Núi Huỳnh Mai trong một sáng sớm mùa hạ lặng yên êm ả như bao đời nay, hàng cây phi lao, tràm, bạch đàn… vi vu trong gió. Ngôi mộ đơn sơ, giản dị trên lưng chừng núi bao quát ruộng đồng xóm thôn cả một vùng. Những tưởng ngôi mộ vị đại quan phải to lớn như những lăng mộ công hầu khác, chí ít cũng phải có câu đối ca tụng công đức, có hổ chầu, lân phục, phụng vờn, hoa văn trang trí…Ấy vậy mà ở ngôi mộ vị đại quan này không, tất cả đều không! Mộ của danh nhân Đào Tấn đơn sơ như ngôi mộ của những người dân quanh vùng, thậm chí còn nhỏ hơn, đơn sơ hơn. Chính điều này càng làm tôn thêm tính cách của một người nghệ sỹ hướng thượng, một nhân cách đẹp, một phẩm chất tuyệt vời của một ông quan mang tâm hồn nghệ sỹ.
Đào Tấn sinh ra và lớn lên ở làng Vinh Thạnh, ông vốn thông minh, mẫn tiệp, văn hay chữ tốt… từng làm đến Phủ Doãn Thừa Thiên, Tổng Đốc Nghệ An – Hà Tĩnh, Thượng Thư Bộ Công… Ông còn là thầy dạy học của vua Thành Thái, Vua Thành Thái có tinh thần yêu nước, chống Pháp một phần cũng là do ảnh hưởng từ ông. Tất cả những điều trên không làm nên tên tuổi của ông, không giúp cho hình ảnh của ông sống trong lòng người. Người Việt Nam tôn vinh ông, tưởng nhớ ông với tư cách là một nghệ sỹ chân chính, một nhà soạn tuồng lớn nhất của Việt Nam.
Đào Tấn làm thơ, viết văn, viết từ khúc, soạn tuồng… Năm 19 tuổi đã viết vở tuồng đầu tay: Tân Dã Đồn, từ đó về sau ông đã cống hiến cho nền nghệ thuật tuồng hàng trăm pho tuồng lớn. Những vở tuồng kết hợp truyền thống với vấn đề thời sự đương thời, đưa nghệ thuật tuồng đến gần hơn với tầng lớp bình dân. Ông có công chỉnh lý lại nhiều vở tuồng cổ, dám phá vỡ khuôn mẫu ước lệ cổ điển, trong tuồng của ông đậm chất tự sự - trữ tình, bi kịch và hài kịch đan xen vào nhau…Có thể kể những vở tuồng tiêu biểu như: Hộ Sanh Đàn, Hoàng Phi Hổ Quá Giới Bài Quan, Trầm Hương Các, San Hậu, Tam Nữ Đồ Vương, Đào Phi Phụng, Vạn Bửu Tường Trình… Thông qua tuồng ông gởi gắm nỗi niềm tâm sự trước thời cuộc nhiễu nhương đồng thời nâng cao giá trị di dưỡng tinh thần cao quý của bộ môn nghệ thuật tuồng. Có hai câu thơ của ông mà rất nhiều trí thức, sỹ phu và người có tâm hồn cao thượng tâm đắc:
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vayĐào Tấn vốn là hậu duệ của Đào Duy Từ, người đời tôn xưng Đào Tấn là hậu tổ tuồng. Nho giáo phong kiến ngày xưa vốn xem thường và khinh miệt người nghệ sỹ, liệt họ vào hạng “xướng ca vô loại”, con hát… Họ không được thi cử và bị nhiều cấm đoán khác. Đào Tấn là một ông quan lớn của triều đình, xuất thân từ Nho giáo… Ấy vậy mà ông không vướng vào quan niệm coi thường người nghệ sỹ, chẳng những thế ông còn trân trọng họ, yêu thương họ, chỉ dạy họ, sáng tác tuồng cho họ diễn. Đào Tấn làm qaun lớn nhưng sống thanh bạch, liêm khiết. Ông dành bổng lộc quan của mình để lập Học Bộ Đình ở Vinh Thạnh. Học Bộ Đình chính là nhà biểu diễn tuồng, là lò đào tạo nghệ sỹ… Ông dành hết tâm huyết và năng lực vào việc sáng tác tuồng, đào tạo nghệ sỹ… Có thể nói Học Bộ Đình là trường đào tạo nghệ sỹ tuồng rất đặc biệt và duy nhất của Việt Nam thời xưa. Học Bộ Đình tuyển những người có năng khiếu để dạy hát, múa, điệu bộ, học tuồng… Rất nhiều thế hệ nghệ sỹ tuồng xuất thân từ đây và rồi họ lại truyền cho các thế hệ sau. Trong thời buổi mà văn hóa, tư tưởng và chính sự còn coi thường và kỳ thị người nghệ sỹ, ấy vậy mà Đào Tấn lại vượt qua định kiến của thời đại. Ông yêu quý nghệ sỹ, đam mê sáng tác và đã có công đưa bộ môn nghệ thuật tuồng phát triển đến giai đoạn cao độ và rực rỡ nhất.
Người đời không nhớ Đào Tấn ở cương vị quan lớn. Người đời ghi nhớ ông ở vai trò một nghệ sỹ lớn, một nghệ sỹ xuất sắc, một ông thầy dạy nghệ sỹ đầy tài năng và tâm huyết. Đào Tấn cả một đời liêm khiết, dành hết tâm trí vào việc cổ xúy phát triển bộ môn nghệ thuật tuồng – hát Bội. Ông lấy hiệu Mộng Mai, Mai Tăng (ông tu tại gia và yêu hoa mai nên lấy hiệu như vậy)… Điều ấy thể hiện tính cách cao quý của ông, tâm hồn cao thượng. Ông chọn núi Huỳnh Mai để làm nơi yên nghỉ sau khi mãn cuộc chơi ở thế gian này!
Núi Huỳnh Mai khá nhỏ, nay thuộc xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ngôi mộ nằm cô đơn trong nắng sớm sương chiều, mơ màng trong những đêm trăng và cũng hết sức thê lương trong những buổi mưa gió giăng đầy. Có người nghệ sỹ nào mà không cô đơn? Không cô đơn sao có thể thành nghệ sỹ? Người nghệ sỹ trải lòng ra trong tác phẩm của mình nhưng thiên hạ dễ mấy ai “bắt” được tiếng lòng. Người nghệ sỹ càng cô đơn thì càng sáng tác mạnh. Người nghệ sỹ có thể cười với tất cả mọi người nhưng nỗi “đoạn trường” trong lòng chỉ mỗi bản thân tự biết, may chăng có gió núi mây ngàn.
Đường lên mộ Đào Tấn khoảng chừng 150 bậc thang đá hộc, cỏ lác tràn hai bên, nhiều chỗ bể rời ra. Đứng bên ngôi mộ đơn sơ ấy không một ai có thể tưởng rằng đây là nơi an nghỉ của một vị đại quan hay là nơi chôn cất một nghệ sỹ lớn của dân tộc!
Mộ Đào Tấn cô đơn như đời người nghệ sỹ, dường như chẳng mấy ai biết đến, các tua du lịch cũng chẳng có… Đôi khi thế mà hay. Ông yên nghỉ trong gió núi mây ngàn, trong tiếng nỉ non của côn trùng mà không bị quấy rầy bởi những con kẻ thô tháo, kệch cỡm. Mộ Đào Tấn cô đơn như tâm hồn người nghệ sỹ, nó chưa bị sự can thiệp thô bạo với mỹ từ trùng tu nhưng thực chất phá hoại cái hồn cốt thuở ban đầu.
Tôi ngẩn ngơ bên ngôi mộ ông, tôi thấy thấp thoáng bóng dáng ông trong những vở tuồng. Tôi cảm nhận hồn ông lững thững trên cung đường bất tận vì đam mê nghệ thuật.
Vô thường biến hoại trong từng phút giây, sự thay đổi tương tục trong từng khoảnh khắc. Phủ đệ của ông Phủ Doãn, dinh của vị Thượng Thư Bộ Công, Học Bộ Đình của người nghệ sỹ… đều đã mai một. Riêng tính cách, tâm hồn và hình ảnh của người nghệ sỹ vẫn tồn tại trong tâm trí của những người yêu cái đẹp, yêu nghệ thuật.
Đào Tấn, một ông quan thanh liêm, khẳng khái và bất khuất. Đào Tấn một nghệ sỹ tuồng, một nhà soạn tuồng lớn nhất của Việt Nam.
Tiểu Lục Thần Phong Vijaya, 0625
Đường lên mộ Đào Tấn
Toàn cảnh ngôi mộ Đào Tấn
Mộ Đào Tấn
_____________________________
Đào Tấn (Đào Đăng Tiến, Đào Tiến), tự Chỉ Thúc, hiệu Mộng Mai, Mai Tăng, sinh năm Ất Tỵ (năm 1845). Ông quê làng Vinh Thạnh, phủ Tuy Phước, nay thuộc thôn Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định
Ông đậu cử nhân năm Đinh Mùi (năm 1867), 4 năm sau, vua Tự Đức mời ông vào Hiệu Thư triều đình Huế, chuyên soạn các vở tuồng theo lệnh nhà vua. Năm Giáp Thìn (năm 1904), ông về hưu sau khi giữ chức Thượng Thư Bộ Công. Ông là người yêu nước nổi tiếng thanh liêm, đồng thời là nhà thơ, nhà biên soạn và đạo diễn tuồng xuất sắc của Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Với những đóng góp to lớn, Đào Tấn được suy tôn là “Hậu Tổ” của nghệ thuật tuồng Việt Nam.
Mộ Đào Tấn được khởi dựng sau khi ông qua đời tại quê nhà ngày 15.7.1907 (năm Thành Thái thứ 19) theo nghi lễ Quốc Triều. Mộ của ông toạ lạc trên núi Huỳnh Mai (Hoàng Mai) thuộc thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước, cách thành phố quy Nhơn 15 km. Mộ nhìn về hướng nam, hướng về ngôi làng nơi ông từng sinh sống.
Mộ Đào Tấn dài 3 mét, rộng 2 mét, trước mộ có bia ghi thời điểm lập mộ và bình phong che chắn. Xung quanh mộ là khuôn viên hình chữ nhật được bo tròn, trước có trụ cổng, lưng có bình phong mang hình cuốn thư. Trước và sau ngôi mộ có 4 con sư tử đứng chầu, đuôi vểnh lên trên, mặt nhìn ra hướng chính diện. Di tích này đã được Bộ Văn hoá – thông tin xếp hạng ngày 24.1.1998.
Năm 1994, Sở Văn hoá – Thông tin Bình Định phối hợp với UBND huyện Tuy Phước cùng với xã Phước Nghĩa tiến hành gia cố, trùng tu mộ Đào Tấn dựa trên nguyên bản. Ngày nay, di tích mộ Đào Tấn là địa diểm tham quan của du khách gần xa mếm mộ người nghệ sĩ đã có nhiều cống hiến cho nghệ thuật, nơi dâng hương tưởng nhớ danh nhân tài hoa của đất nước do ngành Văn hoá – Thông tin tỉnh và UBND huyện Tuy Phước tổ chức ngày 15.7 âm lịch hàng năm.