Phẩm Phổ môn - Bồ Tát Quán Thế Âm, thứ hai mươi lăm[1]
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý
[2] từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo trần vai bên phải,
[3] chắp tay cung kính hướng về đức Phật thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Bồ Tát Quán Thế Âm
[4] có danh hiệu ấy?”
Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có vô số trăm ngàn muôn ức chúng sanh đang chịu các khổ não, nghe đến Bồ Tát Quán Thế Âm liền một lòng xưng niệm danh hiệu, Bồ Tát Quán Thế Âm lập tức quán chiếu âm thanh xưng niệm, khiến cho những chúng sanh ấy đều được giải thoát.
“Nếu có người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào lửa dữ cũng không bị thiêu đốt; đó là do sức oai thần của Bồ Tát.
“Nếu bị nước lớn cuốn trôi, niệm danh hiệu Bồ Tát liền gặp chỗ nước cạn.
“Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sanh vì muốn tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, các thứ bảo vật... nên đi vào biển lớn, gặp cơn mưa bão tối tăm
[5] xô đẩy thuyền trôi dạt vào nước quỷ la-sát; dù chỉ một người trong số ấy xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người khác cũng đều thoát khỏi nạn quỷ la-sát.
“Do nhân duyên như vậy nên có danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
“Thiện nam tử! Nếu có người sắp bị giết hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì dao gậy kẻ kia tự nhiên gãy nát, liền được giải thoát.
“Nếu trong thế giới đại thiên đầy dẫy dạ-xoa, la-sát muốn đến hại người, vừa nghe xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những quỷ dữ đó không dám nhìn người bằng ánh mắt hung dữ, huống chi là làm hại?
“Nếu người bị gông cùm xiềng xích, dù có tội hay không có tội, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì gông cùm xiềng xích tự nhiên gãy nát, liền được giải thoát.
“Nếu trong thế giới đại thiên đầy bọn giặc cướp, có một thương chủ
[6] dẫn các thương nhân, mang nhiều hàng quý báu đi qua đường hiểm. Có một người trong số ấy nói rằng: ‘Này các vị, xin đừng lo sợ, chúng ta nên một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Vị Bồ Tát này thường mang an ổn đến cho chúng sanh, nếu ta xưng danh hiệu ngài sẽ được thoát nạn giặc cướp.’ Các thương nhân nghe vậy cùng nhau niệm lớn: ‘Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.’ Nhờ niệm danh hiệu nên liền thoát nạn.
“Này Vô Tận Ý! Sức oai thần của Đại Bồ Tát Quán Thế Âm lớn lao như thế.
“Nếu có chúng sanh thường tham dâm dục, cung kính niệm danh Bồ Tát Quán Thế Âm liền xa lìa dâm dục; nếu nhiều sân hận, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền xa lìa sân hận; nếu nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền xa lìa ngu si.
“Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có những oai thần lớn lao như vậy, làm lợi ích rất nhiều, do vậy chúng sanh nên thường xưng niệm.
“Nếu có phụ nữ muốn sinh con trai, cúng dường lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm liền sinh con trai phước đức, trí tuệ; nếu muốn sinh con gái, liền sinh con gái xinh đẹp, nết na đoan chính, từng trồng sâu các gốc công đức, được mọi người yêu kính.
“Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần như vậy; chúng sanh cung kính lễ bái, phước đức không hề luống mất. Vì thế chúng sinh đều nên thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
“Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu các Bồ Tát nhiều như số cát sáu mươi hai ức sông Hằng, lại trọn đời cúng dường thức ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc men trị bệnh. Ý ông nghĩ sao, công đức của thiện nam hay thiện nữ ấy có nhiều chăng?”
Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều.”
Phật dạy: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù chỉ một lần cúng dường lễ bái, phước đức hai người ấy bằng nhau, không hề khác biệt, trong trăm ngàn muôn ức kiếp không thể cùng tận.
“Này Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được lợi ích phước đức vô lượng vô biên như vậy.”
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm đi khắp thế giới Ta-bà như thế nào? Vì chúng sanh thuyết pháp thế nào? Sử dụng sức phương tiện ra sao?”
Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong cõi nước phải dùng thân Phật mới có thể hóa độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật vì họ thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Duyên giác mới có thể hóa độ, liền hiện thân Duyên giác vì họ thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Thanh văn mới có thể hóa độ, liền hiện thân Thanh văn thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Phạm vương mới có thể hóa độ, liền hiện thân Phạm vương thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Đế-thích mới có thể hóa độ, liền hiện thân Đế-thích thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Tự tại thiên mới có thể hóa độ, liền hiện thân Tự tại thiên thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Đại tự tại thiên mới có thể hóa độ, liền hiện thân Đại tự tại thiên thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Thiên đại tướng quân mới có thể hóa độ, liền hiện thân Thiên đại tướng quân thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Tỳ-sa-môn mới có thể hóa độ, liền hiện thân Tỳ-sa-môn thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tiểu vương mới có thể hóa độ, liền hiện thân tiểu vương thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân trưởng giả mới có thể hóa độ, liền hiện thân trưởng giả thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân cư sĩ mới có thể hóa độ, liền hiện thân cư sĩ thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tể quan mới có thể hóa độ, liền hiện thân tể quan thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân bà-la-môn mới có thể hóa độ, liền hiện thân bà-la-môn thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di mới có thể hóa độ, liền hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân phụ nữ là trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn mới có thể hóa độ, liền hiện ra những thân phụ nữ như vậy thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân đồng nam, đồng nữ mới có thể hóa độ, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ thuyết pháp.
“Nếu phải dùng những thân trời, người, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già... mới có thể hóa độ, liền hiện ra những thân như vậy thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân thần Chấp kim cang mới có thể hóa độ, liền hiện thân thần Chấp kim cang thuyết pháp.
“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu những công đức như vậy, dùng đủ mọi hình tướng đi khắp các cõi nước mà độ thoát chúng sanh. Vì vậy các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.
“Đại Bồ Tát Quán Thế Âm này, trong lúc nguy cấp sợ sệt thường mang đến sự an ổn không sợ sệt cho chúng sanh, nên trong cõi Ta-bà đều gọi ngài là bậc Thí Vô Úy.”
Bồ Tát Vô Tận Ý thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Nay con xin cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.”
Liền cởi chuỗi ngọc quý trị giá trăm ngàn lượng vàng dâng lên Bồ Tát Quán Thế Âm, thưa rằng: “Thưa ngài, xin nhận món pháp thí là chuỗi ngọc quý này.”
Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm không nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại thưa: “Thưa ngài! Xin thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Nên thương Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, cùng hàng trời, người, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già mà nhận chuỗi ngọc này.”
Ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm vì thương Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, cùng hàng trời, rồng, cho đến người, phi nhân... liền nhận chuỗi ngọc rồi chia làm hai phần, một phần dâng lên Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng lên tháp Phật Đa Bảo.
[7]Đức Phật dạy: “Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần tự tại như vậy, đi khắp thế giới Ta-bà.”
Bấy giờ, Bồ Tát Vô Tận Ý đọc kệ thưa hỏi rằng:
“Thế Tôn đủ diệu tướng,
Nay con xin thưa hỏi:
‘Bồ Tát nhân duyên gì,
Danh hiệu Quán Thế Âm?’
Đấng đầy đủ diệu tướng,
Đáp lời Vô Tận Ý:
‘Hãy nghe hạnh Quán Âm,
Khéo ứng hiện khắp nơi,
Nguyện rộng sâu như biển,
Trải số kiếp vô cùng,
Theo ngàn muôn đức Phật,
Phát nguyện lớn thanh tịnh.
Vì ông, ta lược nói,
Nghe tên hoặc thấy người,
Tâm niệm không luống qua,
Trừ được bao khổ nạn.
Nếu có người làm hại,
Xô vào hầm lửa lớn,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Hầm lửa hóa ao lành.
Trôi dạt trong biển lớn,
Gặp nạn quỷ, rồng, cá,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Sóng dữ không hại người.
Hoặc trên đỉnh Tu-di,
Bị người xô rơi xuống,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Lơ lửng như mặt trời.
Bị kẻ ác rượt đuổi,
Rơi từ núi Kim cang,
[8]Nhờ sức niệm Quán Âm,
Mảy lông không tổn hại.
Bị oán tặc vây quanh,
Cầm đao kiếm làm hại,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Chúng liền khởi lòng lành.
Hoặc gặp nạn vua quan,
Chịu hành hình sắp chết,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Đao kiếm đều gãy nát.
Bị giam cầm xiềng xích,
Chân tay nặng gông cùm,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Được cởi bỏ giải thoát.
Bị thuốc độc, bùa chú,
Muốn làm hại đến thân,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Độc hại trả cho người.
Hoặc gặp la-sát dữ,
Rồng độc, các quỷ ác,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Chúng đều không dám hại.
Bị thú dữ vây quanh,
Nhe nanh vuốt đáng sợ,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Chúng đều tránh chạy xa.
Rắn độc cùng bò cạp,
Khí độc như khói xông,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Nghe tiếng tự rời bỏ.
Mây giăng sấm sét nổ,
Mưa đá, xối xả tuôn,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Lập tức trời quang tạnh.
Chúng sanh gặp tai ách,
Thân chịu vô số khổ,
Quán Âm trí nhiệm mầu,
Thường cứu khổ thế gian.
Sức thần thông trọn đủ,
Trí phương tiện rộng tu,
Bao cõi nước mười phương,
Đều hiện thân cùng khắp.
Đủ mọi cảnh xấu ác,
Địa ngục, quỷ, súc sinh,
Khổ sinh, già, bệnh, chết,
Dần dần dứt trừ hết.
Chân quán, Thanh tịnh quán,
Quảng đại trí tuệ quán,
Bi quán và Từ quán,
[9]Thường nguyện, thường chiêm ngưỡng.
Hào quang tịnh, không nhơ,
Trí tuệ phá mê mờ,
Thường trừ nạn gió, lửa,
Soi sáng khắp thế gian.
Giới bi thể,
[10] sấm động,
Ý từ, mây lớn che,
Mưa xuống cam lộ pháp,
Dập tắt lửa phiền não.
Tranh tụng đến cửa quan,
Giữa chiến trường run sợ,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Oán thù đều tan rã.
Diệu âm, Quán thế âm,
Phạm âm, Hải triều âm
Thắng bỉ thế gian âm,
[11]Nên phải thường nhớ niệm,
Thường niệm chớ sinh nghi.
Bậc tịnh thánh Quán Âm,
Trong khổ não, sống chết,
Nơi chúng sanh nương tựa;
Đầy đủ mọi công đức,
Mắt thương nhìn chúng sanh,
Biển phước đức vô biên,
Do vậy nên kính lễ.
Dịch thơ:
“Đức Thế Tôn đủ đầy diệu tướng,
Con nay xin thưa hỏi đôi lần.
Có Bồ Tát tên Quán Thế Âm,
Nhân duyên gì xưng danh hiệu ấy?”
Đức Thế Tôn đủ đầy diệu tướng,
Kệ đáp rằng: “Ông hãy lắng nghe,
Bồ Tát Quán Thế Âm hạnh nguyện,
Cũng rộng sâu như biển như trời.
Khéo hóa hiện nơi nơi, chốn chốn,
Trải bao đời không thể suy lường,
Đã kề cận muôn ngàn đức Phật,
Phát khởi lời nguyện lớn sạch trong.
Ta nay sẽ vì ông lược nói,
Dù nghe tên hay được thấy người,
Niệm tưởng hoài không để luống qua,
Liền diệt đi khổ nạn muôn phần.
Hoặc có người khởi tâm hãm hại,
Đem bỏ vào hầm lửa đốt thiêu.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Hầm lửa kia liền hóa ao lành.
Hoặc trôi dạt giữa vùng biển cả,
Gặp quỷ thần, rồng, cá khốn nguy;
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Sóng dữ kia chẳng thể hại mình.
Hoặc từ trên đỉnh núi Tu-di,
Bị kẻ ác đẩy xô rơi xuống.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Như mặt trời vững giữa hư không.
Hoặc bị kẻ ác tâm rượt đuổi,
Trốn chạy rơi từ núi Kim cang.
[12]Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Dù mảy lông chẳng tổn hại gì.
Hoặc gặp phải những phường giặc cướp,
Cầm gậy dao chỉ chực hại người.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Giặc cướp kia liền khởi lòng lành.
Hoặc bị nạn vua quan hãm hại,
Chịu thọ hình sắp phải đầu rơi.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Đao kiếm liền tự hủy hoại ngay.
Hoặc chịu những oan khiên tù ngục,
Phải gông cùm xiềng xích tay chân.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Liền tự nhiên được tháo gông cùm.
Hoặc bị những tà ma chú thuật,
Thuốc độc dùng làm hại đến thân.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Tai ách kia trả lại cho người.
Hoặc gặp phải nạn tai la-sát,
Với quỷ thần, rồng độc hiểm nguy.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Hết thảy đều chẳng hại đến thân.
Hoặc bị hại bởi loài thú dữ,
Lấy vuốt nanh đe dọa khiếp hồn.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Thú dữ kia liền phải chạy xa.
Hoặc có những rắn độc, bò cạp,
Khí độc phun như lửa khói xông.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Theo âm thanh liền tự phản hồi.
Hoặc gặp lúc gió giông sấm dậy,
Mưa ngập trời nước lũ trào dâng.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Ngay tức thời mây tạnh trời quang.
Chúng sanh gặp biết bao khổ nạn,
Bao hiểm nguy rình rập quanh mình.
Đức Quán Âm sức thần diệu trí,
Thường cứu nguy bạt khổ thế gian.
Đầy đủ sức thần thông biến hóa,
Lại rộng tu phương tiện trí minh.
Gần xa khắp mười phương cõi nước,
Chẳng nơi nào ngài chẳng hiện thân.
Các đường dữ súc sanh, ngạ quỷ,
Hoặc là nơi địa ngục khốn cùng.
Chịu những khổ sanh, già, bệnh, chết,
Quán Âm liền cứu vớt dần cho.
Dùng Chân quán cùng Thanh tịnh quán,
Lại thêm Quảng đại Trí tuệ quán,
Vận dụng vào Bi quán, Từ quán,
Nên thường nguyện, lại thường chiêm ngưỡng.
Hào quang thanh tịnh không cấu nhiễm,
Như mặt trời phá sạch tối tăm.
Thường trừ được nạn tai gió lửa,
Chiếu soi cùng chốn chốn thế gian.
Thể lòng bi, rền như sấm động,
Diệu ý từ, mây lớn chở che.
Đổ mưa pháp cam lồ khắp cõi,
Dập tắt liền phiền não lửa kia.
Tranh giành nhau đến trước cửa quan,
Hoặc giữa chốn trận tiền run rẩy.
Nhờ sức niệm Quán Âm cứu độ,
Kẻ oán cừu tất cả lùi xa.
Này Diệu âm, này Quán thế âm,
Cùng Phạm âm, cùng Hải triều âm.
Lại thêm Thắng bỉ thế gian âm,
Người thế gian hãy thường nhớ niệm.
Khi niệm tưởng chớ sanh nghi ngại,
Bậc thánh thanh tịnh Quán Thế Âm.
Giữa những chốn nguy nan, ách nạn,
Thường vì người cứu độ chở che.
Đã thành tựu đủ đầy công đức,
Mắt thương thường quán sát chúng sanh.
Phước tích tụ vô biên như biển,
Do vậy nên kính lễ chí thành.”
Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa
[13] từ chỗ ngồi đứng dậy thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào được nghe phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm này, nói về công hạnh tự tại với sức thần thông thị hiện khắp mọi nơi, nên biết rằng công đức của người ấy thật không nhỏ.”
Khi Phật thuyết phẩm Phổ môn này, trong chúng hội có tám mươi bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không gì so sánh được.
_____________________________________
CHÚ THÍCH:[1] Đại Chánh tạng cho biết phần kệ trùng tụng trong phẩm này do ngài Xà-na-quật-đa (闍那崛多) dịch vào đời Tùy. (隋北天竺沙門闍那崛多譯重頌 - Tùy, Bắc Thiên Trúc Sa-môn Xà-na-quật-đa dịch trùng tụng) (ĐCT, T9, 262, tr.198b, d.11)
[2] Bồ Tát Vô Tận Ý (H. 無盡意, S. Akṣayamati), cũng được dịch là Vô Tận Tuệ (無盡慧) hay Vô Lượng Ý (無量意).
[3] Nguyên bản là “偏袒右肩 - thiên đản hữu kiên” (vạch trần vai bên phải). Đây là nghi thức bày tỏ sự tôn kính theo lễ nghi Ấn Độ thuở xưa.
[4] Bồ Tát Quán Thế Âm (H. 觀世音菩薩, S. Avalokiteśvara), dịch âm là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la (阿縛盧枳低濕伐羅), cũng dịch nghĩa thành các tên khác như Quang Thế Âm (光世音), Quán Tự Tại (觀自在), Quán Thế Tự Tại (觀世自在), Quán Thế Âm Tự Tại (觀世音自在), Hiện Âm Thanh (現音聲), Khuy Âm (闚音), thường gặp cách gọi tắt là Bồ Tát Quán Âm (觀音菩薩).
[5] Nguyên bản là “黑風 - hắc phong” (gió đen), chỉ cơn bão lớn kèm theo mây đen, mưa lớn, khiến trời đất tối đen không còn ánh sáng.
[6] Thương chủ: người cầm đầu, dẫn đầu một đoàn thương nhân cùng đi buôn đường xa.
[7] Chi tiết này cho thấy tháp Phật Đa Bảo vẫn còn, chứng tỏ phẩm kinh này phải nằm trước phẩm Giao phó về sau (Chúc lụy).
[8] Nguyên bản nói “墮落金剛山 - đọa lạc Kim cang sơn” có nghĩa là rơi xuống từ núi Kim cang, không phải từ trên cao rơi xuống núi này.
[9] Khổ kệ này đề cập đến 5 pháp quán mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành tựu, tương đương với 3 pháp quán không, quán giả và quán trung, được giải thích theo giáo lý tông Thiên thai bao gồm: 1. Chân quán (真觀): tức là pháp quán không, quán xét lý chân đế để đoạn trừ kiến hoặc và tư hoặc. 2. Thanh tịnh quán (清淨觀): tức là pháp quán giả. Sau khi dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc, thân được thanh tịnh, tiếp tục quán giả để đoạn trừ trần sa hoặc. 3. Quảng đại trí tuệ quán (廣大智慧觀): tức pháp quán trung, do đã dứt trừ vô minh hoặc mà đạt được trí tuệ rộng lớn. 4. Bi quán (悲觀): vận dụng 3 pháp quán trên để quán xét chúng sinh, cứu giúp thoát khỏi khổ não. 5. Từ quán (慈觀): vận dụng 3 pháp quán trên quán xét chúng sinh, để ban cho sự an vui.
[10] Nguyên bản là “悲體戒 - bi thể giới”, chỉ thể tánh đại bi không ngăn ngại phân biệt, được phát sinh từ việc nghiêm trì giới hạnh thanh tịnh.
[11] Khổ kệ này nói về ngũ âm (5 loại âm thanh) mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã thành tựu. 1. Diệu âm (妙音): là âm thanh nhiệm mầu, vi diệu. 2. Quán thế âm (觀世音): là âm thanh quán xét thế gian, dùng trí tuệ vi diệu để quán xét chúng sanh, tầm thanh cứu khổ. 3. Phạm âm (梵音): là âm thanh thanh tịnh. 4. Hải triều âm (海潮音): là âm thanh thích hợp với thời điểm, ví như ngọn thủy triều lên xuống tùy thời điểm không bao giờ sai lệch; Bồ Tát cũng thuyết pháp đúng thời thích hợp để hóa độ chúng sanh, không sai lệch. 5. Thắng bỉ thế gian âm (勝彼世間音): là âm thanh vượt trội hơn tất cả âm thanh của thế gian.
[12] Nguyên bản nói “墮落金剛山 - đọa lạc Kim cang sơn” có nghĩa là rơi xuống từ núi Kim cang, không phải từ trên cao rơi xuống núi này.
[13] Bồ Tát Trì Địa (H. 持地菩薩, S. Dharaṇīndhara).