trước khi đi vào “kết luận”, anh Trịnh Đình Hỷ cũng đã kịp nêu ra một phê phán khác đối với thầy Nhất Hạnh. Anh viết:
“Cho nên, đối với tôi, mỗi khi đọc đến câu «viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết-bàn», thì tôi vẫn nghĩ là Niết-bàn cũng là một mộng tưởng điên đảo mà mình phải viễn ly! Và tôi lấy làm lạ là tất cả các bản dịch, ngay cả của TNH, đều nói đến Niết-bàn như cứu cánh của vị Bồ tát.”
Điều này hàm ý tất cả các bản dịch, kể cả bản dịch của thầy Nhất Hạnh, đều... sai, vì khiến người đọc hiểu lầm về một “Niết-bàn như cứu cánh của vị Bồ Tát”, trong khi anh Trịnh Đình Hỷ cho rằng Niết-bàn cũng là một “mộng tưởng điên đảo” cần phải viễn ly.
Thật ra, tôi đã đọc thấy thầy Tuệ Sỹ nhắc đến cách hiểu này trong bài viết của thầy ở đây, nhưng không nói rõ là ý kiến của ai. Và thầy Tuệ Sỹ đã nhận xét: “Giải thích này rất hay, nhưng hình như không thực tiễn, nếu hiểu theo trình tự tu tập Bát-nhã...”
Lời dạy của thầy quả là vô cùng thâm diệu. Giáo pháp là để tu tập, nếu nó hay mà không thực tiễn thì chỉ có thể nêu ra để... được người khác ngợi khen thôi, chẳng ích lợi gì.
Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên khi đọc phần Kết luận của bài viết không phải là chuyện anh phê phán đúng hay sai, mà là vì những phê phán ấy... nằm không đúng chỗ. Thông thường, độc giả sẽ mong đợi một sự tóm kết, nhắc lại hoặc nhấn mạnh những điểm chính đã nêu trong bài, hoặc chí ít cũng là nêu ra quan điểm kết luận của người viết. Nhưng anh Trịnh Đình Hỷ không viết theo “thông lệ” ấy, mà anh tiếp tục đà “phê phán” mở rộng hơn trong chính phần Kết luận này. Và bây giờ là một phê phán nhắm vào Lục tổ Huệ Năng, được mở rộng xuống đến phần chú giải số 17 mà tôi trích kèm theo để độc giả tiện xem xét:
“Tai hại thứ hai, mà ít người nói tới, là hiểu «không» là «có», tức là «chân không là diệu hữu», đi tìm sự thật tuyệt đối, tối hậu, mà những Kinh Đại Thừa sau này gọi là Chân Như (tathatā), là Phật tánh (buddhata), là Như Lai tạng (tathāgatagarbha), là A-lại-da-thức (ālayavijñāna), là Pháp giới (dharmadhatu), v.v. (17)...”
(17) “Sự nhập nhằng này, nhiều vị Thiền sư cũng bị vướng phải, mặc dù Thiền tông lấy “tánh không”, Kinh Bát Nhã làm căn bản. Chẳng hạn như Lục tổ Huệ Năng, sau khi nghe Thầy mình, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, giảng Kinh Kim Cang, bỗng hoát ngộ kêu lên: “Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tánh vốn không dao động, nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp!”. Trong câu này, Huệ Năng làm nổi bật lên “tự tánh”, cũng như các khái niệm thường gặp trong Thiền tông, như “chân tâm”, “tâm thường hằng, sáng chói”, “tánh giác”, “bản lai diện mục”, “Phật tánh”, v.v., là những điều không thể có được theo tinh thần “tánh không” của mọi pháp, phủ nhận “tự tánh” (svabhāva), của Bát Nhã và Nāgārjuna.”
Trong phần mở đầu nêu lý do “dịch lại” Tâm kinh, thầy Nhất Hạnh nhắc đến Lục tổ Huệ Năng với bài kệ “Bản lai vô nhất vật” và cho rằng ngài đã rơi vào chỗ “chấp không”. Trong phần Kết luận của bài viết này, anh Trịnh Đình Hỷ phê phán Lục tổ Huệ Năng là rơi vào “chấp có”. Cùng một vị Lục tổ ấy, thầy Nhất Hạnh chê là “chấp không”, anh Trịnh Đình Hỷ cho là “chấp có”. Điều này khiến tôi chợt nhớ đến một giai thoại thiền có liên quan đến Lục tổ với câu nói nổi tiếng: “Không phải phướn động, không phải gió động, chính là tâm các ông động.” Trong trường hợp này, phải chăng Lục tổ nếu nghe được cũng sẽ phải từ bi mà nói rằng: “Không phải Huệ Năng chấp có, không phải Huệ Năng chấp không, chính là tâm các ông đang chấp... đủ thứ!”
Lục tổ Huệ Năng được xem là cội nguồn khởi phát chấn hưng Thiền tông Trung Hoa, các truyền nhân của ngài về sau đã khai sinh ra Ngũ gia Thất tông, trong đó có dòng thiền Lâm Tế. Tổ Liễu Quán của thiền Việt Nam là đệ tử dòng Lâm Tế, đời thứ 35. Thầy Nhất Hạnh thuộc dòng Liễu Quán, đời thứ 8; cũng được xem là thuộc dòng Lâm Tế, đời thứ 42. Hòa thượng Thích Thanh Từ thế phát xuất gia với Hòa thượng Thích Thiện Hoa; Hòa thượng Thích Thiện Hoa cầu học với Tổ Khánh Anh; Tổ Khánh Anh là đệ tử thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 40...
Như vậy, Lục tổ Huệ Năng ít nhất cũng đã để lại cho người đời sau cả một gia tài pháp bảo lớn lao mà trong đó thầy Nhất Hạnh cũng như nhiều cao tăng Việt Nam đều được chia phần, nhờ tiếp nhận dòng truyền thừa tu tập Chánh pháp. Nếu niềm tin vào sự chứng ngộ của Lục tổ Huệ Năng bị lung lay do “lý luận” của những người như thầy Nhất Hạnh hay anh Trịnh Đình Hỷ, tôi thật không dám chắc rằng thế hệ Phật tử tiếp theo sau nữa rồi sẽ đặt niềm tin vào đâu?
Tóm lại, điểm khác thường ở đây là sau khi đọc qua phần Kết luận của bài viết, tôi nhận ra anh đã “luận” thêm một số vấn đề khác thay vì “kết” lại.

Cốt lõi của bản dịch Tâm kinh mới

Cuối cùng rồi thì qua việc đọc kỹ bài viết của anh, tôi cũng bắt gặp được điểm cốt lõi nhất, ít ra là theo cách nhìn của anh. Đó là đoạn văn này:
“Thật ra, những lời phê bình này đều nhằm vào những chi tiết nhỏ nhặt, những điểm không quan trọng, «chẻ sợi tóc ra làm tư» mà không nhìn thấy cái chính, tức là cái đầu ở đâu!
Điều mới mẻ và đặc sắc của «Bản dịch Tâm Kinh mới» của TNH nằm ở sự thay đổi bất ngờ của những câu sau... ...Từ «không» được thay thế bằng cụm từ «không có mặt như một thực thể riêng biệt».”
Đoạn này nằm trong phần phê bình bài viết của Jayarava và là một trong những chỗ anh Trịnh Đình Hỷ nêu vấn đề rõ ràng, dễ hiểu. Qua đoạn văn này, người đọc dễ dàng tiếp nhận được ngay rằng đối với anh thì cốt lõi, điểm “mới mẻ và đặc sắc” của bản dịch mới nằm ở chỗ “Từ «không» được thay thế bằng cụm từ «không có mặt như một thực thể riêng biệt»”, và đây chính là “cái đầu”, là phần quan trọng nhất, theo nhận xét của anh.
Tôi không dám chắc về việc liệu thầy Nhất Hạnh có đồng ý với anh rằng đây là phần sửa đổi “quan trọng” hay “đặc sắc” nhất hay không, nhưng thật không may khi anh phê phán Jayarava “nhằm vào những chi tiết nhỏ nhặt”, “không nhìn thấy cái chính” mà lại đưa ra đoạn văn này để chứng minh. Vì sao vậy? Vì chính Jayarava đã phê phán đoạn “dịch mới” này của thầy Nhất Hạnh khá gay gắt, nên luận điểm mà anh nêu ra đã chứng minh một điều không mong muốn. Đó là anh không hề đọc kỹ bài viết của Jayarava. Trong bài viết, Jayarava phê phán đoạn “dịch mới” này của thầy Nhất Hạnh như sau:
“TNH gets around this by changing the text so that it now says that the skandhas are not separate entities. This is by no means bad doctrine from a Mahāyānist point of view, but it is also not what the text says. So TNH's "translation" is something that he has made up to solve an apparent problem (a post hoc rationalisation).”
(TNH giải quyết mâu thuẫn bằng cách thay đổi kinh văn để đoạn kinh này trở thành là: “các uẩn không có mặt như những thực tại riêng biệt”. Theo quan điểm Đại thừa thì câu kinh sửa lại này tuy hoàn toàn không phải là tà kiến nhưng cũng không phải là những gì mà Tâm kinh muốn nói. Vì vậy, “bản dịch” của TNH là những gì do ông tạo ra để giải quyết một bất ổn hiển nhiên - một sự lý giải theo đuôi vấn đề.)
Chữ dùng của thầy Nhất Hạnh là “thực tại” nhưng anh đã dẫn lại thành “thực thể”, tôi không hiểu nguyên do.
Giáo sư Lê Tự Hỷ cũng không tán thành với sự thay đổi “mới mẻ và đặc sắc” này. Qua phân tích Phạn văn, Giáo sư chứng minh rằng việc làm như thế đã khiến cho đoạn văn này trở thành lặp ý với đoạn trước đó, và như vậy cũng đồng nghĩa với việc làm thay đổi, mất đi một phần ý nghĩa của Tâm kinh. Ông viết:
“Việc dịch ra câu này của thầy Nhất Hạnh, ngoài việc khiến người đọc nghĩ “cái không” chiếm một phần trong không gian, còn chuyển “lời dạy về cách tu” của Bồ tát thành câu mô tả với ý “mọi cái từ sắc, thọ, tưởng, …, ý thức giới” “đều không có mặt như những thực tại riêng biệt”. Mà ý này thì Bồ tát đã dạy ở đoạn trên rồi!, đó là mọi hiện tượng đều không tự có như tôi đã nêu ra. Tâm kinh vô cùng súc tích thì đoạn dưới không thể trùng lắp ý với đoạn trên.”
Như vậy, điều mà anh Trịnh Đình Hỷ cho rằng Jayarava “không nhìn thấy” thì trong thực tế chính anh mới là người không nhìn thấy, và cả hai tác giả Jayarava cũng như Giáo sư Lê Tự Hỷ đều đã chỉ ra điểm này quá rõ, cũng như cả hai người đều đồng ý rằng “dịch lại” như vậy là không đúng ý kinh. Nói một cách thẳng thắn hơn thì như thế chính là “sửa kinh” chứ không phải dịch kinh.
Việc chọn cùng lúc cả 3 bài viết để đưa ra phê phán dường như là một nhiệm vụ quá nặng nề đối với anh Trịnh Đình Hỷ, do đó mà anh đã bộc lộ rõ trong bài viết của mình một sai lầm căn bản nhất là chưa hề đọc kỹ các bài viết mà mình mang ra phê phán. Ngay cả tiêu đề bài viết của tôi khi trích lại anh cũng đã làm mất đi một chữ: Có nên dịch lại Tâm kinh hay không.

Về hai điểm phụ gia

Điều khá đặc biệt và bất ngờ là không chỉ tập trung “mổ xẻ” ba bài viết của Jayarava, Giáo sư Lê Tự Hỷ và tôi, anh Trịnh Đình Hỷ còn “phụ gia” hai đề tài khác vào bài viết của mình. Không hiểu chỉ là do ngẫu nhiên hay có nhân duyên gì khác, nhưng đây lại chính là hai điều tôi đang muốn đề cập đến vì nhận thấy có những khuynh hướng cực kỳ nguy hại hiện đang lan tràn nhanh chóng trong giới học Phật. Dưới đây là một vài nhận xét về các phần “phụ gia” của anh.

1. Những hiểu biết mới về nguồn gốc của Tâm Kinh

Trong phần này, anh dẫn công trình nghiên cứu của Jan Nattier để chứng minh và đi đến kết luận rằng: “Những khám phá mới này đã mang lại nhiều đổi thay trong sự hiểu biết về nguồn gốc của Tâm Kinh, và đã nhận được một sự hưởng ứng gần như đồng nhất trong giới nghiên cứu Phật học. Tuy nhiên người ta vẫn chưa biết rõ tác giả của Tâm Kinh là ai, chỉ biết là thời điểm xuất hiện là vào giữa hai nhà biên dịch Kinh Phật nổi tiếng này, tức là từ tk. 5 tới tk 7.”
Về mặt khảo cứu, có thể điều này cần thiết ở góc độ tìm hiểu lịch sử, nhưng trong thực tiễn tu học của người Phật tử, từ chỗ hiểu biết hiện nay rằng Tâm kinh do ngài Huyền Trang chuyển dịch, rồi nghiên cứu kỹ lưỡng để đi đến kết quả không biết là ai viết ra, liệu có chút giá trị thực tiễn nào chăng?
Tuy nhiên, muốn biết giá trị và ý nghĩa thực sự của phần này, xin mời độc giả trực tiếp đọc trong bài viết của anh. Ở đây tôi chỉ nêu ra một vài bất ổn qua sự trình bày của anh.
Thứ nhất, anh nói rằng kết quả nghiên cứu này “đã nhận được một sự hưởng ứng gần như đồng nhất trong giới nghiên cứu Phật học” nhưng không nói rõ là dựa vào đâu anh đưa ra thông tin này? Ai cũng có thể nói như vậy được cả, nhưng đã có hội nghị Phật giáo nào, tổ chức cộng đồng Phật giáo nào chính thức bày tỏ quan điểm về kết quả nghiên cứu này để có thể xem là một sự “hưởng ứng gần như đồng nhất”?
Thứ hai, anh viết: “Hai bản dịch đầu tiên được gán cho Kumārajīva (đầu tk. 5) và Huyền Trang (tk. 7), nhưng hiện nay rất bị ngờ vực là không phải của họ (14)”
Để chứng minh điều này, anh đưa vào chú thích số 14 như sau:
(14) Bản liệt kê mục lục Khai nguyên Thích giáo lục, xuất bản tk. 8 đời nhà Đường, lần đầu tiên ghi nhận bản dịch (gọi là) của Kumārajīva, mà không nói đến bản dịch (gọi là) của Huyền Trang...
Chú thích này không chính xác. Khai Nguyên Thích Giáo Lục (開元釋教錄) là tác phẩm tôi đã trích dẫn ở một phần trên, trong Hán ngữ gồm 20 quyển (Đại Chánh Tạng, tập 55, kinh số 2154). Tác phẩm này không những có nói đến bản dịch của ngài Huyền Trang trong quyển thứ 8, tại trang 555, tờ c, dòng thứ 3-4, mà còn nói rõ ràng cả ngày tháng năm dịch, nơi dịch, vậy tại sao anh cho là “không nói đến”?
Và tôi cũng không phải người duy nhất đã đọc và trích dẫn thông tin này từ Khai Nguyên Thích Giáo Lục, thầy Tuệ Sỹ có dẫn trong bài viết của thầy như sau:
Công trình phiên dịch của Tam tạng khởi sự từ năm Trinh quán 19 (TL. 645).[3] Đến năm Trinh quán 23 (TL. 648), tháng năm, ngày 24, Bát-nhã Tâm kinh được phiên dịch tại cung Thúy vi, núi Chung nam; sa-môn Tri Nhân bút thọ.[4]
Và ở chú giải số 4, thầy ghi rõ kinh số, trang, dòng... đã trích thông tin trên. (Xem ở đây.)
Tuy nhiên, điều tôi muốn nhấn mạnh trong phần này không phải là độ chính xác quá kém trong việc trích dẫn và trình bày thông tin, mà là một sai lầm có tầm vóc lớn hơn như tôi đã đề cập ở một phần trên. Đó là, mọi thông tin, kết quả có được trong nghiên cứu Phật học khi chưa được công nhận thì không nên được xem như chính thức để mang ra trao đổi, giảng dạy cho quảng đại quần chúng Phật tử, vì điều này chỉ có hại mà không có lợi. Thật ra, trong nghiên cứu khoa học thì đây là một nguyên tắc. Phạm trù thông tin tham khảo có được từ các nghiên cứu đang tiến hành không bao giờ được phép sử dụng làm căn cứ chính thức cho các nghiên cứu khác, chỉ có thể sử dụng vào mục đích tham khảo mà thôi.
Tiếc thay, nhiều bậc thầy Phật giáo đang làm điều ngược lại. Việc thầy Nhất Hạnh nêu chuyện “tổ sư biên tập Tâm kinh” là một ví dụ. Điều đó chỉ gây thêm hoang mang cho người Phật tử chứ không giúp họ tiếp cận Kinh Phật dễ dàng hơn. Rất nhiều vị giảng sư, thượng tọa, đại đức khác hiện nay đang thường xuyên tuyên bố trước thính chúng Phật tử rất nhiều điều dựa vào... “những nghiên cứu gần đây”, mà nghiêm trọng nhất trong số đó là về “nguồn gốc kinh Đại thừa”. Lẽ ra, đối với người Phật tử nói chung, với các bậc thầy trong Phật giáo nói riêng, thì việc xác nhận nguồn gốc Kinh Phật chỉ nên dựa vào sự thực nghiệm tu tập của chính bản thân mình, nhưng có rất nhiều bậc thầy ngày nay lại ưa thích trích dẫn các “kết quả nghiên cứu” để rồi chỉ đạt đến một điều duy nhất là gây hoang mang cho người Phật tử. Hàng loạt các bài giảng phủ nhận kinh A-di-đà, kinh Địa Tạng, kinh Dược Sư v.v... đều rơi vào trường hợp này.
Tóm lại, việc nghiên cứu dù sao cũng chỉ là nghiên cứu, nó có thể mang lại nhiều lợi ích nếu chúng ta biết sử dụng thành quả nghiên cứu một cách đúng đắn, nhưng nếu chúng ta quá xem trọng cái gọi là “kết quả nghiên cứu” mà quên đi nó vẫn còn nằm trong phạm vi thông tin tham khảo, thì sự tai hại, nguy hiểm cho những người tiếp nhận thông tin là rất khó tránh khỏi.
Một khuynh hướng cực đoan ngược lại cũng đang được nhận thấy trong quan điểm của một số bài viết gần đây và ngay trong bài viết này của anh Trịnh Đình Hỷ. Đó là sự phân biệt theo lối “hai chọn một” giữa “học giả” và “hành giả”, giữa “nhà nghiên cứu” và “người tu tập”, hay giữa “học giả” và “thiền sinh”.
Thay vì “sính kết quả nghiên cứu” và xem đó như yếu tố đáng tin cậy trong tu học, thì người rơi vào khuynh hướng này lại “dị ứng” với các học giả, nhà nghiên cứu... vì cho rằng họ chỉ “săm soi gói trà” chứ không biết “mở gói trà ra thưởng thức”. Trong một đoạn phê phán Jayarava, anh Trịnh Đình Hỷ đã viết:
“Tác giả có thể viết hơn 30 bài tiểu luận về Tâm Kinh mà vẫn chưa thấm nhuần được nó, có lẽ đó là điểm khác biệt giữa nhà nghiên cứu Phật học, và người tu và thực nghiệm đạo Phật.”
Tôi đã đọc Jayarava khá kỹ và cũng từng trao đổi với ông qua thư từ. Tôi rất cảm kích sự sẵn lòng chia sẻ thông tin của ông, nhưng tôi thực sự không biết phải dựa vào đâu để có thể nhận xét là Jayarava đã “thấm nhuần” hay “chưa thấm nhuần” Tâm kinh. Có lẽ đó là điểm khác biệt giữa tôi với anh Trịnh Đình Hỷ, bởi ngay cả khi anh chưa đọc kỹ toàn bài viết của Jayarava (như trên đã chứng minh) nhưng cũng đã nhận ra được là ông này chưa thấm nhuần Tâm kinh. Hơn nữa, câu văn của anh hàm ý “xếp” Jayarava vào “loại” nhà nghiên cứu Phật học, và do đó “phải khác biệt” với “người tu và thực nghiệm đạo Phật”.
Cũng trong khuynh hướng này, một tác giả khác, Bác sĩ Tào Trọng Nhân đã viết:
“Người thiền sinh, cầm gói trà trên tay, ngắm nghía một chút, miệng mỉm cười tay nhẹ nhàng mở gói trà. Rồi họ pha trà... ... Khác hẳn học giả chỗ đó, họ uống trà và không hàn huyên luận bàn tranh cãi và nhất là không phê bình ai.(Xem ở đây.)
Trong hai ví dụ dẫn trên, chúng ta thấy được một điểm chung là cả hai tác giả đều phân biệt theo lối “hai chọn một” giữa “học giả” và “hành giả”, giữa “nhà nghiên cứu” và “người tu tập”, hay giữa “học giả” và “thiền sinh”, và theo minh họa rất sống động của tác giả Tào Trọng Nhân thì đó là những người “bàn luận về trà” và những người “uống trà”.
Tuy nhiên, quan niệm phân biệt cũng như hình ảnh minh họa này không đúng thực tế, cũng như cái tiêu chí mà tác giả Tào Trọng Nhân đưa ra đó nếu được cộng đồng Phật tử tin theo và áp dụng sẽ làm đảo lộn và phá nát tan tành cả khu rừng Phật giáo. Tôi sẽ chứng minh điều này.
Trong thực tế, chúng ta không thể vô cớ phân biệt rạch ròi giữa việc nghiên cứu Phật học như một học giả với việc thực hành đạo Phật như một hành giả. Không có bất kỳ lý do nào ngăn cản một người nghiên cứu sâu về Phật học lại không thể áp dụng những hiểu biết đó vào đời sống hằng ngày của chính mình. Ngược lại, trong quy trình tu tập chuẩn mực nhất cho mọi tông phái đạo Phật là “Giới - Định - Tuệ” thì việc tu tập phải gắn liền với nghiên cứu học hỏi. Nếu một người tuyên bố chỉ lo tu tập thôi không cần đọc hiểu nhiều Kinh điển, Giáo pháp, thì chúng ta cần phải đặt câu hỏi là người ấy sẽ tu tập như thế nào? Liệu có đúng với tinh thần Phật pháp hay không? Mà khi đã nghiên cứu học hỏi Kinh điển thì điều tất nhiên sẽ phát sinh các vấn đề hiểu đúng hoặc hiểu sai, cần có sự phân tích, trao đổi, phê bình để giữ theo chuẩn mực đúng nhất... miễn là giữ theo được tinh thần của Tỳ-kheo Na-tiên như tôi đã dẫn ra ở đầu bài viết này.
Lịch sử Phật giáo cho thấy hầu hết, nếu không nói là tất cả, các bậc cao tăng đều cũng đồng thời là những học giả, nhà nghiên cứu. Hòa thượng Thích Trí Tịnh nếu không là một học giả Phật giáo thì chúng ta sẽ không có rất nhiều bản Việt dịch Kinh điển; Hòa thượng Thích Minh Châu nếu không là một học giả, nhà nghiên cứu uyên bác thì chúng ta sẽ không có được cả tạng kinh Pali được Việt dịch để căn cứ vào đó mà tu tập; thầy Nhất Hạnh cũng là một học giả, nhà nghiên cứu qua tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận nổi tiếng dưới tên Nguyễn Lang... Trở ngược về quá khứ lâu xa hơn thì các thiền sư Vạn Hạnh, Pháp Thuận, Khuông Việt và rất nhiều các thiền sư đời Lý, Trần... đều là những học giả uyên bác, cả thế học lẫn đạo học. Nếu “xếp” tất cả các vị này vào “nhóm” học giả, những người “không biết uống trà” thì e rằng Phật giáo sẽ không còn tồn tại đến ngày nay!
Lại nữa, cứ theo tiêu chí phân biệt này: “Khác hẳn học giả chỗ đó, họ uống trà và không hàn huyên luận bàn tranh cãi và nhất là không phê bình ai” thì thầy Nhất Hạnh là người trước tiên phải loại ra khỏi “nhóm uống trà”, vì trước khi “dịch lại” Tâm kinh thầy đã phê bình ít nhất là một “tổ sư biên tập Tâm kinh vụng về”, một Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy người “quá đà” và một Lục tổ Huệ Năng “rơi vào chấp không”. Ngay cả việc anh Trịnh Đình Hỷ viết bài phê phán Jayarava, Giáo sư Trịnh Đình Hỷ và tôi thì cũng có thể là nguyên do để “khai trừ” anh ra khỏi “nhóm uống trà”.
Trong thực tế, quá trình đến với đạo Phật của một người Phật tử chân chánh không đơn giản như mô tả của tác giả Tào Trọng Nhân như là “cầm gói trà trên tay, ngắm nghía một chút, miệng mỉm cười tay nhẹ nhàng mở gói trà. Rồi họ pha trà... ...” Tất nhiên, ai trong chúng ta cũng đều mơ ước, giá mà vấn đề thực sự đơn giản như thế! Một người quen của tôi trước khi chính thức xuất gia (dù phát nguyện từ lâu) đã phải dành ra hơn 3 năm đi khắp đó đây, trú ngụ ở mỗi ngôi chùa một thời gian ngắn, rồi cuối cùng mới chọn được một vị minh sư vừa ý để thế phát xuất gia. Trong hoàn cảnh hiện nay, nếu chỉ đơn giản “cầm gói trà trên tay, ngắm nghía một chút... rồi pha trà” thì có đến hơn 90% khả năng là người ấy sẽ uống nhầm “trà dỏm” có pha hóa chất khi chế biến. Trong sự tu tập cũng giống như thế, với tình trạng “tà sư loạn thế” của ngày nay mà đơn giản hóa việc học Phật đến mức không chịu bỏ công đọc hiểu, tìm tòi nghiên cứu thì e rằng có đến chín phần mười khả năng dự báo là người như thế sẽ đi lạc đường mà thôi.
Cho nên, nếu cộng đồng Phật tử tin theo những mô tả và tiêu chí của tác giả Tào Trọng Nhân đưa ra, điều đó sẽ dẫn đến việc tất cả các bậc cao tăng từ trước đến nay đều cần phải “xét lại” như những người “không biết uống trà”, bởi họ đều là những học giả, nhà nghiên cứu. Còn về phía người Phật tử cầu học, họ sẽ không dám tin theo, nghe theo bất kỳ vị thầy nào uyên bác nhiều Kinh điển, vì có khả năng là vị ấy “không biết uống trà”. Ngược lại, bản thân họ cũng sẽ hết sức ngần ngại khi mở Kinh điển ra đọc, vì lại sợ chính mình cũng đang rơi vào nhóm “không biết uống trà”. Trong một tình trạng hỗn loạn như thế, chẳng phải là khu rừng Phật giáo sẽ bị đảo lộn và phá nát tan tành hay sao?
Tuy nhiên, tôi tin chắc điều đó sẽ không bao giờ xảy ra, bởi những người Phật tử với niềm tin chân chánh sẽ luôn có đủ sáng suốt để tự chọn cho mình một con đường tu tập mà không dễ dàng chịu sự tác động sai lệch từ bên ngoài.

2. Về ý nghĩa của từ «śūnyatā» (tánh không)

Trong phần này anh Trịnh Đình Hỷ đã giảng giải rất kỹ về từ nguyên Phạn, Hán của hai chữ “tánh không” để đi đến kết luận cuối cùng như sau:
“Như vậy, tất cả các pháp đều là śūnya (không), đều không phải là thực thể, đều không có tự tánh; ngay cả nirvāṇa (Niết-bàn). Cho nên, đối với tôi, mỗi khi đọc đến câu «viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết-bàn», thì tôi vẫn nghĩ là Niết-bàn cũng là một mộng tưởng điên đảo mà mình phải viễn ly! Và tôi lấy làm lạ là tất cả các bản dịch, ngay cả của TNH, đều nói đến Niết-bàn như cứu cánh của vị Bồ tát.”
Trong một phần trên tôi có dẫn lời thầy Tuệ Sỹ về cách hiểu “tánh không” theo lối này, nghĩa là xem “Niết-bàn” cũng là không. Thầy dạy rằng cách hiểu này “rất hay nhưng không thực tiễn”, và đã thế thì có lẽ không cần bàn sâu thêm nữa.
Tuy nhiên, điều cần bàn thêm ở đây là khi anh Trịnh Đình Hỷ vận dụng cách hiểu này để cho rằng Lục tổ Huệ Năng là người “chấp có”:
“... ...Lục tổ Huệ Năng, sau khi nghe Thầy mình, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn, giảng Kinh Kim Cang, bỗng hoát ngộ kêu lên: “Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt, nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, nào ngờ tự tánh vốn không dao động, nào ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp!”. Trong câu này, Huệ Năng làm nổi bật lên “tự tánh”, cũng như các khái niệm thường gặp trong Thiền tông, như “chân tâm”, “tâm thường hằng, sáng chói”, “tánh giác”, “bản lai diện mục”, “Phật tánh”, v.v., là những điều không thể có được theo tinh thần “tánh không” của mọi pháp, phủ nhận “tự tánh” (svabhāva), của Bát Nhã và Nāgārjuna.”
Ngược lại, thầy Nhất Hạnh có cách nhìn hoàn toàn ngược lại nên đã ra tuyên bố cho rằng Lục tổ “chấp không”. Thầy viết: “Cho đến bài kệ kiến giải tương truyền là của tổ Huệ Năng cũng bị kẹt vào ý niệm vô đó: “bản lai vô nhất vật!””
Vấn đề ở đây là cùng dựa vào một khái niệm tánh Không, cùng trên một hệ quy chiếu là những kiến giải trong nhà Thiền, anh Trịnh Đình Hỷ soi thấy Lục tổ Huệ Năng là người “chấp có”, còn thầy Nhất Hạnh cho rằng ngài “chấp không”. Điều này đặt người học Phật trước một tình huống hoang mang nan giải vì không biết phải lý giải tánh không theo cách nào mới đúng.
Với sự khác biệt về nhận thức này, tôi chợt liên tưởng đến việc hai người cùng đi trên một con đường và bàn cãi về một hình ảnh vừa hiện ra thấp thoáng từ xa, người thì bảo đó nhất định là cây cột đèn, người thì khăng khăng cho rằng đó là cây trụ điện... Những người đi đường tỉnh táo có lẽ không nên rơi vào sự tranh cãi khác biệt đó, mà hãy bình tĩnh đi tiếp đến gần hơn, tự khắc sẽ phân biệt được đó là cột đèn hay trụ điện. Cũng vậy, tánh không là một khái niệm mà người học Phật sẽ phải nhận hiểu thấu triệt trên đường cầu đạo giải thoát, nhưng với những Phật tử sơ cơ cũng không cần phải rối trí hoang mang với những tranh cãi như trên, mà nên tỉnh táo quay về với pháp môn tu tập hằng ngày của mình. Theo lời dạy đơn giản mà sâu xa của đức Phật trong kinh Đại Bát Niết-bàn thì:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.
Hết thảy việc ác chớ phạm vào,
Tất cả việc lành xin làm theo.
Tự giữ gìn tâm ý thanh tịnh,
Đó chính là lời chư Phật dạy.
Và đó có lẽ là sự chọn lựa tốt nhất đối với đại đa số Phật tử, những người không có khả năng đưa ra phán xét về việc liệu thầy Nhất Hạnh hay anh Trịnh Đình Hỷ mới là người nói đúng. Chỉ cần quay về thọ trì Năm giới thật cẩn trọng, tu tập tránh ác làm thiện ngay trong cuộc sống hằng ngày, giữ gìn tâm ý trong sáng, thanh tịnh, trừ bỏ mọi ý niệm tham lam, sân hận, si mê... thì đến một ngày không xa nào đó, chắc chắn rồi cũng sẽ có được khả năng tự mình phân biệt giữa “cột đèn” hay “trụ điện” mà thôi.

Thay lời kết: Tâm tình với anh Trịnh Đình Hỷ

Viết đến đây tôi mới chợt nhớ là mình vẫn chưa chính thức ngỏ lời cảm ơn anh vì đã cho tôi cơ hội viết ra bài này. Xin thành thật cảm ơn anh vẫn đủ kiên nhẫn để đọc đến những dòng cuối này. Cảm ơn anh vì tuy chưa quen biết nhau nhưng anh vẫn không ngại dành thời gian đọc bài viết trước đây của tôi để phân tích góp ý, và cảm ơn anh vì đã nêu ra đúng những vấn đề tôi muốn bàn bạc, trao đổi cùng những người học Phật.
Biển học mênh mông, càng vào sâu càng nhiều sóng gió, nhưng tất nhiên là bù đắp lại cũng sẽ có vô số trân châu kỳ bảo đang chờ đợi khách hải hành. Thời gian sống đời này của mỗi chúng ta, nếu xét cho cùng thì trong vô số nhân duyên ràng rịt mỗi ngày, liệu có được bao nhiêu nhân duyên đưa ta đến gần hơn với Phật pháp, hay đa phần chỉ là những nghịch duyên cuốn ta ra xa? Bởi thế, khi có được thời gian để ngồi lại trao đổi về Phật pháp, tôi luôn hết sức trân quý cơ hội đó. Và tôi cũng trân quý cả thời gian của từng độc giả đã bỏ ra để đọc hết những dòng chữ tôi viết, xem đó là sự kết nối nhiệm mầu qua Phật pháp giúp cho những người chưa từng quen biết nhau vẫn có thể cảm nhận được đôi chút về nhau. Bằng tất cả sự trân quý đó, tôi luôn cẩn trọng, cân nhắc và chọn lựa từng từ ngữ, chỉnh sửa từng dấu chấm phẩy trong câu văn, để qua đó thể hiện lòng biết ơn sâu xa với Phật pháp và sự trân trọng vô cùng đối với từng độc giả. Suy cho cùng, trong hàng tỷ người trên thế giới này, con số những người có cơ hội biết đến nhau - dù chỉ là qua một bài viết này - chẳng phải là ít ỏi lắm sao?
Nhưng cho dù cẩn trọng đến đâu, hẳn cũng không tránh khỏi những sai sót nhất định. Chỉ vì anh đã bỏ công đọc bài của tôi và góp ý, tôi không thể không đáp lại tấm lòng tri ngộ đó. Vì thế, tôi cũng thành thật và thẳng thắn nêu ra hết những gì tôi nhận hiểu được qua bài viết của anh. Nếu có những điểm nào chưa thực sự chỉnh chu hay còn thiếu sót, rất mong anh cũng thật lòng trao đổi trên tinh thần của Tỳ-kheo Na-tiên như tôi đã dẫn. Thân kính chúc anh vạn điều an lạc.

The joy of catching the void

The most interesting thing for a Buddhist is to learn the content of the Buddha's teachings right from what happens in real life, not just from the silent pages of scriptures. Therefore, Buddhists who seek to learn are always deeply grateful to those who point out to them their wrong or inaccurate perceptions, because that helps us to promptly correct our own mistakes, and thanks to that, we can continue our path of practice in the right direction.
We – including Jayarava, Professor Le Tu Hy and I – almost had a lucky opportunity to be grateful like that, when all three of us were included in an article by Mr. Trinh Dinh Hy with the title “On the criticisms of the new translation of the Heart Sutra by Zen Master Thich Nhat Hanh”. The “criticisms” that are “named and shamed” here are my article published in November 2014 (about 3 months after the new “translation” of the Heart Sutra by Master Nhat Hanh was published), Jayarava’s article (in English) published in March 2016, and Professor Le Tu Hy’s article, most recently published on November 29, 2017. In these articles, only Jayarava’s article uses the word “critique” once in the article and is written in a clearly critical style, while my article and Professor Le Tu Hy’s both only aim to raise some opinions surrounding the issue of “retranslating” the Heart Sutra, not aiming to criticize or comment. Professor Le Tu Hy clearly identified this tendency from the beginning of the article: “...with the utmost respect for Master Nhat Hanh, I would like to present some thoughts as follows.”
Mr. Jayarava is an English speaker living in Cambridge, so his article only focuses on Master Nhat Hanh's English translation. Any links and comparisons with the Vietnamese translation of the teacher are the efforts of the Vietnamese translator, not his intention. And because of that, the language barrier will not allow him to access this special article by Mr. Trinh Dinh Hy. Professor Le Tu Hy himself had a solemn thank you to Mr. Trinh Dinh Hy through the introduction in the article: “Some comments on “On the criticisms of the new translation of the Heart Sutra by Zen Master Thich Nhat Hanh by Doctor Trinh Dinh Hy”. I myself should probably also say a few words of appreciation for the very hard-working article of Mr. Trinh Dinh Hy because he simultaneously analyzed all three articles, each of which contains content that is not simple, if not quite concise and complex.
However However, first of all, I would like to take this opportunity to express my sincere thanks to Jayarava and Professor Le Tu Hy. Through the articles of both of them, I had the opportunity to re-read my article written more than 3 years ago; and from their articles, I have consolidated many useful perceptions about the Heart Sutra, and learned many new things from different perspectives on the Heart Sutra text. I have not had the opportunity to discuss with Professor Le Tu Hy, but I have corresponded with Jayarava to clarify his ideas in the article. Therefore, I not only learned from him through the article, but also from the letters he wrote to me.
Although both articles by Jayarava and Professor Le Tu Hy were published quite late compared to mine, when the issue of "new translation of the Heart Sutra" had somewhat subsided and few people still remembered it, I recognized many similarities in their comments. Moreover, the analytical perspectives of the two were different. differences, and it is these differences that allow me to learn so much.
I also sincerely thank translator Phuoc Nguyen because through discovering and pointing out serious errors in his Vietnamese translation and sending them to the Hoa Sen Library Editorial Board, I had the opportunity to spend more time on Jayarava's research. Many of the corrections in translator Phuoc Nguyen's translation were immediately "copied" from my Vietnamese translation on the website Rông Lớn Tâm Hồn, but unfortunately at a time when I had not really completed it. Therefore, interested readers can find the current complete version at here. In the spirit of academic responsibility, I am forced to say this (because translator Phuoc Nguyen did not mention it) to avoid readers from misunderstanding some similarities and possibly mistakenly thinking that I “copied” from a previously published translation.
Returning to Trinh Dinh Hy’s article, I was extremely happy when I read the opening paragraph:
“... with mainly 3 critical and commentary articles posted online, by Nguyen Minh Tien, Jayarava Attwood, and Le Tu Hy. That proves the special interest in this Sutra by Buddhists and Buddhist scholars, and in my opinion, that in itself is a good thing and should be encouraged. Buddhist scriptures are not just for chanting, displaying, or keeping in a bookshelf, but must be pondered over, and their meaning and history must be deeply understood. However, after reading these reviews and comments, I cannot help but be disappointed in their quality, depth, and vision, because most of them focus more on form than on content, and get stuck in small details, complex arguments about language, without understanding the author's intentions, as well as the difficulties encountered when reading and translating the Heart Sutra. My joy is not because you consider these articles to be “congratulatory and should be encouraged,” but from your promising criticism: “I cannot help but be disappointed in their quality, depth, and vision, because most of them focus more on form than on content, and get stuck in small details, complex arguments about language, without understanding the author's intentions, as well as the difficulties encountered when reading and translating the Heart Sutra.” understanding the author's intentions...
Imagine, when you were still in school and heard your teacher make a criticism like this after reading your thesis, any of us would be heartbroken because we knew for sure that it would be a big no. However, when you step into life, the opportunities to hear criticism like this are not many, if not extremely rare. So many barriers such as respect, affection, or more often, lack of real concern, or more simply, just wanting to avoid conflict... have made honest (and strict) criticisms have very few opportunities to be given to us. Honestly, in nearly twenty years of officially doing writing, this is the first time I have heard such a criticism. Therefore, I do not dare to speak for Professor Le Tu Hy's feelings, but personally, my joy is indescribable, because this is exactly what A Buddhist practitioner needs to hear from others. Not words of praise and admiration, but honest and strict criticism, pointing out one's own mistakes or weaknesses.
Let me say right away to avoid misunderstandings, I am happy not because I have reached the state of "immovable praise and criticism", but because of a very simple reflection in the academic field. Once the premise of criticizing a problem has been stated, the writer will certainly have the responsibility to continue to present arguments convincing the reader about the content of that criticism. Therefore, the real reason for my joy is not because of "being criticized", but it lies a little further because I am extremely eager to hear the analysis of my own instabilities, weaknesses or mistakes that led to the above criticism. And of course, that is the main point of concern.

Suddenly disappearing... without a reason

With the eager anticipation of a student who has been taught by a teacher who has promised to teach him for the first time, I continue I devoured the rest of the article hoping to see the arguments to explain the above criticism, not only with my article but also with the two articles of Jayarava and Professor Le Tu Hy, because this was certainly a "once in a lifetime" opportunity for me to learn from their own mistakes or weaknesses when pointed out by Mr. Trinh Dinh Hy.
However, my eager anticipation turned out to be just... a good dream, because immediately after that, even though I read the entire article very carefully, I could not find any arguments that matched the above criticism. Instead, my first comment after finishing reading was that Mr. Trinh Dinh Hy's article was... extremely difficult to read. This difficulty of reading has its reasons. Although it is a "general criticism" article, the author did not build a comprehensive outline for the entire article for readers to follow, but instead wrote ramblingly in the style of... book reviews, meaning "progressing sequentially" and listing all the points he I read in each article, even the points you clearly stated as “nothing to say”, you still listed them. This is unusual, because according to the common principle, we only state and criticize another author’s opinion when we ourselves have a clear opinion, either agreeing or disagreeing, but once you have “nothing to say”, why state it to confuse and waste the reader’s time?
Moreover, after skimming through the “book review” section as above, reaching the last section clearly stated as “Conclusion”, the reader must certainly expect a summary opinion, a final verdict on the great premise you stated in the opening paragraph, but then everything you wrote in the “conclusion” has nothing to do with that content.
Those are some initial general impressions. Before going into the article, I would like to quote here a dialogue in the Bhikkhu Sutra Na-tien, between King Milinda and Bhikkhu Na-tien:
The king asked again: “Venerable sir, can you discuss with me the meaning of the sutras?” Venerable Na-tien replied: “If the king follows the way of speaking of a wise man and questions and answers with me, it is possible. But if it follows the way of speaking of arrogant kings, it is not possible.”
The king asked: “What is the way of speaking of a wise man?”
Na-tien replied: “When speaking, wise men question each other to the utmost, explain to each other so that we can understand the problem together. When debating, they are willing to accept superiority and inferiority, victory and defeat, right and wrong, and know for themselves the most correct and clear reasoning. Wise men do not get angry or impatient when debating. The way the wise speak is like that.”

(The Sutra of the Bhikkhu Na-tien,

Translated by Nguyen Minh Tien,

Religion Publishing House - 2003, page 26)


I would be extremely grateful if Mr. Trinh Dinh Hy would happily accept this spirit. The following analysis will be based on what he wrote, not through inference, and I would be very happy to receive any dissenting opinions, if any. Many of our friends may be people who have had disagreements in debates in the past, but after resolving the problem, let us be good friends and help each other practice and study. Although this world is crowded, the number of people who have the fate to know each other is certainly not very many, and if there is a little similarity Even less so in terms of beliefs and faith. Therefore, we should appreciate that.

Criticism... not yet

I happily accepted Mr. Hy's criticism at the beginning of the article, although I was not very happy in the latter part because I could not find convincing arguments to prove those criticisms. Specifically, he expressed disappointment in the "quality, depth and vision" of all three articles, but he did not prove to the readers how poor they were (quality), where and to what extent they were shallow (depth), and in what aspects they lacked vision. And he said that "mostly focused on form rather than content, and got stuck in small details" but he also did not show the readers what points in the articles led him to make that comment. You also think that the authors “did not understand the author’s intention” (here you use the word “author” to refer to Master Nhat Hanh, which is incorrect, because he is being referred to as the translator of the Heart Sutra), but you do not point out what that “intention” is, how it has been misunderstood or ignored, so that you can conclude that all three authors did not understand.
It is very possible that you yourself have understood what you have presented, but in order to show readers and make them agree and accept your opinion, you need to write more specifically and completely, and prove the exact meaning of each word you have presented when criticizing.
The irony is that when you present criticisms in your article, there are many points that need to be criticized. I will not "proceed sequentially" to review everything he wrote, because that would waste the reader's time, I will only point out a few points that he himself considers the most important.
Criticizing Jayarava's article, he pointed out two characteristics:
"First, the criticism of TNH's translation in general is very severe, something rarely seen in serious Buddhist researchers."
Objectively speaking, whether the criticism is severe or not has nothing to do with the "seriousness" of a Buddhist researcher. An article can be very leisurely and gentle... but without serious research, without providing valid and convincing data, without tight and coherent arguments... then the author certainly cannot be a serious researcher. On the contrary, an article with a style that lacks gentleness, even using words that can hurt the reader, but if it meets the requirements of scientific research, the reader will still accept that it is a "serious" researcher. Of course, that is just to say the bare minimum, to show that the criteria you put forth are unreasonable. In Buddhism, of course, everyone supports a gentle, compassionate and sympathetic exchange.
However, the two words "heavy" you used are just your own feelings. Another reader, such as me, when reading Jayarava's English version, does not see anything heavy, but only sees it as accurate and honest. It is very possible that you were somewhat influenced by Phuoc Nguyen's Vietnamese translation as you mentioned later, but if so, it is not really fair to criticize. To criticize Jayarava, the first requirement is to read directly from what he wrote. Through the first characteristic you mentioned, I am sure that no “serious” reader can be convinced by you that Jayarava is an “unserious” researcher just because he has been “heavily critical”. You also continue to state your own opinion that Jayarava “has a problem” with the Heart Sutra, but throughout your article you do not clearly demonstrate where this “problem” is as promised.
The second characteristic you commented on Jayarava is that he “emphasizes the «technicalpoints,andmainly the theory of linguistics”. And after pointing out this feature, he... criticized Jayarava saying:
“But JA encountered a big contradiction: he blamed TNH for only translating from the Chinese version, not from the Sanskrit version, and at the same time he completely agreed with Jan Nattier's theory, that is, the Heart Sutra is a work edited in China in Chinese, and translated back into Sanskrit. So what is there to blame about translating the Heart Sutra from the Chinese version? And is there any need for a long argument about the way to translate Sanskrit in this New Translation?”
Here he was completely wrong because he probably did not read Jayarava's text carefully. Here is what Jayarava wrote in relation to your content:
“TNH likes to cite the Sanskrit text, because he still believes that this is the original, most authentic version of the text. As I say, he appears to reject the Chinese origins thesis. But as I will show, he is in fact translating from Chinese and only citing Sanskrit in order to add gravitas to his words.”
(TNH likes to cite the Sanskrit text because he still believes that this is the original, most authentic version of the sutra. As I said, he appears to reject the Chinese origins thesis. But then I will show that he actually translated from Chinese and that citing Sanskrit only adds gravitas to his statement.)
So, Jayarava is not “blaming TNH for translating only from Chinese and not from Sanskrit”? He only commented that Master Nhat Hanh had quoted the Sanskrit text - and this is true, and although he quoted the Sanskrit text (in fact, he even said that he had edited the original Sanskrit text), in reality his translation was completely based on the Chinese text. And that was seriously proven by Jayarava through many details. Readers can believe him or not, but as a researcher, he raised the issue very seriously and with a sense of responsibility.
So, through both of the characteristics you chose from Jayarava's article, you made inaccurate criticisms, and they were also unrelated to the "original goal" you stated at the beginning of the article.
Professor Le Tu Hy has already thanked you for your criticism of the article, so I will not mention it again here.
Regarding my article, perhaps I should thank you because it seems that I received the most favor among the three people. Although my article was published first and has been “exposed to the elements” on the internet for more than 3 years, not only at Hoa Sen Library but also reposted on many other websites, you mentioned it last and actually you did not... criticize anything, just gave some suggestions. Because the conclusions I made in the article were all based on the words written by Master Nhat Hanh, I think you have nothing to complain about those conclusions.
Regarding your 3 suggestions for my article, I will accept them in turn below:
- NMT believes that «no patriarch has ever edited the Heart Sutra»: recent Buddhist studies have come to the opposite conclusion, and this will be briefly presented in the next chapter.
What I have written is based on official information that has been accepted and passed down for more than a thousand years. Presently, in all three most popular Tripitakas, the Qianlong Tripitaka, the Yongle Tripitaka, and the Taisho Tripitaka, it is clearly stated that the translation of the Heart Sutra currently in circulation (and the one we are referring to) was translated by Xuanzang. The book Khai Nguyen Thi Giao Luc (開元釋教錄), volume 8 (Taishō Tripitaka, volume 55, sutra number 2154), page 555, sheet c, lines 3-4 clearly records the date, month, year, and place where this sutra was translated as follows:
般若波羅蜜多心經一 卷... (The Heart Sutra, one volume)
貞觀二 十三年五月二 十四日於終南山翠微宮譯沙門知仁筆受 (Trinh Quan twenty-third year, May twenty-fourth day, at Chung Nam mountain, Thuy Vi palace)
The Heart Sutra, one volume. 23rd year of the Zhenguan era (649 AD), on the 24th day of the 5th month, translated at Zhongnan Mountain, in the Shuwei Palace, with the monk Zhiren as the penman.
Thus, the recognition that the Heart Sutra was translated by Xuanzang is not my own opinion, but is official information currently accepted and used by the Buddhist community everywhere, including the most recent scholars who participated in editing and forming the Taisho-san revised Tripitaka. And if the Heart Sutra was translated by Xuanzang from Sanskrit into Chinese, then of course no patriarch has ever edited the Heart Sutra!
As for the fact that “recent Buddhist studies have come to the opposite conclusion,” then that can only be a reference information. You must know that in medicine, when a result is still in the research scope, the doctor cannot apply it to the examination and treatment of the patient, but must wait until the result is officially recognized on a national or international scale. Until it is recognized by the community, all research results should only be used for reference. That is not my personal opinion, but a scientific principle. Believing that a certain patriarch edited the Heart Sutra is the right of each person, but using this information as an official source when it is not recognized by the Buddhist community is wrong. In Buddhist research, if there is no clear distinction between official information and reference information, the research results will never be reliable.
- According to EC, Esoteric ideas began to penetrate the Prajnaparamita Sutra around 600, and according to Buddhist scholars McRae and Fukui...
This comment of yours is unfortunately... off-topic. My comment in this article is related to this passage by Master Nhat Hanh:
"The Heart Sutra was born late when the esoteric belief had begun to flourish. The founder who edited the Heart Sutra wanted the followers of the esoteric sect to recite the Heart Sutra, so in the last paragraph he presented the Heart Sutra as a mantra."
So why do you need to quote Conze as well as other Buddhist scholars to explain the inclusion of the esoteric element in the Heart Sutra? The issue I raised here is the contradiction in chronology, because Master Nhat Hanh said that "when the esoteric belief had begun to flourish". Please note the two words "flourishing", which means that there were many followers, and it had developed to a fairly popular level. And history records that such a "flourishing" period of Esoteric Buddhism in China must at the earliest fall in the time of Master Akshobhya (born in 705 and died in 774), that is, nearly 2 centuries after Master Xuanzang.
- For NMT, the Heart Sutra is first and foremost a mantra, recited with faith in its power to protect and liberate. I completely respect this belief, as well as the belief in all religions...
Your comment is completely wrong because you did not read carefully what I wrote. I wrote as follows:
“The Heart Sutra is first and foremost a mantra for many people. Among the millions of Buddhists who recite the Heart Sutra in their daily practice, not everyone fully understands the meaning of each word.”
I admit that I myself, in my childhood, also approached the Heart Sutra as a mantra, but that is not what I want to talk about here. What I want to talk about is the state of mind, the feelings of many people, and that is what is important, what motivates me to put forward my counter-argument. Therefore, your bringing up the “New Wisdom School” versus the “Old Wisdom School” and “emphasizing wisdom over faith”... are all unnecessary arguments. And the mistake started when I wrote “for many people” and you read it as “for Nguyen Minh Tien”.
The only negative opinion that I recognized in the part you wrote about my article was probably when you said that the fact that Master Nhat Hanh retranslated the Heart Sutra was not really important:
“But in fact, if we compare the new translation with previous translations, we will see that there are not many important changes…”
If you are right on this point, then both Jayarava, Professor Le Tu Hy and I, along with many other Buddhists interested in this issue (my article has had more than 17 thousand views on TVHS), were wrong when we raised the issue without “comparing the new translation with previous translations” as you did, because through that you saw that “there are not many important changes”.
However, the problem here is that, although you said so, Master Nhat Hanh himself considered the release of this new translation to be extremely important, because in his opinion it would help to erase “many misunderstandings through the ages” due to the “clumsiness” of the previous Patriarch who edited the Heart Sutra.
So, Master Nhat Hanh’s vision when releasing the “new translation” may not have been compatible with Mr. Trinh Dinh Hy’s vision when rereading the same “translation”. And therefore, your seemingly “appeasement” opinion turned out to push the issue to another angle, that Master Nhat Hanh did something quite useless because it was not important. I noticed that he repeated this opinion again more clearly in the conclusion section later.

Discussing without concluding...

Master Nhat Hanh stated the reason for having to “retranslate” the Heart Sutra as follows:
“The reason I had to retranslate the Heart Sutra was because the founder who edited the Heart Sutra was not skillful enough in using words; therefore, it caused many misunderstandings throughout the ages...”
Then he told the story of a novice monk whose nose was pulled to prove that the “misunderstanding through the ages” was understanding the word “nothing” as “nothing”.
But in the conclusion section of the article, Mr. Trinh Dinh Hy did not agree with that. He wrote:
“For me, the harm in misunderstanding the Heart Sutra is not understanding the word “nothing” as “nothing”. That, like the story of the little boy having his nose twisted, rarely happens.”

With a story that, according to him, is not harmful and “rarely happens”, but Master Nhat Hanh considered it the reason why he had to “retranslate” the Heart Sutra, so if we believe his comment, we cannot help but think that Zen Master Nhat Hanh did something quite useless.
In fact, in a paragraph before going into the “conclusion”, Mr. Trinh Dinh Hy also had time to raise another criticism of Master Nhat Hanh. He wrote:
Therefore, for me, every time I read the phrase "far away from the crazy dream of Nirvana", I still think that Nirvana is also a crazy dream that I must stay away from! And I find it strange that all translations, even TNH's, talk about Nirvana as the salvation of a Bodhisattva."
This implies that all translations, including the translation of Master Nhat Hanh, are... wrong, because they make readers misunderstand a "Nirvana as the salvation of a Bodhisattva", while Mr. Trinh Dinh Hy thinks that Nirvana is also a "crazy dream" that must be stayed away from.
Actually, I read that Master Tue Sy mentioned this understanding in his article here, but it is not clear whose opinion it is. And Master Tue Sy commented: “This explanation is very good, but it seems impractical, if understood in the order of practicing the Prajnaparamita...”
The teacher's teachings are truly profound. The Dharma is for practicing, if it is good but not practical, it can only be mentioned to... be praised by others, it is of no use.
But what surprised me when reading the Conclusion of the article was not whether the criticism was right or wrong, but because those criticisms... were misplaced. Normally, readers would expect a summary, reiteration or emphasis of the main points raised in the article, or at least the writer's concluding views. But Mr. Trinh Dinh Hy did not write according to that "convention", but he continued the "criticism" more broadly in this very Conclusion. And now a criticism aimed at the Sixth Patriarch Hui Neng, extended down to the commentary number 17 which I quote for the readers' convenience:
“The second harm, which few people talk about, is understanding «emptiness» as «existence», that is, «emptiness is wonderful existence», searching for the absolute, ultimate truth, which the later Mahayana Sutras call True Suchness (tathatā), Buddha-nature (buddhata), Tathagatagarbha (tathāgatagarbha), Alaya-vijñāna (ālayavijñāna), is the Dharmadhatu, etc. (17)...”(17) “Many Zen masters were also caught up in this confusion, although Zen Buddhism took “emptiness” and the Prajnaparamita Sutra as its foundation. For example, the Sixth Patriarch Hui Neng, after hearing his Teacher, the Fifth Patriarch Hong Ren, lecture on the Diamond Sutra, suddenly became enlightened and exclaimed: “Who would have thought that self-nature is inherently pure, who would have thought that self-nature is inherently unborn and undying, who would have thought that self-nature is inherently complete, who would have thought that self-nature is inherently unmoved, who would have thought that self-nature gives birth to all dharmas!” In this sentence, Hui Neng highlights “self-nature”, as well as concepts commonly found in Zen Buddhism, such as “self-nature” and “self-nature”. “mind”, “constant, bright mind”, “evil light”, “original face”, “Buddha nature”, etc., are things that cannot be obtained according to the spirit of “emptiness” of all dharmas, denying “self-nature” (svabhāva), of Prajna and āgārjuna.” In the introduction stating the reason for “retranslating” the Heart Sutra, Master Nhat Hanh mentioned the Sixth Patriarch Hui Neng with the verse “Originally nothingness” and said that he had fallen into the position of “attachment to nothingness”. In the Conclusion of this article, Mr. Trinh Dinh Hy criticized the Sixth Patriarch Hui Neng for falling into “attachment to existence”. The same Sixth Patriarch, Master Nhat Hanh criticized as “attachment to non-existence”, Mr. Trinh Dinh Hy considered as “attachment to existence”. This suddenly reminded me of a Zen anecdote related to the Sixth Patriarch with the famous saying: “It is not the flag moving, it is not the wind moving, it is your mind moving.” In this case, if the Sixth Patriarch heard this, would he have compassion and say: “It is not Hui Neng who is attached to existence, it is not Hui Neng who is attached to non-existence, it is your mind that is attached to... all sorts of things!” The Sixth Patriarch Hui Neng is considered the origin of the revival of Chinese Zen, his successors later gave birth to the Five Families and Seven Sects, including the Lam Te Zen sect. The Vietnamese Zen Patriarch Lieu Quan was a disciple of the Lam Te lineage, the 35th generation. Master Nhat Hanh belonged to the Lieu Quan lineage, the 8th generation; also considered to belong to the Lam Te lineage, the 42nd generation. Venerable Thich Thanh Tu became a monk with Venerable Thich Thien Hoa; Venerable Thich Thien Hoa studied with Patriarch Khanh Anh; Patriarch Khanh Anh was a disciple of the Lam Te lineage, the 40th generation...
Thus, the Sixth Patriarch Hue Nang at least left to future generations a great legacy of Dharma treasures, in which Master Nhat Hanh as well as many eminent Vietnamese monks shared a part, thanks to receiving the lineage of practicing the Dharma. If the belief in the enlightenment of the Sixth Patriarch Hue Nang is shaken by the "theories" of people like Master Nhat Hanh or Mr. Trinh Dinh Hy, I am not sure where the next generation of Buddhists will place their faith?
In short, the unusual point here is that after reading through the Conclusion of the article, I realized that you "discussed" a number of other issues instead of "concluding".

The core of the new Heart Sutra translation

Finally, through carefully reading your article, I also came across the core point, at least in your view. That is this passage:
“In fact, these criticisms are all aimed at small details, unimportant points, «splitting hairs into four» without seeing the main thing, that is, where the head is!
What is new and unique about TNH's «New Translation of the Heart Sutra» lies in the unexpected change of the following sentences... ... The word «not» is replaced by the phrase «not present as a separate entity».”
This passage is part of the criticism of Jayarava's article and is one of the places where Trinh Dinh Hy raises the issue clearly and easily. Through this passage, readers can easily grasp that for him, the core, the “new and unique” point of the new translation lies in the fact that “the word “not” is replaced by the phrase “not present as a separate entity”, and this is the “head”, the most important part, according to his comment.
I am not sure whether Master Nhat Hanh agrees with him that this is the most “important” or “unique” revision, but it is unfortunate that he criticized Jayarava for “aiming at small details”, “not seeing the main thing” and instead used this passage to prove it. Why is that? Since Jayarava himself has criticized this “new translation” by Thich Nhat Hanh quite harshly, the argument he has raised proves something undesirable. That is, he has not read Jayarava’s article carefully. In the article, Jayarava criticizes this “new translation” by Thich Nhat Hanh as follows:
“TNH gets around this by changing the text so that it now says that the skandhas are not separate entities. This is by no means bad doctrine from a Mahāyānist point of view, but it is also not what the text says. So TNH’s “translation” is something that he has made up to solve an apparent problem (a post hoc rationalization).”
(TNH resolves the contradiction by changing the text so that this passage becomes: “the aggregates do not exist as separate realities.” From the Mahāyāna point of view, this revised sentence, while not at all a wrong view, is also not what the Heart Sutra intended to say. So TNH’s “translation” is something he has made up to solve an apparent problem—a post hoc rationalization.)
According to Master Nhat Hanh, the word “reality” was used, but you quoted it as “entity”, I do not understand the reason.
Professor Le Tu Hy also did not agree with this “new and unique” change. Through analyzing the Sanskrit text, the Professor proved that doing so made this passage repeat the same idea as the previous one, and thus also meant changing and losing part of the meaning of the Heart Sutra. He wrote:
“The translation of this sentence by Master Nhat Hanh, in addition to making the reader think that “emptiness” occupies a part of space, also transforms the Bodhisattva’s “teachings on how to practice” into a descriptive sentence with the meaning that “everything from form, feeling, perception, …, consciousness realm” “does not exist as separate realities”. But this idea is what the Bodhisattva has taught in the above paragraph!, that is, all phenomena do not exist by themselves as I have stated. The Heart Sutra is extremely concise, so the below paragraph cannot overlap with the above paragraph.”
Thus, what Mr. Trinh Dinh Hy thinks that Jayarava “does not see” is in reality, he is the one who does not see, and both the author Jayarava and Professor Le Tu Hy have pointed this out very clearly, and both of them agree that “retranslating” like that is not in accordance with the meaning of the sutra. To put it more bluntly, that is “editing the sutras” rather than translating the sutras.
Selecting all three articles at the same time to criticize seems to be too heavy a task for Mr. Trinh Dinh Hy, so he clearly revealed in his article the most fundamental mistake of not having read carefully the articles he criticized. Even the title of my article when quoting him also lost a word: Should we retranslate the Heart Sutra or?

About the two additional points

What is quite special and surprising is that Mr. Trinh Dinh Hy not only focused on “dissecting” the three articles of Jayarava, Professor Le Tu Hy and me, but also “added” two other topics to his article. I don’t know if it’s just a coincidence or some other reason, but these are the two things I want to mention because I see that there are extremely dangerous tendencies that are spreading rapidly in the Buddhist community. Below are some comments on your “additives”.

1. New understanding of the origin of the Heart Sutra

In this section, he cites Jan Nattier's research to prove and conclude that: “These new discoveries have brought about many changes in the understanding of the origin of the Heart Sutra, and have received an almost unanimous response in the Buddhist research community. However, people still do not know clearly who the author of the Heart Sutra is, only that the time of its appearance is between these two famous Buddhist Sutra translators, that is, from the 5th to the 7th century.”
In terms of research, this may be necessary from the perspective of historical research, but in the practice of Buddhist practice, from the current understanding that the Heart Sutra was translated by Xuanzang, then carefully researched to come to the result of not knowing who wrote it, is there any practical value?
However, if you want to know the true value and meaning of this section, please invite readers to read directly in his article. Here I just point out a few problems in your presentation.
Firstly, you said that this research result “received a nearly unanimous response in the Buddhist research community” but did not clarify where you based this information? Anyone can say that, but has any Buddhist conference or Buddhist community organization officially expressed its opinion on this research result so that it can be considered a “nearly unanimous response”?
Second, he wrote: “The first two translations are attributed to Kumārajīva (early 5th century) and Xuanzang (7th century), but are now highly doubted to be theirs (14)”
To prove this, he included in footnote 14 the following:
(14) The Kaiyuan Shijiaolu, published in the 8th century during the Tang Dynasty, first recorded the translation (supposedly) by Kumārajīva, but did not mention the translation (supposedly) by Xuanzang...
This footnote is incorrect. The Kaiyuan Shijiaolu (開元釋教錄) is the work I cited in a section above, in Chinese consisting of 20 volumes (Taishō-Zincang, vol. 55, sutra number 2154). This work not only mentions the translation of Master Xuanzang in volume 8, on page 555, sheet c, lines 3-4, but also clearly states the date, month, year, and place of translation, so why do you think it is “not mentioned”?
And I am not the only one who has read and quoted this information from Khai Nguyen Thich Giao Luc, Master Tue Sy cited in his article as follows:
The translation work of Tripitaka started in the 19th year of Trinh Quan (TL. 645).[ 3] In the 23rd year of Trinh Quan (TL. 648), the 24th day of the 5th month, the Heart Sutra was translated at Thuy Vi palace, Chung Nam mountain; monk Tri Nhan wrote it.[ 4]
And in note 4, he clearly states the sutra number, page, line... from which he quoted the above information. (See here.)
However, what I want to emphasize in this section is not the poor accuracy in citing and presenting information, but a larger mistake as I mentioned in a section above. That is, all information and results obtained in Buddhist research that have not been recognized should not be considered official for exchange and teaching to the general Buddhist public, because this is only harmful and not beneficial. In fact, in scientific research, this is a principle. The category of reference information obtained from ongoing research is never allowed to be used as an official basis for other research, it can only be used for reference purposes.
Unfortunately, many Buddhist masters are doing the opposite. The fact that Master Nhat Hanh mentioned the story of “the founder editing the Heart Sutra” is an example. That only causes more confusion for Buddhists and does not help them access Buddhist scriptures more easily. Many other lecturers, monks, and great monks today often declare to Buddhist audiences many things based on... “recent research”, the most serious of which is about the “origin of Mahayana scriptures”. For Buddhists in general, and Buddhist masters in particular, confirming the origin of Buddhist scriptures should only be based on their own practice and experience, but many masters today prefer to cite “research results” and only achieve one thing: causing confusion for Buddhists. A series of lectures denying the Amitabha Sutra, the Ksitigarbha Sutra, the Medicine Master Sutra, etc. all fall into this category.
In short, research is just research after all, it can bring many benefits if we know how to use the research results properly, but if we overemphasize the so-called "research results" and forget that they are still within the scope of reference information, then the harm and danger to those who receive the information is very difficult to avoid.
An extreme opposite tendency is also being seen in the views of some recent articles and right in this article by Trinh Dinh Hy. It is a “two-choice” distinction between “scholars” and “practitioners”, between “researchers” and “practitioners”, or between “scholars” and “meditation students”.
Instead of “cherishing research results” and considering them as a reliable factor in practice, people who fall into this tendency are “allergic” to scholars and researchers... because they think that they only “examine the tea package” but do not know how to “open the tea package to enjoy it”. In a passage criticizing Jayarava, Mr. Trinh Dinh Hy wrote:
“The author can write more than 30 essays on the Heart Sutra but still not fully understand it, perhaps that is the difference between a Buddhist researcher and a Buddhist practitioner and practitioner.”
I have read Jayarava quite carefully and have also exchanged letters with him. I appreciate your willingness to share your information, but I really don’t know how to judge whether Jayarava has “absorbed” or “not absorbed” the Heart Sutra. Perhaps that is the difference between me and Trinh Dinh Hy, because even without reading Jayarava’s entire article (as demonstrated above), he has already realized that he has not absorbed the Heart Sutra. Furthermore, his sentence implies “classifying” Jayarava as a “type” of Buddhist researcher, and therefore “must be different” from “people who practice and experiment with Buddhism”.
Also in this direction, another author, Doctor Tao Trong Nhan, wrote:
“The Zen student, holding a tea bag in his hand, looks at it for a bit, smiles and gently opens the tea bag. Then they make tea... ... Completely different from scholars in that, they drink tea and do not discuss or debate, and especially do not criticize anyone.(See here.)
In the two examples above, we see a common point that both authors distinguish distinguishing in the way of “choosing one or two” between “scholars” and “practitioners”, between “researchers” and “practitioners”, or between “scholars” and “meditation students”, and according to the very vivid illustration of author Tào Trọng Nhân, they are those who “discuss tea” and those who “drink tea”.
However, this distinction and illustration are not true to reality, as well as the criteria that author Tào Trọng Nhân put forward, if believed and applied by the Buddhist community, will disrupt and destroy the entire Buddhist forest. I will prove this.
In reality, we cannot arbitrarily make a clear distinction between studying Buddhism as a scholar and practicing Buddhism as a practitioner. There is no reason to prevent a person who studies Buddhism in depth from applying that understanding to his own daily life. On the contrary, in the most standard practice process for all Buddhist sects, "Precepts - Concentration - Wisdom", practice must be closely linked to research and learning. If a person declares that he only cares about practicing without reading and understanding many Buddhist scriptures and teachings, then we need to ask the question: how will he practice? Is it in accordance with the spirit of Buddhism? And when studying and learning Buddhist scriptures, problems of correct or incorrect understanding will inevitably arise, requiring analysis, discussion, and criticism to maintain the most correct standards... as long as it maintains the spirit of Bhikkhu Na-tien as I cited at the beginning of this article.
Buddhist history shows that most, if not all, eminent monks are also scholars and researchers. If Venerable Thich Tri Tinh were not a Buddhist scholar, we would not have so many Vietnamese translations of Buddhist scriptures; If Venerable Thich Minh Chau were not a scholar and erudite researcher, we would not have the entire Pali canon translated into Vietnamese to practice on; Master Nhat Hanh is also a scholar and researcher through his famous work, History of Vietnamese Buddhism, under the name Nguyen Lang... Going back further in time, Zen masters Van Hanh, Phap Thuan, Khuong Viet and many Zen masters of the Ly and Tran dynasties... were all erudite scholars, both in worldly and religious studies. If we "classify" all of these people into the "group" of scholars, people who "don't know how to drink tea", I'm afraid Buddhism will no longer exist today!
Again, according to this distinguishing criterion: “Unlike scholars there, they drink tea and do not chat, discuss, debate, and especially do not criticize anyone” then Master Nhat Hanh is the first person to be eliminated from the “tea drinking group”, because before “retranslating” the Heart Sutra, he had criticized at least one “clumsy Heart Sutra editor”, a Tuệ Trung Thượng Sĩ who “taught people too much” and a Sixth Patriarch Huệ Năng who “fell into emptiness”. Even the fact that Mr. Trinh Dinh Hy wrote an article criticizing Jayarava, Professor Trinh Dinh Hy and me could be a reason to “expell” him from the “tea drinking group”.
In reality, the process of coming to Buddhism for a true Buddhist is not as simple as described by author Tao Trong Nhan as “holding a tea bag in hand, looking at it for a bit, smiling and gently opening the tea bag. Then they make tea... ... ” Of course, all of us dream, if only the matter were really that simple! An acquaintance of mine, before officially becoming a monk (although he had made the vow long ago), had to spend more than 3 years traveling here and there, staying at each temple for a short time, and then finally choosing a suitable enlightened master to take the vows. In the current situation, if one simply holds a tea bag in hand, looks at it a bit... then makes tea" then there is a 90% chance that one will mistakenly drink "fake tea" mixed with chemicals during processing. The same is true in practice, with the current situation of "evil teachers in chaos" and simplifies learning Buddhism to the point of not taking the time to read, understand, research, then I'm afraid that there is a nine-tenth chance that such a person will go astray.
Therefore, if the Buddhist community believes in the descriptions and criteria set forth by author Cao Trong Nhan, it will lead to the need for all eminent monks from the past to present to be "re-examined" as people who "don't know how to drink tea", because they are all scholars and researchers. As for Buddhists who want to learn, they will not dare to believe or listen to any teacher who is well-versed in many scriptures, because there is a possibility that he “does not know how to drink tea”. On the contrary, they themselves will be extremely hesitant to open the scriptures to read, because they are afraid that they themselves will fall into the group of “does not know how to drink tea”. In such a chaotic situation, won’t the Buddhist forest be turned upside down and destroyed?
However, I firmly believe that will never happen, because Buddhists with true faith will always have enough clarity to choose for themselves a path of practice that is not easily influenced by the wrong side from the outside.

2. Regarding the meaning of the word «śūnyatā» (emptiness)

In this section, Mr. Trinh Dinh Hy has explained in great detail the Sanskrit and Chinese etymologies of the two words “emptiness” to come to the final conclusion as follows:
“Thus, all dharmas are śūnya (emptiness), are not real entities, and have no self-nature; even nirvāṇa (Nirvana). Therefore, for me, every time I read the phrase «far away from the crazy dream of saving Nirvana», I still think that Nirvana is also a crazy dream that I must stay away from! And I find it strange that all translations, even TNH's, refer to Nirvana as saving wings of the Bodhisattva.” In the above section, I quoted Master Tue Sy about understanding “emptiness” in this way, that is, seeing “Nirvana” as also empty. He taught that this understanding is “very good but not practical,” and if so, then perhaps there is no need to discuss it further. However, what needs to be discussed further here is when Mr. Trinh Dinh Hy applied this understanding to claim that the Sixth Patriarch Hue Nang was a person who “attached to existence”:
“... ... The Sixth Patriarch Hue Nang, after listening to his Master, the Fifth Patriarch Hong Nhan, lecture on the Diamond Sutra, suddenly had an awakening and exclaimed: “Who would have thought that self-nature is inherently pure, who would have thought that self-nature is inherently without birth or death, who would have thought that self-nature is inherently complete, who would have thought that self-nature is inherently unshaken, who would have thought that self-nature gives birth to all dharmas!” In this sentence, Hui Neng highlights “self-nature”, as well as concepts commonly found in Zen, such as “true nature”, “constant, bright nature”, “evil light”, “original face”, “Buddha-nature”, etc., which are things that cannot be obtained according to the spirit of “emptiness” of all dharmas, denying “self-nature” (svabhāva), of Prajna and Nāgārjuna.” On the contrary, Master Nhat Hanh has a way completely opposite view, so he made a statement that the Sixth Patriarch “attached to emptiness”. The Master wrote: “Even the verse of understanding that is said to be from Master Hui Neng is also stuck in that idea of nothingness: “originally there is nothing!””
The problem here is that based on the same concept of emptiness, on the same frame of reference of the interpretations in the Zen school, Mr. Trinh Dinh Hy sees the Sixth Patriarch Hui Neng as someone who “attaches to existence”, while Master Nhat Hanh thinks that he “attaches to emptiness”. This puts Buddhists in a confusing and difficult situation because they do not know how to explain emptiness correctly.
With this difference in perception, I suddenly think of two people walking on the same road and arguing about an image that has just appeared in the distance, one person says it is definitely a lamppost, the other insists that it is an electric pole... Sober passersby should probably not fall into that argument, but calmly continue on. closer, you will naturally be able to distinguish whether it is a lamppost or an electric pole. Likewise, emptiness is a concept that Buddhists will have to thoroughly understand on the path to liberation, but for novice Buddhists, there is no need to be confused and bewildered by the above arguments, but should calmly return to their daily practice. According to the simple yet profound teachings of the Buddha in the Mahaparinirvana Sutra:
Do not commit any evil,
Practice all good,
Pure your mind,
This is the Buddha's teaching.
Do not commit any evil,
Do all good.
Keep your mind pure,
That is the Buddha's teaching.
And that is probably the best choice for the vast majority of Buddhists, who It is not possible to make a judgment about whether Master Nhat Hanh or Mr. Trinh Dinh Hy is the one who is right. Just return to carefully observing the Five Precepts, practice avoiding evil and doing good in daily life, keep the mind pure and clean, eliminate all thoughts of greed, anger, ignorance... then one day not too far away, surely you will have the ability to distinguish between "lampposts" and "electric poles".

In conclusion: Sharing with Mr. Trinh Dinh Hy

Writing up to this point, I suddenly remember that I have not yet officially thanked him for giving me the opportunity to write this article. I sincerely thank him for still being patient enough to read to these last lines. Thank him because although we have not known each other, he still did not hesitate to spend time reading my previous article to analyze and give comments, and thank him for raising the right issues that I want to discuss and exchange with those who study Buddhism.
The ocean of knowledge is immense, the more The deeper we go, the more storms there are, but of course, in return, there will be countless precious pearls waiting for the voyagers. In the time we live in this life, if we consider it, in the countless causes and conditions that bind us every day, how many of them bring us closer to Buddhism, or are most of them just adverse causes and conditions that drag us away? Therefore, when I have time to sit down and discuss Buddhism, I always cherish that opportunity. And I also cherish the time of each reader who has spent reading all the lines I write, seeing it as a miraculous connection through Buddhism that helps people who have never known each other to still feel a little about each other. With all that cherishing, I always carefully, consider and choose each word, edit each semicolon in the sentence, thereby expressing my deep gratitude to Buddhism and my utmost respect for each reader. After all, among billions of people in this world, the number of people who have the opportunity to know to each other - even if it is only through this article - is not it very little?
But no matter how careful, there must be certain mistakes. Just because you have taken the time to read my article and give your comments, I cannot help but respond to that understanding. Therefore, I will also honestly and frankly state all that I have understood through your article. If there are any points that are not really perfect or still lacking, I sincerely hope that you will also sincerely discuss them in the spirit of Bhikkhu Na-tien as I have quoted. I respectfully wish you all the best.

    « Xem chương trước       « Sách này có 1542 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Nghệ thuật chết


Tích Lan - Đạo Tình Muôn Thuở


Vô niệm (Pháp bảo Đàn kinh)


Tổng quan về các pháp môn trong Phật giáo Tây Tạng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.60 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học