Toàn bộ thơ văn của Nguyễn Trãi đã thành tro bụi theo pháp quyền phong kiến từ sau vụ án oan khuất ở vườn Lệ Chi (1442). Giá như tiếp đó, lịch sử nước nhà không xuất hiện bậc minh quân Lê Thánh Tông thì một đời người, một đời văn - đời thơ... của Ức Trai đã bị xóa sổ, hoặc nếu còn đâu đó thì cũng chỉ là cái bóng mờ mịt chân mây…
Nối tiếp nỗ lực ban đầu của Lê Thánh Tông (1664), đến năm 1868, Dương Bá Cung cùng nhiều người khác đã sưu tập thêm được trên 300 bài thơ Hán (Ức Trai thi tập) và Nôm (Quốc Âm thi tập). Riêng Quốc Âm thi tập (QÂTT), với 254 bài, đa phần là những bài thơ 6 chữ chen 7 chữ hoặc 7 chữ chen 6 chữ. Đây là bước đột phá của Nguyễn Trãi nhằm lột xác, thoát hình thơ quốc âm khỏi quỹ đạo của thơ Trung Quốc.
...Ánh nước hoa in một đóa hồng Vết nhơ chẳng bén, Bụt làm lòng Chiều mai nở, chiều hôm rụng Sự lạ cho hay tuyệt sắc không. “Tiếc thay,… thể loại 6 – 7 đã dần dần biến mất. Định mệnh nó phù du vì nó là thí nghiệm buổi đầu của lịch sử thi ca Việt Nam”(1).
“Cây mộc cận” (cây dâm bụt), bài thơ thứ 237 của QÂTT có gì vừa quen lại vừa lạ. Quen vì nó nằm trong thơ vịnh thiên nhiên, một mảng thơ lớn của tập thơ này. Cái lạ - khác của “Cây mộc cận” thì hình như lạ đến bất ngờ. Nét lạ này còn giúp ta hiểu thêm hồn thơ thâm diệu và uyên áo của một “trái tim sáng đến tận sao trời (“Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” - Lê Thánh Tông). Nguyễn Trãi đã chọn một loài hoa dân dã vốn được trồng làm rào giậu gợi tứ cho bài thơ. Loài cây, loài hoa ấy hẳn chưa bao giờ được nói đến cùng với tứ thời bát tiết hay được cắm vào bất cứ một bộ tứ bình nào của hội họa hay thơ ca Trung Quốc(2). Ngay vào những năm cuối của thế kỷ trước, vẫn còn một nhà thơ nào đó xem thường loại hoa rào giậu này dù dụng ý của tác giảnằm phía sau những con chữ:
Dâm bụt đem trồng trong chậu kiểng Hoa hồng ngậm nụ cuối vườn tre.(?) Dâm bụt cũng còn được gọi là râm bụt, kết quả của sự biến dạnggiữa phụ âm r và d khá phổ biến, do cách phát âm khác nhau của người Việt ở các vùng miền Bắc và Nam, Trung: rọi – dọi, run rủi – dun dủi, ray rứt – day dứt… Bài thơ có nhiều dị bản, kết quả của tam sao thất bổn và, cũng như chủ nhân của nó đã từng chịu số phận lạc loài, oan nghiệt. Bên cạnh nhan đề “Cây mộc cận”, bài thơ đó đây còn có nhan đề khác “Hoa dâm bụt”,…; từ “ánh nước” cũng từng là “đáy nước” hoặc “bóng nước”; “vết nhơ” cũng từng là “bợn nhơ” rồi “sạch nhơ”; “chẳng bén” cũng từng được ghi là “chẳng vướng”; “Bụt làm lòng” cũng có bản ghi là “Bụt là lòng”… Đành nhờ tinh thần của kinh Kim Cang nói giúp: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” cùng dựa vào lời dạy Tứ y của Đức Phật “y nghĩa bất y ngữ”, không chấp vào ngôn từ để đến với bài thơ và để hiểu thêm con người tâm linh và tuệ giác của Nguyễn Trãi. Tất nhiên thơ là sự tổ chức ngôn từ, nhưng trong trường hợp này thì khó lòng tròn đạo với thơ. Lại nữa, những sai biệt trên đây cũng không đến nỗi bị dẫn đến chỗ quá nguy hiểm như “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” thành “Nhân sinh tự cổ thùy vô nghệ” hoặc “Ngày vắng xem hoa bợ cây” thành “Ngày vắng xem hoa bẻ cây”…, những sự cốđã từng gây xôn xao nhiều năm trước.
Ánh nước hoa in một đóa hồng. Một đóa hoa màu hồng phản chiếu qua mặt nước. Bản thân hình ảnh thơ đã là ảnh của ảo ảnh. Đóa hồng đã ảo và hình ảnh “ánh nước” cũng ảo. Ánh trăng, ánh lửa, ánh bình minh… thì không lạ nhưng ánh nước thì hơi… lạ. Không có nguồn sáng rọi vào, nước sẽ không có ánh(3). Bản thân nước không có khả năng phát sáng. Khi đã có ánh sáng kết hợp với nước thì đóa hồng mới in được bóng mình. Thi ảnh hình thành từ trái tim đã được mài sắc giác quan kết hợp với cái nhìn về tánh không của các pháp nên câu thơ cũng được tôn vinh một vẻ đẹp lãng mạn, ảo diệu. Không ai với tay hái được đóa hồng trong dòng thơ đầu bởi vì nó chỉ là bóng hoa. Bóng hoa cũng sẽ không có nếu mặt nước không được nhận ánh dương của vũ trụ. Tất cả các pháp đều huyễn, đúng với tinh thần của Duy thức học. Mở lại Trung quán luận của Bồ tát Long Thọ: “…Tính không được biểu hiện thì tất cả các pháp đều hiển bày”. Cũng từ đó Đức Đạt lại Lạt ma giải thích thêm: “Các pháp tồn tại nhờ vào sự tương duyên”(4). Không có ánh nước sẽ không có đóa hồng trong ánh nước, kết quả của chằng chịt, trùng trùng duyên khởi, và đóa hồng cũng chính là hoa đốm giữa hư không. Dòng thơ đầu là sự kết hợp duyên nợ giữa Thơ và Đạo. Cảm thụ thơ trong trường hợp này phải tăng cường cái nhìn Phật đạo thì người đọc càng thấu thị hơn “cái biểu hiện” và “cái được biểu hiện”…
Một lần Phật đi khất thực, một Bà la môn theo sau chửi mắng thậm tệ vì nhiều đệ tử của vị này đã tìm đến với Phật đạo. Đức Phật vẫn ung dung đi vào xóm. Bà la môn tức giận:
- Cồ Đàm có điếc không? Sao không trả lời? Đức Phật vẫn từ tốn:
- Giả sử ông đem quà tặng một người mà người đó không nhận thì quà ấy thuộc về ai?
- Thì tôi đem về chứ sao?
- Cũng thế, ta không nhận thì ông đâu có dính dáng đến ta(5).
Đối thoại trên đây giúp ta hiểu dòng thơ thứ hai:
Vết nhơ chẳng bén,Bụt làm lòng. Không những ở Phật, nhơ chẳng bén mà sạch cũng không bám, Chánh pháp còn không chấp hà huốnglà phi pháp. "Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh…" (Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh). Bụt làm lòng là cái tâm không, rỗng rang "vô quái ngại". Đó cũng là cách nói khác của chơn ngã. Khi quán chiếu tất cả đều là ảo ảnh, đều là giả tướng thì kiến tánh đồng thời Phật tánh hiển bày. Để biểu hiện điều khó hiểu nhất trong giáo lý của Đức Phật, Nguyễn Trãi đã viết bằng một câu thơ mộc mạc đến quê mùa. Kết thúc dòng thơ thứ hai bằng ba tiếng “Bụt làm lòng”, Nguyễn Trãi nói như bà giàtrầu thay vì một ông Tiến sĩ (Thái học sinh). Thay vì dùng từ “Phật” (佛) của văn chương bác học, Nguyễn Trãi đã sử dụng từ “Bụt” (Buddha) của văn học dân gian, hẳn cũng là dụng tâm nghệ thuật (!). Trong truyện cổ tích không thiếu ông Bụt(6) xuất hiện để giải tỏa bế tắc; còn thành ngữ, tục ngữ, “Bụt” cũng được sử dụng nhiều: Hiền như Bụt, Đi với Bụt mặc áo cà sa… Đưa Bụt vào thơ là đưa lời ăn tiếng nói của người dân chân lấm tay bùn vào văn học, vì đằng sau đó là thế giới tinh thần của một kẻ sĩ phong kiến lúc nào cũng thương dân như con đỏ: Ăn lộc nhờ ơn kẻ cấy cày - Chăn dân mạ nỡ mất lòngdân…
Có phải vì thế mà khi nói chuyện Phật bằng thơ ca, Nguyễn Trãi nói đến hoa dâm bụt thay vì hoa đàm, hoa vô ưu kể cả hoa sen (vốn có đặc tính vô nhiễm và trừng thanh)(7). Hoa sen là Phật hoa và dẫu gần “bùn” và mọc trong đầm nhưng sen, song song với tính dân dã, còn có tính quý tộc, vương giả. Bộ tứ bình trong thơ hay họa của Nho gia không thiếu hoa sen… Đã là đóa hoa in hình bóng nước thì làm sao cấu bẩn được. Hoa mà chẳng phải là hoa thì dù nước có dơ cũng không sao lây nhiễm được bóng hoa. Lấy một hình ảnh thơ để nói Phật tánh, chơn tâm thì quả là tuyệt tài hoa, tuyệt bác học. Có thể tìm ra ở đây tinh thần “Phật trụ vô trụ”. Hoa mà không trụ tướng hoa nên không cấu nhiễm, vì thế nở hay rụng (sanh hay diệt) cũng đều không phải là thực tướng.
Chiều mai nở / chiều hôm rụng(8). Bài thơ thất ngôn chen câu lục (6 chữ) mà không đứt gãy bởi tiết điệu và thanh điệu riêng của nó. Lục bát và lục bát của song thất lục bát truyền thống thường ngắt nhịp 2/2/2, cuối câu lục bao giờ cũng vần bằng, QÂTT có khá nhiều câu lục với vần trắc ở cuối và ngắt nhịp 3/3, điều mà trước Nguyễn Trãi chưa ai làm. Bẻ cái trúc / hòng phân suối - Đạp án mây / ôm bó củi - Con đòi trốn / chẳng ai quyến…
Dòng thơ chia hai nửa này cũng dễ gây hiểu lầm. Thoáng đọc, ngỡ như đây là cảm hứng thương hoa tiếc ngọc: Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình (Thôi Đồ); Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hoa (Nguyễn Du); Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm / Đành gởi hương cho gió phũ phàng (Xuân Diệu)…
Đặt chung trong mạch cảm hứng xuyên suốt bài thơ, sẽ thấy Nguyễn Trãi không nói như thế dù chính ông đã từng xót xa: “Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi”. Thế mà trong thế giới của dòng thơ này thì hoa quả thật chỉ tồn tại một sáng một chiều. Như đã nói, đây là đóa hồng in ánh nước, khi mặt trời đã khuất, nước không còn “ánh” nữa, thì hoa còn đâu để soi bóng mình? Thế là hoa “rụng”, dù hoa trên cạn có khi vẫn còn tươi rói (!) Các pháp hữu vi đều huyễn, do duyên hợp mà thành. Khi hết nhân duyên thì pháp hữu vi trở về cái không đúng với tự tánh của mọi hiện hữu. Lại mở ra kinh A Hàm: “Thử hữu cố bỉ hữu; thử vô cố bỉ vô – Thử sinh cố bỉ sinh; thử diệt cố bỉ diệt” (Cái này có thì cái kia có; cái này không thì cái kia không - Cái này sinh thì cái kia sinh; cái này diệt thì cái kia diệt). Ngay cả tín hiệu thời gian “chiều mai - chiều hôm” cũng rất tương đối. Vì chiều mai nơi này trái đất là chiều hôm của trái đất nơi kia…, chứ thời gian không có tự tính.
Đó cũng là một phần ý nghĩa của không sinh không diệt, không khứ, không lai. Vì thế mà giọng điệu của câu thơ 6 chữ không phải là nỗi xót xa, niềm đau tủi mà là giai điệu của một tâm hồn bình tịnh, tự tại. Từ đó “Hoa đào năm ngoái…” của Nguyễn Du, hoặc “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái” của Nguyễn Khuyến nếu được nhìn dưới nhãn quan của Phật thì hoa năm ngoái và hoa năm nay cũng không hề ở ngoài… “bất nhị”.
Từ đó, lời cuối của bài thơ như một nguyên lý tất định được đúc kết:
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không. Cớ sao còn cho là “sự lạ”, nghe chừng như xao xuyến, ngỡ ngàng? Cũng có thể cái tôi đã “ngộ” ra lẽ đạo sau khi đã nắm bắt được nghĩa đời. “Rời thế gian để tìm Bồ đề, cũng như tìm sừng thỏ” (Lục tổ). Tìm nghĩa của thơ quả là liều lĩnh nên tốt hơn là hãy để cho thơ tự nói…
…Đến đây không còn sắc, không còn không, không còn cả không sắc cùng cả không không... Từ “tuyệt” định vị ở vị trí thứ 5 của câu thơ 7 chữ nặng như núi, như một nỗ lực khẳng định tính vô thường và chân lý tuyệt đối về tính không của vạn hữu. Ngay cả sắc cũng không rồi hơn nữa, chính không cũng không, thì đâu là chỗ khởi đầu, đâu là chỗ kết thúc? Hoa, bóng hoa, ánh nước, chiều mai, chiều hôm đều không thực có thì còn nói chi có hoa nở, có hoa tàn? Lại đọc Tâm kinh.
“… Không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí huệ cũng không có chứng đắc(9).
“Hoa mộc cận” là một vì sao “lạ” giữa bầu trời QÂTT. Có thể sẽ có thắc mắc: Nguyễn Trãi là một hành giả đã giác ngộ? Điều đó không biết được. Nhưng lắm lúc không ít thi sĩ đã đặt chân đến bờ giác vì họ có trái tim và bộ óc… hơi khác. Chỉ có điều là khoảnh khắc ấy có khi chỉ là một sát na rồi sau đó họ lại quay về lăn lóc, nhởn nhơ trong trò chơi “mê lộ” thay vì thường trụ trong tự tánh - vô niệm.
Phàm phu chúng ta nào có khác gì?
Chú thích: (1) Đặng Tiến, Thơ - Thi pháp và Chân dung, NXB. Phụ Nữ 2009.
(2) Dĩ nhiên không nói đến loài dâm bụt đa sắc màu thuộc diện cây cảnh hiện nay, đã được bàn tay khoa học làm biến dạng.
(3) Ánh: những tia sáng do một vật phát ra hoặc phản chiếu lại - Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội, 1992.
(4) Thích Nhuận Châu, Hương sen tinh khiết, NXB. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2003.
(5) Ni sư Thích nữ Trí Hải, Sống chết bình an, lược dịch từ Tạng thư sinh tử của Sogyal Rinpoche, NXB. Thanh niên, 2008.
(6) Ông Bụt trong truyện cổ của dân gian đặc biệt có quyền phép, ít nhiều có diệt ác trừ gian… Đó là một quá trình vận hành từ Phật giáo chính thống đến văn hóa dân gian.
(7) Hoa sen hái lên cúng Phật không cần rửa sạch vì không bao giờ lấm bẩn bụi bặm nên gọi là vô nhiễm. Dù cả hồ đều đục, hoa sen mọc lên thì ở đó nước vẫn trong nên gọi là trừng thanh.
(8) Theo học giả Đào Duy Anh, từ “chiều” là một từ cổ có nghĩa là buổi.
(9) Chánh Trí Mai Thọ Truyền - Bát nhã ba la mật đa tâm kinh Việt giải, tái bản lần I, NXB. Sài Gòn, 1964.