(Mộng ước và hoàn cảnh không đồng điệu!)Ðây là vị thầy học cuối cùng của hơn hai mươi năm đi học của đời tôi. Vị thầy khác tổ quốc, khác giống nòi nhưng gắn bó với tôi sâu đậm nhất, gần gũi, thương yêu, lo lắng cho tôi nhiều nhất. Sự gắn bó đó không chỉ giới hạn giữa cá nhân thầy và tôi, mà còn thắt buộc tôi với người vợ khuôn mẫu, tài đức vẹn toàn cùng với hai người con trai của thầy nữa.
Với thầy ngoài việc học hỏi về chuyên môn trong giảng đường đại học, thầy còn cho tôi những hiểu biết về lịch sử, những khó khăn của Nhật bản sau sự tàn phá của chiến tranh thế giới thứ 2. Với người vợ của thầy, một nữ giáo sư về Trà đạo (Sadoo) và nghệ thuật cắm hoa (Ikebana) đã dẫn tôi vào sự say mê với nền văn hóa cổ truyền Nhật bản
Vị thầy học mà tôi có rất nhiều kỷ niệm trong 6 năm tôi sống và học cũng như lúc đi làm việc tại Nhật. Thầy là hậu duệ của một giòng võ sĩ đạo (Samurai) ở Saporo thành phố miền cực Bắc Nhật, vì vậy bản chất cũng như những quan niệm của thầy rất cổ điển, có phần nào cố chấp và đôi khi ngoan cố, nhất là trong những vấn đề liên quan đến lòng yêu nước. Ðến nay dù đã xa thầy hơn 40 năm nhưng hàng năm tôi vẫn nhận được một vài lá thư đơn giản của thầy, ngược lại tôi cũng chưa bao giờ quên gửi những món qùa nho nhỏ, những tấm carte chúc mừng ngày sinh nhật của thầy vào tháng 11 và ngày tết cuối năm.
Nhờ thầy Hà Mai Anh, tôi đã có một hướng đi, con đường dẫn tôi vào sự say mê Nông Nghiệp, nhưng sự mê say, cố gắng của tôi trong lãnh vực đó nếu nó được chín mùi về khả năng lại là công lao dậy dỗ, vun đắp bởi thầy Fuyo Ohta. Dĩ nhiên sự hữu dụng đó có trọn vẹn như ước mơ, chờ đợi của chính tôi, cũng như của thầy hay không, đó lại là việc khác. Nó tùy thuộc vào hoàn cảnh của đất nước, số mạng may rủi của tôi!
Vị thầy sau cùng nhiều kính mến này đã đi bên cạnh cuộc đời tôi dưới ba vai trò khác nhau. Ở môi trường học hành thầy là một vị giáo sự rất nghiêm khắc, nghiêm khắc đến nỗi vài lần tôi có cảm tưởng muốn bỏ ngang việc học vì sự qúa khắt khe của thầy! Ở một vị trí khác thầy lại dành cho tôi những cảm tình, lo lắng cuả một người cha. Thầy hỏi thăm sức khoẻ, lo lắng an ủi tôi, xin việc làm và ngay cả đến việc tình cảm trăm năm của tôi thầy cũng tìm cách giúp đỡ tôi nhiều lần, nhưng cũng chẳng đến đâu,chỉ là những lỡ làng của tôi và thất vọng của thầy!
Bên cạnh hai vai trò trưởng thượng đó thầy cũng đến với tôi như một người bạn tâm giao, thầy thông cảm sự buồn chán của tôi vì những lỡ làng tình cảm hay vì những bàng hoàng trước những đổi dời cuả đất nước và gia đình tôi ở VN sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thầy nâng đỡ tinh thần, an ủi tôi khi tôi bị thất bại, xuống tinh thần.
Một người thầy nghiêm khắc.Ðầu năm 1974 tôi đến Nhật bản tu nghiệp, sau vài ngày ở Tokyo tôi xuống Osaka theo học khoá Nhật ngữ căn bản kéo dài 6 tháng, trước khi xuống Kagoshima, tỉnh cực Nam Nhật để theo học nghành biến chế và tồn trữ thực phẩm tại đại học Kagoshima. Sau khi trình diện giaó sư trưởng ban, cũng là vị thầy đỡ đầu cho việc học trong tương lai cuả tôi. Ông dẫn tôi đi giới thiệu tôi với các phòng thí nghiệm của phân khoa, gíup đỡ tôi trong việc tìm chỗ ăn ở xong xuôi.
Hai ngày sau, ông gọi tôi vào phòng làm việc, trong đó có cả vị giáo sư phó ban (thầy Junichi Nishimoto). Ông cho tôi biết đã coi kỹ hồ sơ của tôi do bộ giáo dục Nhật bản gửi cho ông rồi, tuy nhiên ông muốn biết rõ hơn về hệ thống giáo dục và những môn học của VN. Nhất là ông muốn xét trình độ của tôi trước khi để tôi tham dự cuộc thi tuyển vào chương trình đại học viện trong tháng 3 năm tới. Ông cũng cho biết chỉ khi nào tôi qua được kỳ thi tuyển đó, tôi mới chính thức là sinh viên cuả phân khoa thực phẩm của ông mà thôi. Cuối cùng ông cho tôi một ngày để sắp xếp bài nói chuyện của tôi về 2 đề tài:
-Hệ thống tổ chức giáo dục của VN cùng với các môn học.
-Các môn học và khảo cứu cũng như thực tập mà tôi đã theo học phân khoa Thú Y Saigon và đại học Cần Thơ nơi tôi làm việc.
Ngày hôm sau, buổi sáng, đúng 9 giờ khi tôi vào một phòng học nhỏ đã thấy thầy tôi, thầy Nishimoto cùng với 2 vị thầy khác. Một người chủ nhiệm ban biến chế nông sản, người thứ hai là chủ nhiệm phân khoa thú y của đại học, cả 4 vị giáo sư đã ngồi đợi tôi ở đó từ trước.
Tôi trình bày rất rõ ràng hệ thống giáo dục VN từ tiểu học đến cấp đại học, họ hỏi tôi khá nhiều về các môn học căn bản như Toán, Vật lý, Hoá học, Vạn vật (sinh học)... Tôi có cảm tưởng họ sát hạch tôi giống như các kỳ thi vấn đáp (Oral) mà ngày xưa tôi đã trải qua trong những kỳ thi Tú Tài. Ðiều may mắn là ngày xưa tôi đã học rất căn bản, nhất là tôi đã từng đi dậy kèm, kiếm tiền ăn học nên tôi trình bầy rất có thứ tự và nhiều tự tin! Ngoài những môn kỹ thuật như Hình học không gian, Số học, Vật lý liên quan đến động lực học, máy nổ, con lắc... Tôi cũng dẫn họ vào cả nhưng môn văn chương, triết học và xã hội, kinh tế học v..v.. Cả buổi sáng ngày hôm đó tôi bị cả 4 người ''quay'' rất kỹ về các môn học trong ban trung học mà tôi đã học hơn 10 năm về trước!
Tôi có cảm tưởng họ hỏi tôi vì tò mò, muốn biết kỹ lưỡng một hệ thống và chương trình giáo dục của một quốc gia mà hàng ngày trên báo chí, trên TV họ chỉ thấy những tin tức về chiến tranh và chết chóc! Có lẽ họ tưởng rằng trong sự loạn ly đó nền giáo dục của VN cũng phải èo ọt theo, nhưng đến cuối giờ, sau khi nghe tôi trình bầy, thầy tôi cũng như các vị khác tỏ ra rất thoả mãn, họ cho tôi biết họ đã rất ngạc nhiên với trình độ rất cao của nền giáo dục căn bản của VN! Nhất là khi tôi nói đến tỷ lệ đậu, rớt và điểm số của những kỳ thi trung học, tú tài bán và toàn phần cuả chính cá nhân tôi vào những năm của thập niên 1960! (trong khi đó ở Nhật bản với khoảng 95 % học trò đều tốt nghiệp tú tài trong các kỳ thi!).
Một vị thầy, nhìn tôi mỉm cười khi ông hỏi tôi với chương trình học đáng nể đó, tôi thuộc thành phần nào trong lớp ? Tôi trả lời ông ta không một tí ngại ngần, tôi chỉ thuộc loại trung bình mà thôi! Cả bốn vị giáo sư nhìn tôi cười thích thú, có lẽ họ đã nghĩ rằng câu trả lời rất khéo léo khi tôi nhìn thấy sự ngạc nhiên cuả họ đối với nền giáo dục trung học của VN (Tôi không nói với họ cái vị trí tuyệt hảo cuả ngôi trường trung học Chu Văn An mà tôi đã theo học cũng như tôi luôn luôn tự hào là một học sinh đúng nghĩa và thực tài của nó!)
Buổi chiều và buổi sáng ngày kế tiếp tôi dẫn họ vào nền giáo dục đại học của VN, dĩ nhiên tôi chỉ nói đến cái khung của hệ thống đại học mà thôi, nhưng tôi nói rất kỹ về nghành nông nghiệp và nhất là nghành thú y mà tôi đã theo học và tốt nghiệp.
Lần này tôi bị quay rất kỹ lưỡng, không phải vì tò mò nữa mà vì muốn xác định khả năng chuyên nghành cuả tôi. Cả bốn vị hỏi tôi rất chi tiết liên quan đến thời gian học, lý thuyết, thực tập... Nhất là về các môn Biến chế Nông sản, Biến chế Súc sản, Hoá học thực phẩm, Sinh hoá học cũng như các môn Bệnh lý thú y và Vệ sinh thực phẩm (mấy môn chuyên biệt này do vị giáo sư bên trường Thú - y khảo sát).
Buổi chiều, tôi vừa vào trong phòng, thầy tôi cho biết tôi có đủ căn bản về nghành thú y, nếu tôi muốn ông ta sẽ chuyển tôi sang phân khoa thú y để theo học. Về nghành biến chế của ông, tôi quá yếu kém, nhất là môn hoá học thực phẩm và môn sinh hoá. Còn các môn dinh dưỡng và kỹ thuật biến chế cũng chỉ ở mức trung bình. Nghe thầy tôi nói, tôi mang cảm giác buồn bã, nhưng đó là sự thật mà tôi không thể chối cãi được, với lối học từ chương, nhồi sọ, viết công thức, rỗng tếch về thực hành của những năm tôi học ở Saigòn, làm sao tôi che giấu được trước những vị giáo sư chuyên khoa của một quốc gia phát triển như Nhật bản được?
Cả bốn vị giáo sư nhìn sự im lặng, buồn rầu của tôi, họ trao đổi vài ý kiến với nhau. Cuối cùng thầy tôi cho biết nếu tôi muốn theo học nghành của ông, tôi phải đậu kỳ thi tuyển vào tháng 3 năm tới. Trong khoảng 5 tháng sắp tới tôi sẽ phải chịu sự kiểm soát, giúp đỡ trực tiếp của ông về 3 môn: Hoá học thực phẩm, Sinh hoá học và môn Biến chế, Tồn trữ thực phẩm. Sau đó tôi sẽ phải vượt qua cuộc thi nhập học về các môn đó tôi mới được ông thâu nhận vào phân khoa của ông.Ông cũng cho biết, hàng ngày từ sáng đến chiều tối, tôi phải vào phòng thí nghiệm hay khu biến chế cuả phân khoa để làm các thí nghiệm hay thực tập căn bản. Mỗi buổi sáng thứ bẩy tôi phải vào phòng làm việc của ông để làm bài khảo sát, tôi phải trả lời cho ông những câu hỏi liên quan đến ngành biến chế thực phẩm cũng như phải report cho ông những thí nghiệm và thực tập mà tôi đã làm trong phòng thí nghiệm và khu chế xuất của phân khoa.
Nghe sự giải quyết khắt khe đó mồ hôi toát ra! Nhưng biết làm sao khi nhìn thấy mình kém cỏi thật sự và mong uớc trở lên một chuyên viên đúng nghĩa. Suy nghĩ một lúc rồi tôi đã chấp nhận những yêu cầu của ông.
Suốt năm tháng trời sau đó, với cái vốn tiếng Anh nghèo nàn của tôi, cuốn tự đìển Anh Việt - Việt Anh của Nguyễn văn Khôn là người bạn gắn bó đêm ngày cuả tôi. Thời gian đầu tiên những trang sách tiếng Anh, tôi đã tra tự điển gần như từng chữ! Hàng ngày tôi ngụp lặn với hai cuốn sách chuyên môn về phân tích hoá học: AOAC (Association oc Official Anaticaly Chemistry) và cuốn CAFFP (the Chemical Analysis of Foods and Food Products) trong phòng thí nghiệm, tôi tự xây lắp lấy các dụng cụ phân tích (mà tôi chưa bao giờ trông thấy ở VN!), ban đêm tôi chông đèn dùi mài lý thuyết về các môn hoá thực phẩm (food chemistry) và Biến chế thực phẩm (food technologies).
Mỗi ngày thứ bảy, cuối tuần với tôi là ngày đen tối nhất! Buổi sáng khoản 7 giờ 30 tôi đến phòng thí nghiệm gục đầu xuống bàn ôn sơ lại bài vở của những đề tài mà ông bắt tôi phải học. Khoảng vài phút trước 9 giờ tôi im lặng, rã rời đứng dậy dưới những con mắt ái ngại của các bè bạn người Nhật trong phòng thí nghiệm. Họ nhìn tôi thẩn thờ rời phòng thí nghiệm và gửi cho tôi câu chúc may mắn, cố gắng...quen thuộc (Ruan san, ganbattekudasai!).
Bước vào căn phòng làm việc của thầy, trên cái bàn dài khá lớn, dành cho khách trước bàn làm việc của ông, đã để một tờ giấy với khoảng 10 câu hỏi mà ông đã để sẵn, yêu cầu tôi trả lời trong buổi sáng. Tôi im lặng viết lách, ông im lặng làm việc... cái không khí nặng nề, quen thuộc đó theo tôi gần 5 tháng trời cực nhọc. Sau khi làm xong bài thi, tôi nộp bài cho ông, ông chẳng thèm đọc mà bỏ nó vào cặp mang về nhà. Sáng thứ hai, tuần lễ tiếp theo vào khoảng 9 hay 10 giờ sáng có khi ông trực tiếp mang đến phòng thí nghiệm đưa cho tôi hay chuyển qua người sinh viên Nhật khi anh ta vào phòng pha trà cho ông, mang trả lại tôi bài kiểm với toàn là chổ sửa be bét bằng bút đỏ! Cuối mỗi trang giấy ông yêu cầu tôi viết lại những đề mục hay những câu trả lời cuả tôi mà ông chưa vừa ý.
Với thời gian năng nề trôi qua, việc học của tôi đã dần dần dễ dàng hơn, nhờ các danh từ chuyên môn trong Anh ngữ tôi đã thông suốt, nhất là kiến thức về chuyên môn của tôi đã khá, nhờ vậy tôi đọc và hiểu dễ dàng, thâu nhận nhanh hơn. Ðầu óc kém cỏi của tôi đã dần dần được khai sáng và tiến triển thấy rõ. Cuối cùng sau 5 tháng tự học trong sách dưới sự kèm kẹp của ông, tôi đã qua kỳ thi nhập học một cách dễ dàng! Tuy nhiên thành thực mà nói, trong khoảng 5 tháng cực nhọc bị ông đầy đoạ với những cuộc khảo sát và viết đi viết lại những bản reports mà ông yêu cầu vì chưa được ông vừa ý… Sự bực ghét, sợ hãi ban đầu cuả tôi đối với ông đôi lúc đã làm cho tôi chán nản, đã có lúc tôi có ý định bỏ ngang việc học! Nhưng rồi với thời gian, ngôn ngữ chuyên môn trong trong Anh ngữ đã khá hơn, sự khó khăn cũng dần dần giảm sút, rồi gần như biến mất cùng với sự gia tăng tự tin cuả tôi.
Những ngày cực nhọc đã qua, khả năng chuyên môn của tôi tăng tiến thấy rõ,nhờ vậy tình thầy trò cũng đằm thắm, thân tình hơn, sự gia tăng kính mến, biết ơn cuả tôi dành cho thầy dĩ nhiên cũng thăng tiến theo. Có một lần trong buổi nói chuyện, thầy đã nhận xét tôi thuộc loại hơi kém thông minh nhưng có tính chịu khó học, tuy nhiên có một điều làm ông buồn lòng vì tôi quá dốt tiếng Nhật. Tôi cho thầy biết, môn ngoại ngữ là môn tôi đã khổ vì cái dốt của mình, lại thêm khối óc hơi dưới trung bình về trí nhớ đã gây khó khăn cho suốt đời đi học của tôi. Tôi cũng cho ông biết tôi không thể dành thời gian nhiều cho việc học tiếng Nhật được vì phần lớn sách báo, tạp chí khảo cứu mà tôi xử dụng đều viết bằng Anh ngữ.
Một người cha thân ái Có lẽ mỗi người sinh ra đều bị một số phận chi phối ít hay nhiều, ngay cả thời trẻ thơ, khi chập chững cắp sách đến trường học. Với tôi số phận đã chi phối hơi nặng nề, tôi đã quá khổ ải với việc đi học vì loạn ly, vì nghèo khó của gia đình. Lớn lên, ở cấp trung học, tú tài và đại học tôi đã phải học quá cực nhọc, thời gian tôi dành cho sách vở có thể gấp 2, 3 lần so với bạn bè vì hoàn cảnh gia đình không mấy thoải mái và cũng vì trí não dưới mức trung bình, tôi đã cố gắng lắm mới theo được bạn bè. Khi sang Nhật tu nghiệp, những người VN đi cùng lúc với tôi, họ thong dong và an nhàn, được nghỉ hè hay đi thăm nhau thường xuyên. Còn tôi gần như chẳng có ngày nghỉ và cũng chẳng có thời gian gặp bè bạn, trong suốt nhiều năm tôi học và sống ở Nhật bản. Có lẽ phần số của tôi không may mắn, nhưng đó chỉ là phần nhỏ, phần lớn vẫn là sự thông minh dưới mức trung bình cuả tôi (mà thầy tôi sau những lần tiếp xúc đã thấy rõ). Chính vì biết sự yếu kém này nên tôi đã phải lấy sự chăm chỉ để bù đắp với mong ước không bị đào thải.
Tuy vậy số phận lại đem cho tôi vài điều tốt đẹp, đó là tôi đã có một vị thầy thông hiểu sự yếu kém của tôi nên ông thương yêu và giúp đỡ tôi. Rất nhiều lần, vào buổi chiều tối thứ bẩy (nhất là thời gian sau ngày 30 tháng 4 năm 1975) khi tôi đang làm thí nghiệm, thầy im lặng đến bên tôi hỏi nhỏ tôi có rảnh không, ông mời tôi đi ăn cơm tối hay đi uống cà phê... Trong những lần đi với nhau đó thầy tôi thường hỏi tôi rất nhiều về đời sống cuả gia đình bố mẹ tôi ở VN, ý định về tương lai của tôi và cả đến đời sống tình cảm riêng tư của tôi nửa. Dĩ nhiên tôi chẳng dấu ông điều gì, ngay cả việc tôi phải cần kiệm không dám tiêu pha cố gắng dành dụm tiền gửi về cho bố mẹ tôi vì dại khờ mà bị người ta lừa đảo hết. Bố tôi đã dại khờ lấy hết vốn liếng cuả gia đình và của tôi gửi về rồi đem chuyển ngân cho em trai tôi đang du học ở Ý vào giữa tháng 4/ 1975, kết quả là món quà tặng cuối cùng dành cho các ông lớn của miền Nam VN làm vốn ra đi trước ngày 30 /4! Không những thế, thời gian tiếp theo sau năm 1975 tôi vẫn phải tiếp tục cầy lưng ra kiếm tiền gửi về cho gia đình để trả nợ cho những lần vượt biên không thành của những đứa em ở VN
Tôi cũng cho ông biết tôi có ý định học xong rồi trở về nước làm việc vì tôi nghĩ rằng đất nước đã hết chiến tranh, hận thù rồi, tôi không muốn sống hết đời tại hải ngoại và cũng không muốn rời xa cha mẹ, người đã cả đời hy sinh, đã từng nhịn ăn, chịu nhục nhã nuôi tôi khôn lớn, trưởng thành. Tôi cũng không quên được những đứa em dại mà tôi đã thay thế bố mẹ tôi cưu mang chúng nhiều năm vừa qua. Nghe tôi kể lể, tâm sự thầy tỏ vẻ rất đồng ý với ý định của tôi, theo ông tài năng của mình sẽ có ý nghĩa hơn nếu được dùng để phục vụ tổ quốc, dân tộc của chính mình. Ông cũng mong ước một ngày nào đó ông sẽ thấy tôi có một vị trí ở VN, nơi mà ông mong muốn được đi du lịch và khi đó sẽ được tôi đón tiếp, hướng dẫn ông đi thăm viếng các phong cảnh ở VN quê hương người học trò ngoại quốc của ông.
Về vấn đề tình cảm riêng tư, tôi cho thầy biết về người bạn gái của tôi hiện đang sống ở VN, chúng tôi vẫn còn liên lạc thân ái với nhau qua thư từ qua đường bưu điện Hà Nội và Paris (khoảng nhiều tháng đầu tiên năm 1975, việc thư từ từ VN va Nhật bản chưa được nối lại). Qua những lần nói chuyện đó, tôi nghĩ chỉ là những lời tâm sự với ông cho bớt đi một phần lo buồn trong tâm hồn mình vì những đổi dời của đất nước mà thôi. Nhưng không ngờ sự kể lể của tôi đã đưa đến cho tôi hai sự kiện sau đây:
Sự kiện thứ nhất:Khoảng đầu năm 1976 thầy tôi gọi tôi vào văn phòng làm việc, ông hỏi tôi rất nhiều về tình cảm, ý định tương lai của tôi với cô bạn gái ở VN trong tình hình chính trị của VN. Ông cho biết ông có thể can thiệp cho cô bạn gái của tôi sang Nhật nếu có sự yêu cầu và đồng ý của tôi. Tôi đã ngỡ ngàng, sung sướng với sự giúp đỡ của ông, lúc đó tôi mới biết, qua những lần nói chuyện, ông đã biết sự vướng víu tình cảm của tôi và cô bạn gái tại Việt Nam. Ông cho tôi biết, ông đã điện thoại trực tiếp lên bộ giáo dục, bộ ngoại giao Nhật yêu cầu sự giúp đỡ, can thiệp cho cô bạn của tôi sang Nhật đòan tụ với tôi, tuy nhiên bộ giáo dục cần một lá thư xin giúp đỡ từ cô bạn gái cuả tôi gửi cho họ bằng tiếng Anh. Tôi phải làm đơn đồng ý làm đám cưới ngay khi cô ta sang Nhật. Khoảng vài tháng sau mọi giấy tờ và thủ tục được coi là hoàn tất, vé máy bay sang Nhật cho cô bạn gái của tôi do chính phủ Nhật đài thọ...
Tôi sung sướng với sự trôi suốt tốt đẹp và nghĩ rằng ít ra những ngày tháng sắp tới, tương lai cuộc đời của mình sẽ có thêm một người chia xẻ. Nhưng đến phút cuối cùng, ước mơ và dự tính của tôi và cũng của người thầy rất thương mến tôi đã không thành trong buồn đau của tôi và ngạc nhiên không thể ngờ được của thầy.Tôi đã bàng hoàng, không tin đó là sự thật khi nhận được lá thư từ chối ra đi của cô bạn gái!
Mãi nhiều năm sau này khi tôi đã sang Thụy Sĩ, vào quốc tịch Thuỵ sĩ, có dịp trở về VN với vợ và con, tôi mới được biết cô bạn gái của tôi đã từ chối không ra đi vào phút chót chỉ vì nghe theo lời khuyên nhủ của cơ quan địa phương. Theo họ sự chấm dứt liên hệ với tôi, một người sĩ quan trong quân đội VNCH cần thiết để giúp sự trở về sớm hơn của bố và anh trai của cô bạn gái đang học tập cải tạo. Nhưng cuối cùng sự chọn lựa đó của cô bạn gái chẳng mang đến một kết quả tốt đẹp nào ngoài hai chữ lỡ làng của mối tình mà chúng tôi đã nuôi dưỡng gần 4 năm trời!Người bố cô bạn gái chưa kịp trở về thì đã bị bệnh và mất trong thời gian cải tạo, người anh sau khi mãn hạn học tập đã vượt biên đường bộ và mất tích. Tất cả là một thảm cảnh của một gia đình gặp qúa nhiều bất hạnh!
Thêm một lần nữa, vào năm 1978 tôi cũng tâm sự với thầy tôi về một người bạn gái khác từ Mỹ, tôi cũng tưởng mọi vìệc đã chắc chắn và tôi mong muốn thầy tôi chia vui với tôi, đứa học trò mà ông luôn luôn lo lắng, thương yêu. Nhưng cũng lại dở dang vào phút cuối với một lý do rất vớ vẩn! Từ hai lần thất bại đó, một phần vì chán nản, một phần nghĩ số phận của mình không may, tôi đã không bao giờ tâm sự với thầy tôi về vấn đề tình cảm nữa dù ông có hỏi tôi nhiều lần. Tôi cũng cảm thấy người phụ nữ VN có khá nhiều điều khó hiểu (lúc đó tôi vẫn còn nghĩ oan cho người bạn gái đầu tiên của tôi ở VN, người đã từ chối sang Nhật với tôi chỉ vì nghĩ cô ta đã tìm được duyên tình mới). Sau những lỡ làng không vui đó, tôi quen với vài người phụ nữ Nhật bản nhưng chẳng bao giờ hứa hẹn và tuyệt đối dấu thầy tôi, chính vì vậy người bạn gái Nhật mà sau này là vợ của tôi, tôi đã quen cô ta cả mấy năm trời khi tôi còn sống ở Nhật mà thầy tôi không biết, cho mãi đến khi chúng tôi cuới nhau ở Thụy Sĩ.
Sự kiện thứ hai: Sự việc này đã giúp tôi nhận định rõ ràng về hoàn cảnh của tôi và phải quyết định tìm đường cho tương lai của mình, đó cũng là động lực làm cho tôi quyết định rời bỏ Nhật bản để định cư tại Thụy Sĩ. Ðối với thầy, sự rời bỏ Nhật bản của tôi sang Thuỵ sĩ định cư mà không trở về lại Việt nam đã cho ông hiểu ít nhiều sự khác biệt giữa hoàn cảnh cuả VN sau năm 1975 và của Nhật sau thế chiến 1945. Ông buồn thương cho hoàn cảnh của tôi hơn vì vậy sau khi tôi tốt nghiệp ông tìm việc làm cho tôi và còn cho tôi những lá thư giới thiệu với những đại học, viện khảo cứu ở vài quốc gia Âu châu và Bắc Mỹ. Chính nhờ những giúp đỡ đó tôi đã rời Nhật đi Thụy Sĩ vào giữa năm 1979, sau khi tốt nghiệp và đi làm cho một hãng chuyên môn về biến chế thực phẩm tại Nhật bản được 2 năm.
Ngày nay dù thời gian qua đã lâu nhưng tôi còn nhớ rất rõ lý do và động lực đã giúp tôi nhìn rõ hoàn cảnh của mình sau năm 1974 và quyết định tìm hướng đi cho tương lai của đời tôi. Sự kiện đó xẩy ra vào khoảng tháng 2 năm 1977 khi tôi sửa soạn tốt nghiệp, ông khuyên tôi liên lạc với toà đại sứ VN mới ở Tokyo. (Tôi nhớ rõ lúc đó ông Nguyễn Giáp là đại sứ, ông Nguyễn văn Sự làm lãnh sự hay phụ tá) để xin về nước làm việc sau khi tốt nghiệp vào tháng 4 sắp tới. Qua lần liên lạc, tôi đã có một cuộc hẹn với toà đại sứ. Tôi đã phải khổ sở ngồi chuyến xe hỏa chạy chậm nhất, rẻ tiền nhất, với hơn một ngày trời đi từ Kagoshima nơi tôi sống mới đến được Tokyo. (lúc đó tôi nghèo qúa, tiền bạc dành dụm mấy năm trời tôi đã gửi về VN trả nợ cho sự dại khờ của gia đình và lũ em tôi hết rồi!). Lên Tokyo tôi tạm trú ở cư xá Ðông Du với một người quen để khỏi trả tiền khách sạn.
Trời tháng 2 buốt lạnh, tuyết phủ trắng Ðông Kinh tôi đến Toà Ðại sứ đúng như giờ hẹn. Nơi đây, cũng vẫn là cái village sang trọng của toà Ðại sứ VNCH ngày xưa, trước năm 1975 mà tôi đã có dịp viếng thăm khi mới sang Nhật bản tu nghiệp. Nhưng bây giờ, nó đã đổi chủ, lá cờ vàng ba sọc đỏ, lá cờ trong qúa khứ tôi đã từng đứng nghiêm trang, kính cẩn chào kính từ lúc ấu thơ không còn nữa mà đã được thay bằng là cờ mới, cờ đỏ sao vàng. Tôi cũng nhớ lại, ngày xưa, lúc đất nước còn phân chia, trong những buổi chào cờ, tôi đã từng mang những xúc động nồng nàn của tuổi thanh xuân với những lời quốc ca hào hùng chẳng bao giờ tôi quên:
''...... Vì tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên, làm sao cho núi sông, từ nay luôn vững bền. Dù cho phơi thây trên gươm giáo, thù nước lấy máu đào đem báo, nòi giống lúc biến phải cần giải nguy......…Công dân ơi! mau hiến thân dưới cờ! Công dân ơi! Mau làm cho cõi bờ, thoát cơn tàn phá, vẻ vang nòi giống, xứng danh nghìn năm dòng giống Lạc Hồng.“…..Nhưng bây giờ lá cờ mà tôi chào kính đó không còn nữa, nó đã được thay bằng một lá cờ khác, nền đỏ sao vàng với bài quốc ca khác! Lá cờ, lời hát cũng mang sắc thái hào hùng của những người cùng giòng giống với tôi nhưng bên kia chiến tuyến.
Tôi đến đúng hẹn, dưới cái lạnh giá buốt của một ngày Tokyo tuyết rơi rất đẹp nhưng với tôi hôm đó hình như có tí chút buồn tẻ. Tôi đứng chờ bên ngoài cánh cổng đóng kín của toà đại sứ, một nhân viên của tòa đại sứ ra cho biết vì nhân viên trách nhiệm bị bận rộn nên không thể tiếp tôi được hôm đó, họ cho tôi cái hẹn khác vào sáng ngày mai. Biết làm sao hơn khi mình là kẻ đến để cầu xin… Với cảm giác buồn buồn tôi từ giã ra về trước khi nói với người nhân viên sẽ đến đúng giờ hẹn vào ngày mai.
Ngày mai, vẫn đúng hẹn, tuyết vẫn còn rơi, Tokyo vẫn phủ trùm của cái lạnh buốt giá, trời tháng 2. Tôi đến đúng như lời hẹn hôm qua, vẫn trong dáng dấp co ro, lạnh gía dưới những hạt tuyết trắng lăn tăn bay trong gió. Nhưng tôi lại trở về vì người phụ trách vẫn còn bận và tôi lại có một lời hẹn khác vào ngày hôm sau! Lại thêm một lần nữa, tôi mang cảm giác buồn da diết nhưng biết làm sao hơn? Tôi cố nở một nụ cười cay đắng, tủi nhục cho những trớ trêu của định mệnh của một người trong hoàn cảnh đến để cầu xin.
Lần thứ ba, ngày hôm sau! Tuyết đã ngừng rơi, trời Tokyo, hôm đó rất đẹp, nắng ban mai chói lọi xua mất cái ước át, lẹp nhẹp của tuyết lạnh hôm qua, nhưng cái lạnh buốt xương của tháng 2 vẫn còn. Tôi tự hỏi cái cảm giác lạnh lẽo do khí trời hay từ tâm can một người chợt cảm thấy lòng mình thấm thía một nỗi buồn vu vơ, khó giải thích?
Lần này tôi đã được ông phụ tá Nguyễn văn Sự tiếp chuyện. Sau vài câu chào hỏi xã giao, thân phận của tôi đã được ông Sự điểm hoá bởi một câu nói mà tôi chẳng bao giờ quên, vì nó cay đắng quá:
- Chúng tôi biết những người lên trình diện quá chậm trễ (gần 2 năm sau ngày lịch sử 30.4.75) như anh, mọi người đều có những lý do để biện hộ... vì bận việc, vì đường xa, vì tốn kém, vì không có thời gian..v..v... tất cả những lý do đó mà đằng sau có rất nhiều sự tính toán! Qua hồ sơ, chúng tôi đã biết anh là một sĩ quan ngụy quân, lại là một công chức khá lớn ngụy quyền, tôi cũng biết anh đã từ chối không tham dự khoá học chính trị mà hội sinh viên Việt kiều yêu nước đã gửi giấy đến mời anh …
Tôi im lặng, biện hộ gì hơn là im lặng? Ðó là sự thật, tôi biết chính vài người bạn đồng nghiệp với tôi, thành viên tích cực của chính phủ mới, họ nói về tôi cho toà đại sứ biết, với một mục đich nào đó. Tôi hơi buồn khi nghĩ đến những người bạn xa xưa tại sao phải lấy sự bới móc một người đồng nghiệp để làm lợi cho mình?Tại sao phải nói, chỉ có mình tôi trong số giáo chức Đại học Cần Thơ đi tu nghiệp là sĩ quan VNCH, tố cáo tôi từ chối giấy mời tham dự khoá học chính trị?... Rồi khi nghe tôi đề cập mục đích của tôi đến tòa Đại sứ là mong tìm đường về nước làm việc, nhưng ông phụ tá chỉ nói chuyện với tôi chỉ bao quanh kỹ nghệ dệt vải của tỉnh Nam Ðịnh, sinh quán của tôi, nơi tôi chẳng biết tí gì về nó vì tôi đã tôi rời từ thủa còn ấu thơ.
Cuối cùng tôi cũng phải đề cập đến vấn đề chính, mong được trở về lại quê hương, nhưng tôi đã nhận được một câu trả lời rất ngắn gọn: '' Ðất nước hiện nay chưa cần đến tài năng của anh, anh nên tìm cách học hành thêm để có dịp phục vụ tốt hơn!'' Chỉ có thế, một câu trả lời ngắn gọn và đơn giản quá! Thật xót đau cho một câu trả lời gián tiếp không chấp nhận lời cầu xin của tôi dù tôi đã phải bỏ mấy ngày làm việc, ngồi chiếc xe điện rẻ tiền chậm chạp nhất cho lần đi và về để cuối cùng chỉ nhận lấy một câu điểm hóa thân phận của mình với lời từ chối khéo léo và rõ ràng. Câu trả lời đơn giản, lạnh nhạt bước ra khỏi sự suy đoán của tôi và cả của thầy tôi nữa.
Đúng như vậy, tôi đã nghĩ rằng việc xin về nước làm việc,đóng góp tí chút tài năng cho quê hương sau cuộc chiến như lòng tôi ước mơ, cũng như mong đợi của người thầy Nhật bản đỡ đầu việc học hành của tôi, nó không đơn giản, không dễ dàng như tôi và thầy tôi nghĩ. Tôi cũng đã sai lầm cho rằng mình đến để trình diện với toà đại sứ không mang sắc thái chính trị mà của một người mong được góp tí chút tài năng chuyên môn của mình vào cho đất nước sau chiến tranh, nó dễ dàng được chấp nhận. Nhưng với lời từ chối khéo léo của ông phụ tá đã cho tôi hiểu rõ sự mong muốn và hoàn cảnh của tôi không đơn giản như tôi nghĩ. Cuối cùng tôi đã nhìn rõ vấn đề, dù quê hương mình dù đã im tiếng súng và máu lửa chiến tranh nhưng vẫn còn lại rất nhiều ngăn cách giữa người Việt bên này chiến thắng và bên kia chiến bại.
Khi ra khỏi toà đại sứ, tôi ngước mắt nhìn bầu trời Ðông kinh nắng vàng buổi gần trưa trong một tâm trạng buồn tủi, lủi thủi bước đi như một kẻ không hồn. Tôi đến nhà ga xe điện nhìn cảnh đông đảo, ồn ào, xầm uất cố hữu của Tokyo mà cảm thấy lòng mình bị tràn ngập nỗi cô đơn, trống vắng. Thành phố Tokyo rộng lớn qúa! Ðất nước Nhật giàu có, thịnh vượng quá! Quê hương tôi cũng rộng lớn, cũng đã từng có những thời hào hùng của thời đại Lý, Lê, Trần... với những chiến công phạt Tống, bình Chiêm, những lần ngạo nghễ đánh đuổi Minh, Thanh... Tôi tự hỏi, không lẽ quê hương, nơi đó không dành cho tôi một chỗ đứng rất nhỏ để sống và làm việc hay sao? Tâm hồn tôi quặn đau, nước mắt tôi trào ra, tôi khóc vì quá buồn tủi và hình như tôi cũng vừa nhận chân được cảm giác tiêu cực của mình, cảm giác của một người đang bước vào một không gian mà toàn là dấu tích của vô định!
Lúc ngồi trên chiếc xe điện để trở lại Kagoshima, tôi nhìn bâng quơ các nhà trọc trời, các xưởng kỹ nghệ đồ sộ, những căn nhà dân cư mái ngói màu xanh, màu đỏ độc đáo của Nhât bản dọc theo những phố thị mà con tầu điện đi qua. Tôi nghe những tiếng còi tàu, những tiếng nhạc của máy phóng thanh ở các sân ga... Tất cả hình ảnh và âm thanh đó hoà trộn với những suy tưởng và tâm trạng buồn đau vu vơ của tôi, những cái đó như muốn hoà trộn với những ước mơ trong trí não, trong tâm hồn tôi…. tạo ra một bức tranh phức tạp, sống động nhưng rất buồn bã của đời tôi.
Bức tranh sầu thảm đó hiện ra trong ảo giác, trong tưởng tượng của tôi nhưng rất kỳ lạ, tôi đã không thể tìm ra được chủ đề của bức tranh bưồn bã đó được. Nó mù mờ, mông lung và hình như nó còn tiềm ẩn trong đó một vài sắc thái của buồn tủi, của đớn đau. Bức tranh ẩn hiện cái dáng dấp của một kẻ lang thang tìm sống ở một xã hội giầu có, bên những bữa cơm sang trọng, rượu ngon, thịt béo... nhưng không phải của mình bởi vì trong ánh mắt kẻ lãng du vẫn còn cái gì trống vắng, băn khoăn của một người không được quê hương chấp nhận! Đúng như vậy, bức tranh buồn bã của một kẻ tha phương kiếm sống, xa cha mẹ, xa người thân yêu, xa tất cả những gì mà người ta gọi là kỷ niệm để nhận lấy chán chường, thất vọng mà đang có ý hướng quyên sinh!
Chiếc xe điện loại rẻ tiền, chậm chạp nhất mang tôi xuống miền Nam cùng hướng với quê hương tôi, tôi phải xuống ở cái ga cuối cùng của thành phố Kagoshima, một tỉnh cực Nam của Nhật bản. Từ trong khoang xe, tôi hướng mắt nhìn về miền Nam xa xa, hướng của Việt Nam tổ quốc tôi. Tôi nghe thấy tiếng đập của những làn sóng biển vỗ vào bờ vã cũng nghe thấy âm thanh buồn đau, chán chường của lòng tôi... Hình như từ hướng Nam xa xôi đó (trong tưởng tượng) tôi cũng nhìn thấy quê hương VN quý yêu của tôi, nơi đó có mẹ cha, mấy đứa em dại của tôi, những người bạn thân xa xưa và cả bóng dáng người tình yêu thương đẹp xinh, mến yêu của tôi nữa... Tất cả những người thân thương đó, họ đang đùa vui trong hạnh phúc với quê hương thịnh vượng, thanh bình không còn tiếng súng nổ bom rơi….mọi người đang nhìn tôi mỉm cười, vẫy gọi tôi hãy trở về... Vớí ảo tưởng của giấc mơ đẹp đẽ đó đã giúp tôi quên đi cái cực nhọc và cả nỗi buồn bã của lần lên Tokyo vừa qua.
Nhưng rồi, giấc mơ cũng chỉ là mơ mà thôi, không có thật. Đúng như vậy cuộc đi Tokyo vừa rồi cũng chấm dứt dù trên đường trở về (với con tầu điện chạy chậm, rẻ tiền) tôi đã có quá nhiều buồn vui và tưởng tượng. Cuộc đi thất bại, không đạt được điều mình mong muốn nhưng đã cho tôi biết rằng quê hương đã im tiếng súng nổ bom rơi nhưng quê hương chắc chắn vẫn còn lầm than, đói khổ của thời hậu chiến vẫn còn rất nhiều ngăn cách, nghi ngờ và cả sự thù hận … Những điều đó vẫn còn kéo dài, không dễ mau chóng hoá giải được, đó là những di chứng của một cuộc chiến tranh kéo dài quá lâu! Tôi tự hỏi và cũng ước mơ đến một ngày nào đó (hy vọng không xa) quê hương phủi bỏ được những điều tiêu cực đó để cho đất nước, dân tộc lại có được hạnh phúc, phú cường và cho những người như tôi được vui vẻ, chờ đón trở về.
Khi tôi trở lại Kagoshima, ngay buổi sáng hôm sau thầy gọi tôi vào phòng làm việc, ông hỏi tôi về kết quả cuộc đi! Tôi buồn rầu nói rất rõ sự việc cho thầy nghe, nhưng tôi có cảm tưởng ông không tin nhiều lắm vào những điều tôi nói! (Có ai tin được một quốc gia vừa thoát khỏi chiến tranh, với biết bao nhiêu đổ vỡ, nhân lực bị tiêu hao, tài năng đã phải đổ dồn cung ứng cho chiến trường... lại từ chối một chuyên viên xin về để đóng góp, để xây dựng lại những tàn phá nhỉ?) Qua vài câu nói, ánh mắt nhìn của thầy, tôi biết rằng ông đã tưởng tôi đã thấm bả bơ sữa, dollar của thế giới giàu sang mà Nhật bản, quê hương của ông đã làm tôi tìm cách không muốn trở lại Việt Nam! Dù biết suy nghĩ của ông qua ánh mắt, qua những câu hỏi mang tí chút nghi ngờ … nhưng tôi cũng không biết làm sao hơn là im lặng cùng với nỗi buồn còn sót lại trong lòng mình sau cuộc đi Tokyo vừa qua.
Khoảng vài ngày sau, bất thình lình thầy gọi tôi vào văn phòng, ông nhìn tôi với ánh mắt đầy thương hại. Im lặng một lúc rồi ông hỏi tôi về đời sống bố mẹ, anh em tôi ở VN... cuối cùng ông cho tôi biết ông đã điện thoại lên toà đại sứ Việt Nam để mong biết rõ sự việc, ông đã được nhân viên của tòa đại sứ trả lời: ''Hiện nay đất nước chúng tôi chưa cần tài năng của anh ấy, nếu giáo sư thương anh ta xin giáo sư giúp đỡ anh ta học thêm!''
Từ đó thầy thương và cảm thông hoàn cảnh của tôi hơn, đó cũng chính là lý do mà ông đã xin việc làm cho tôi tại một hãng biến chế thực phẩm lớn nhất của tỉnh Kagoshima. Tình thầy trò chúng tôi cũng thắm thiết hơn, đôi lúc thầy tôi gọi điện thoại mời tôi đến nhà thầy ăn cơm, tâm sự. Ông biết tôi thích nền văn hoá cổ cuả Nhật bản cho nên mỗi lần đến thăm gia đình ông, tôi lại được vợ của ông làm lễ dâng trà (trà đạo) cho tôi thưởng thức. Bà dạy tôi những thủ tục khá phức tạp, rườm rà trong nghệ thuật trà đạo khi bà dâng trà cho tôi. Tôi cũng được tham dự những khoá học dậy cắm hoa (Ikebana) của bà, bà giải thích lý thuyết về sự cân đối, sự hoà hợp của mầu sắc, của loại hoa, cuả mùa hoa cũng như ý nghĩa, mục đích của các chậu hoa...
Mỗi khi có những buổi trình diễn nhạc cổ truyền như kịch Kabuki, kịch Nô… trên thành phố, tôi lại nhận được giấy mời hay cùng đi với vợ chồng thầy. Nhờ vậy tôi đã được thưởng thức và được hướng dẫn, giải thích khá nhiều về nền âm nhạc cổ truyền Nhật bản dù tiếng Nhật tôi rất dở so với bất cứ một người sinh viên VN nào sống và học nhiều năm ở Nhật.
Một người bạn tâm giao Từ khi tôi phải chấm dứt việc học, đi làm việc để kiếm tiền gửi về VN giúp gia đình bố mẹ tôi. Nhất là khi thầynhìn thấy con đường về nước của tôi không đơn giản như ông nghĩ. Hoàn toàn khác với vài người bạn của ông từ Mỹ trở về Nhật bản sau khi thế chiến thứ 2 chấm dứt. Ông cũng nhìn thấy tôi buồn, xuống tinh thần vì lo lắng cho tương lai, vì những tin tức không vui của gia đình tôi ở Việt Nam…. Thỉnh thoảng vào buổi chiều cuối tuần, ông điện thoại vào hãng, hẹn với tôi đi uống rượu hay đi ăn ban đêm. Nhất vào những dịp lãnh tiền thưởng (bonus) ông dẫn tôi đi tham dự vào các bữa ăn sang trọng, gọi các cô geisha tiếp rượu, múa hát giúp vui khi chúng tôi ăn uống. Những lần đó ông thường rất hứng thú, ông uống rượu nhiều hơn, kéo tôi đứng dậy múa hát, cợt nhả cùng với các cô geisha.
Có lẽ khoảng thời gian lúc đi làm việc sau khi tốt nghiệp là thời gian tôi buồn bã nhất, buồn vì thấy rõ đường về quê hương không dễ dàng, có qúa nhiều ngăn cách, khó khăn. Còn công việc làm tại hãng xưởng cũng thực sự không đúng với khả năng, chuyên môn của tôi lắm. Việc làm có phần chuyên môn nhưng vẫn xen vào những công việc có tính lao lực. Bên cạnh đó gia đình tôi ở quê nhà, nhất là mấy đứa em luôn luôn gặp những khó khăn trong tình hình mới… mọi chuyện đều trông mong vào sự giúp đỡ tài chánh của tôi. Những đồng tiền tôi dè sẻn gửi về với hy vọng mua được sự an nhàn cho bố mẹ và giải quyết những rắc rối của lũ em gần như không bao giờ đủ, đã thế còn bị ăn chặn, mù mờ chi trả … tất cả như nắm muối bỏ bể.
Hằng ngày tôi đến hãng làm việc, đi dọc theo bờ biển, băng qua những cửa ra biển của vài con sông… tôi đưa mắt nhìn bâng quơ dõi theo những con chim hải âu bay lượn ngoài chân trời với những cảm giác buồn bã. Tôi vẫn thường đếm thời gian, những ngày buồn chán của đời tôi bằng cách ghi nhớ mức độ cao thấp của mức thủy triều ỡ những trụ cột, chân của những cây cầu trên đường mà tôi phải đi qua. Những ngày mực thủy triều lên cao nhất, thấp nhất tôi biết đó là ngày 15 hay 30 âm lịch mỗi tháng…. Cứ như thế, tôi kéo dài đời mình suốu mấy năm trời trong chán chường buồn tẻ.
Ðã rất nhiêu lần vói những chán nản cho tương lai đen tối, không lối thoát (lúc đó Nhật bản không cho những du học sinh tỵ nạn nên chúng tôi dù có việc làm cũng phải xin gia hạn cư trú 3 hay 6 tháng một lần!), cuộc sống buồn tẻ, không tương lai đã thế lại bị những kêu gào giúp đỡ từ gia đình tại quê nhà gần như không bao giờ dứt! Đôi lần vì xuống tinh thần tôi đã có ý định quyên sinh vì tương lai thì tối thui, công việc và cư trú thì tạm bợ...không có lối thoát! Cứ 3 hay 6 tháng lại phải điên đảo với giấy tờ bảo lãnh của thầy học, của hãng xưởng đem đến toà hành chánh tỉnh để xin giấy phép gia hạn làm việc. Tương lai thì tối mù, việc làm thì không đúng khả năng và tạm bợ, chẵng biết hợp đồng làm việc có được kéo dài hay sẽ bị sa thải vì hãng không cần nữa....
Trong hoàn cảnh bấp bênh như vậy lại thêm những kêu gào giúp đỡ từ gia đình tại quê nhà, tôi còn tìm cách làm thêm vào buổi tối. Hàng ngày tại hãng từ sáng sớm tinh mơ đến khoảng 6 giờ chiều về nhà, vài ba ngày trong tuần tôi theo vài người bạn Nhật trong hãng đi làm thêm ban đêm tại nhà hàng, quán bars… đến nửa đêm mới về nhà, mệt phờ quay ra ngủ lấy sức đến 6 giờ sáng hôm sau thức dậy, vội vàng lo cho bữa điểm tâm và hộp cơm trưa rồi đón xe bus của hãng đi làm việc!
Có lẽ đoán được cái ý tưởng không vui, buồn chán cuả tôi, vài người bạn Nhật bản trai và gái cũng như gia đình họ đã khuyên nhủ, nâng đở tinh thần tôi rất nhiều. Chính nhờ họ tôi đã thoát khỏi cái thời đìểm bi đát nhất cho mãi đến khi tôi được sự giúp đỡ, giới thiệu của thầy học và chủ hãng và cũng nhờ có người em cư trú tại Thuỵ sĩ nên tôi đã có dịp rời xa Nhật bản đến Thuỵ sĩ làm việc và khởi đầu một cuộc sống an định, tương lai.
Kết luận (Lá thư gửi thầy) Thầy ạ, viết thế nào cho đủ, cho trọn vẹn những gì con muốn nói, muốn tâm sự với thầy, người thầy mà con mãi mãi biết ơn, kính mến? Người thầy khác giống nòi nhưng đã dành rất nhiều sự thân ái và cả những mong đợi, ước mơ cho đứa học trò đã may mắn được thầy chỉ dậy, nâng đỡ nhiều năm tại Nhật bản quê hương của thầy. Nhưng đáng buồn thay, thời thế đã xoay đảo nên những tính toán của đời con (và cả của thầy) đã không cho chúng ta được như ước muốn để rồi kết quả chỉ là những thất vọng không vui!
Con còn nhớ cách đây 20 năm khi thầy và vợ, người vợ toàn vẹn tài đức đã đến Thụy sĩ thăm gia đình con. Vợ chồng con đã dẫn thầy đi thăm các thắng cảnh cuả Thụy Sĩ. Zurich thành phố giầu nhất Thuỵ sĩ, thành phố của ngân hàng, tiền bạc. Genève thành phố, nơi hội họp thế giới quanh năm, rồi đỉnh núi Jungfrau trung tâm Thuỵ Sĩ quanh năm tuyết phủ và cả Davos biệt danh của những cuộc họp kinh tế toàn cầu... Con cũng không quên giới thiệu với thầy những món ăn đặc sản của Thụy Sĩ, Âu châu trong chuyến đi cùng thầy lên thăm đỉnh núi Monte Blanc trắng xóa, nóc nhà cao nhất của Âu châu... Ðâu đâu thầy cũng khen đẹp, hùng vĩ, chụp rất nhiều ảnh lưu niệm. Nhưng thầy có biết không, khi nghe những lời khen của thầy, con có cảm tưởng như những mũi kim nhọn, cấu xé tim con với những nhói đau, buốt lạnh, bởi vì làm sao con quên được ngày còn sống và học ở Nhật bản. Thầy đã nói với con về một ước muốn sau khi giúp con tu học thành tài, rồi khi về nước, quê hương của con, con sẽ dẫn thầy sang thăm VN, quê hương của đứa học trò mà thầy đã gửi gấm qúa nhiều ước mơ và hứa hẹn. Con cũng từng thủ thỉ, hứa hẹn với thầy, con sẽ sống, sẽ làm việc tận tình cho quê hương con như thầy chỉ dậy, con sẽ đón thầy, dẩn thầy đi thăm quê hương đẹp đẽ của con. Nhưng thầy ơi, tất cả bây giờ chỉ còn là aỏ vọng, ước mơ không bao giờ thành sự thật! Cuộc đời, thời gian tuổi tác và ước mơ của thầy trò chúng ta ngày nay đã lỡ điệu, đã tách xa nhau và có lẽ sẽ không còn dịp may như thầy trò chúng ta ước muốn nữa. Còn con, với thân phận của một kẻ kiếm sống tha phương, thời gian qua đi, hoàn cảnh gia đình…. Tất cả đã cho con hiểu được rằng trở về quê hương, sống và làm việc chỉ là chuyện không bao giờ có thật!
Những dự định, những ước muốn của thầy trò chúng ta khi con tu học thành tài về nước làm việc, con sẽ đón thầy, dẫn thầy đi thăm cái bát ngát, trái ngọt, cây lành... của đồng ruộng miền Nam với hai nhánh sông Cửu Long vĩ đại quanh năm đục ngầu phù sa mầu mỡ. Con sẽ đi với thầy ra miền Trung, ngắm nhìn bờ biển xanh ngắt, với những dốc đá cheo leo của dẫy Trường sơn chạy theo suốt chiều dài Việt Nam. Rồi miền Bắc, Hà Nội một thành phố nhỏ bé nhưng dễ thương với đầy di tích văn hoá ngàn xưa oai hùng Đại Việt. Đây Thăng Long thành với những dấu tích lịch sử sáng chói ngàn năm với những lần quân thù giẫy chết, chạy dài. Vịnh Hạ long dáng đẹp thiên nhiên với hàng ngàn đảo nhỏ nhấp nhô giữa trời biển, một chốn thiên đàng trong mộng mị. Dĩ nhiên con cũng sẽ chỉ cho thầy xem aỉ Nam Quan nặc mùi tử khí,nơi đó, thủa xa xưa Nguyễn Trãi người anh hùng đất Việt đã: ''Quỳ lạy cha, lên đường ảm đạm, rời Nam Quan theo gió con bay về... ''. Ông đã giã biệt người cha bị giặc Bắc phương bắt, rồi ông trở về theo anh hùng Lê Lợi mà viết lên bản văn đầy hùng khí "Bình Ngô Ðại Cáo". Âm thanh oai hùng đó còn lưu truyền muôn thủa.
Cũng cái ải Nam quan oai hùng, thấm máu kẻ xâm lăng đó Thoát Hoan danh tướng nhà Nguyên đã phải chui vào ống đồng thoát chạy về phương Bắc mà bên tai vẫn còn vang vọng mấy câu thơ của vua tôi nhà Trần:
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã (Xã tắc hai phen bon ngựa đá)Sơn hà thiên cổ điện kim âu (Non sông thiên cổ vững âu vàng)Trần Trọng Kim dịch
Cũng vậy Vương Thông tên thái thú nhà Minh đã phải chở xác Liễu Thăng, Lương Minh, trốn chạy về Tầu giận mình đã quên lời nguyền cuả anh hùng họ Lý xa xưa:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư (đất Nam của người Nam ở)Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (sách trời đã viết như vậy rồi)Nhưng đành thôi thầy ạ, tất cả là ước mơ trong mong muốn... thực tế đã rõ ràng, con có được về quê hương con đâu mà nói những ước mơ đó thầy nhỉ ?Những lá thư thầy viết cho con hàng năm, nhìn nét chữ quen thuộc của thầy, con cảm nhận được sự già nua của thầy. Cũng như qua những cuộc đìện thoại, nghe giọng nói con biết tuổi già cuả thầy đang chồng chất. Nhưng biết làm sao hơn, đó là lẽ tuần hoàn cũa tạo hóa, thời gian. Ðiều quan trọng là thầy vẫn khoẻ mạnh dù với cái tuổi 84, con mừng lắm. Với cái tuổi đó thầy đã có được biết bao nhiêu tự hào của một người đã có quá nhiều trọn vẹn trong đời. Trọn vẹn với chính cá nhân, trọn vẹn với nước non dân tộc của thầy. Thầy xứng đáng để tự hào lắm, tự hào với chính mình, tự hào với quê hương tổ quốc hào hùng cuả thầy nữa.
Còn con làm gì hơn được với một nỗi buồn khó nói khi nhìn về thân phận, tài năng của chính mình, con thấy rất rõ mình đã có quá nhiều sự yếu kém, bất tài. Tuy nhiên với quê hương, con nguyện sẽ không bao giờ, mãi mãi cho đến khi buông tay về với đất đá, con sẽ không và mãi mãi không bao giờ là kẻ phản lại đất nước, dân tộc mình đúng như những lời thầy khuyên dậy con. Đúng như vậy, đến bây giờ con chưa có một hành động nào gọi là phản quốc, hại dân nhưng thành thật mà nói con cũng chỉ là một kẻ vô dụng, vẫn còn trốn một món nợ nần với đất nước, dân tộc mình. Thật buồn nhưng làm gì đây khi khả năng của con quá giới hạn và thấp kém của một người bình thường, rất bình thường trong nhân gian ?!
Thuỵ Sĩ, tái biên tháng 2 năm 2025Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn Viết thêm: Năm 2017 vào mùa hè, tôi được vị thầy phó (Nishimoto Junichi) báo tin là thầy Ohta bị ung thư phổi và đang nằm bệnh viện. Vợ chồng chúng tôi lấy vé máy bay về Nhật bản thăm gia đình bên ngoại và con gái nhân tiện thăm thầy luôn. Thầy rất yếu nhưng rất mừng khi thấy chúng tôi, ông nhấn chuông gọi cô y tá, bắt phải lấy máy hút đàm cho ông để ông có thể nói chuyện với chúng tôi. Tôi còn nhớ mãi,lần đó ông nắm lấy tay vợ chồng tôi, đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn vợ tôi và nói:
-Eiko, con phải thương yêu thằng Ruẩn nhe, nó là người rất tốt đó!
Vợ chồng tôi nghe và nhìn ông thở hổn hển vì mệt. Quá cảm động, chúng tôi xiết bàn tay ông mà chảy nước mắt. Sau lần gặp mặt cuối cùng đó, chúng tôi trở về lại Thuỵ sĩ được mấy ngày thì nhận dược điện tín của người con trai báo tin cho biết ông đã ra đi! Thật buồn và chúng tôi nhớ ông mãi mãi! …