Tôi đã từng nhìn thấy đức Phật A Di Đà. Đừng có nói đùa. Thật mà chính mắt tôi thấy Ngài đi thanh thản ung dung, tôi đi theo phía sau lưng quan sát, vòng qua góc phố, qua mấy con đường như là người lắng tay nghe bao nguyện vọng thầm lặng của con người. Và rồi, Ngài nhẹ nhàng rẽ vào viện dưỡng lão – trẻ mồ côi. Sau khi phát quà thăm hỏi những người bất hạnh Ngài liền tặng cho viện một số tiền to. Vật chất ngày nay kẻ ăn không hết người lần không ra. Ở những nơi như viện dưỡng lão, trẻ mồ côi bao nhiêu con người đang cần đến bàn tay nhân ái trợ giúp. Do đó Vị Giám đốc mừng rỡ hỏi tên tuổi của Ngài để ghi vào sổ tri ân cảm tạ, nhưng ngài nhẹ nhàng lắc đầu ra về như một kẻ vô danh...
I
Mùa xuân hạnh phúc chia đều cho mọi người giàu nghèo ai cũng vui nên tháng giêng ngày mùng một có vía Phật Di Lặc. Ông Phật Mập bụng bự đưa rốn ra ngoài, miệng cười te tét hoan hỷ. Gần cuối năm tháng mười một theo thông lệ người ngồi tính sổ đời vui buồn trong năm ai thành công ai thất bại buồn cho thân phận. Tháng này ngày 17 lại có vía Phật A Di Đà. Đạo Phật như là chọn đúng thời điểm để đưa hình ảnh hai vị Phật ra làm biểu tượng gởi cho nhân gian.
Từ lâu tôi hình dung một hình ảnh vui vui. Một người trèo lên cái thang đến nấc cuối cùng… Người ấy tiếp tục bay lên trời hay còn đi đâu nữa, câu hỏi đặt ra giống như công án thiền và câu trả lời người ấy lại leo xuống. Rõ ràng trèo lên thì phải tuột xuống, chuyện cũng bình thường đâu có gì lạ. Tuy nhiên người nếu nghĩ cho sâu hơn thì thấy nó lạ, nó hiện thực huyền ảo ở chỗ. Lúc bước lên thang đó là bài ca lặng lẽ của riêng người. Khi bước xuống đó lại là bài ca kỳ vĩ chẳng còn dành riêng cho người nào mà trở thành dàn hợp xướng. Từ những kẻ khôn ngoan đến hạng ngu si, thất nghiệp, tật nguyền tất cả cất tiếng hòa theo “Nam Mô A Di Đà Phật”. Đến đây xin thú nhận bấy lâu tôi cảm nhận đức Phật A Di Đà theo nghĩa này. Theo Đại Thừa ngài có vị trị trọng yếu nên tôi cũng hiểu Đại Thừa như vậy tinh thần nhập thế đơn giản hơn là bác học chẻ sợi tóc ra làm tư làm tám giải thích Đại Thừa là cổ xe lớn, cổ xe nhỏ. Mà thế nào là lớn, là nhỏ, xin để chữ nghĩa cho những ai có căn cơ phân tích mổ xẻ. Không nhân duyên tôi tìm đến Phật theo kiểu của mình. Mà tôi tâm cảm gì ở đức Phật A Di Đà.
II.
Trước hết đó là 48 lời nguyện lớn của Ngài. Qua 48 lời nguyền đó là vàng rồng bốn số 9 nên thân của Phật A Di Đà màu vàng, hào quang là ánh sáng vàng thắm tươi tỏa ra bao trùm khắp thế gian. Thêm điều đặc biệt Phật Thích Ca là người chân tình chân thật . Chính Phật là người đầu tiên giới thiệu cho chúng sanh biết đến Phật A Di Đà. Cũng chính Phật. Thay gì có ai hỏi Phật mới thuyết kinh. Riêng với kinh A Di Đà là bộ kinh duy nhất không có ai hỏi Phật tự động nói ra cho hàng đệ tử thấy. Giả dụ như Phật không nói thì cũng chẳng ai biết đến xứ sở nước Cực lạc của Phật A Di Đà, chúng sanh nơi đó không có phiền nảo, chỉ có những niềm vui. Lý do theo tôi Phật thuyết kinh A Di Đà chỉ vì sự huyền diệu của lời đại nguyện “Sau khi ta thành Phật, chỉ cần các vị niệm tới danh hiệu của ta các vị cũng thành Phật ” tất cả mọi chúng sanh có thể hiểu được điều này. Lời nguyện này cũng là một nguyên nhân nữa của phật. Đức Phật có lòng đại từ bi thuyết kinh A Di Đà để cho chúng sanh thấy lòng đại từ bi của chư Phật như thế nào.
III.
Có ba loại từ bi. Một là ái bi tức là yêu mến những người nào gần gũi, thương xót đồng loại thấy người nghèo khổ, bệnh hoạn đưa tay ra cứu giúp. Hai là pháp bi cao hơn do thấy tất cả là do nhân duyên, thương cho những ai không hiểu được điều này. Cao hơn nữa là lòng từ bi bao la bao trùm khắp chốn không phân biệt Đồng Bi tức là Đồng thể Đại Bi của Bồ Tát, chư Phật. Pháp thân, tâm Phật ở cùng khắp nơi. Phật trong tâm mọi chúng sanh, chúng sanh nằm trong tâm Phật. Trở lại 48 lời nguyện . Từ lời nguyện 26 trở xuống Phật A Di Đà cho thấy hình ảnh của nước Cực lạc mà mình chủ quản. Thí dụ như lời nguyện thứ 26 - Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ tát ở trong nước tôi không có thân Kim cương, tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
Lời nguyện thứ 38 – Lúc tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nếu muốn có y phục thơm thho mặc theo đúng pháp theo đúng tâm niệm. Nếu mà còn phải may cắt, giặt nhuộm thì tôi chẳng ở ngôi chánh pháp. Nó đã cho ta thấy nước của đức Phật A Di Đà, chúng sanh nơi đây sống thật là hạnh phúc. Một cảnh giới mọi người bình đẳng chan hòa, vàng ngọc châu báu bao nhiêu thứ quý giá ở xứ sở nầy được chia đều nhau. Chẳng có ưu tiên 1 ưu tiên 2. Cái gì tốt dành cho cán bộ điều gì xấu là của dân để sinh ra lòng oán hận ngấm ngầm. Nhưng để người đi được xứ sở kia ta trở lại từ đầu. Bắt đầu từ lời nguyện thứ nhất của Phật A Di Đà – Lúc tôi thành Phật, người ở nước tôi có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi không ở ngôi chánh giác.
Nguyện thứ 2 – Lúc tôi thành Phật, người trong cỏi nước tôi sau khi mệnh chung còn trở lại sa vào ba đường ác đạo, thời tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
Nguyện thứ 4 – Lúc tôi thành Phật, người trong cỏi nước tôi, thân hình kẻ tốt người xấu không đều nhau, thời tôi chẳng ở ngôi chánh giác.
Rõ ràng nước Cực lạc của Phật A Di Đà, qua lời nguyện thứ nhất cho thấy nó được xây trên nền tảng tình thương rộng mở bao la. Không có chuyện đấu tranh giai cấp cho sanh sự để rồi sự nó sanh xã hội không một ngày bình yên. Đấy là một nước mà người trần gian mơ ước, đổ bao công sức ra đến xây dựng vẫn không được. Rõ ràng Phật A Di Đà đã đi trước thời đại nghĩ ra một mô hình một đất nước do ngài chủ quản với lòng nhân ái từ bi như vậy. Vì vậy tôi lấy làm tiếc. Quý thầy khi giảng kinh A Di Đà thay vì diễn giải cho mọi người thấy, cảm nhận được lòng từ bi bao la rộng mở của phật A Di Đà. Đằng này vì cái nước Cực lạc quá quyến rủ, chỉ cần chuyên tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật là sẽ tới, sẽ được vãng sanh. Lại có thầy khuyên đệ tử mau mau niệm Phật kẻo trễ tràm không kịp, thiên tai bão lụt sắp tận thế đến nơi. Vô tình lời khuyên như trở thành lời hù dọa, người nghe theo chuyên tâm niệm Phật vì nhu cầu của mình vì lòng tham hơn là nghĩ đến nhu cầu xung quanh để phát bồ đề tâm. Những người như vậy cũng ham ghi tên vô nước cực lạc là không đúng tâm nguyện tinh thần nhập thế Phật A Di Đà.
IV.
Nhân loại đi trong ba phần tư nước mắt. Một thi sĩ đã nói thế. Đức Phật A Di Đà xa xưa cũng thấy như vậy, trần gian đang cần đến mình. Do đó lời nguyện thứ 6 – hàng thiên nhơn có thiên nhản thông. Lời nguyện thứ 7, có thiên nhĩ thông. Lời nguyện thứ 8 – Lúc tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn trong nước tôi không có được tha tâm thông, ít nhất là nghe và thọ trì tất cả lời của Phật, thì tôi không ở ngôi chánh giác. (Tha tâm thông tức là nghe thấy tiếng khóc ở trong lòng người. Để người phát ra tiếng hu hu mới nghe không phải là tha tâm thông). Căn cứ qua ba lời nguyện này nên Phật A Di Đà chẳng thể ngồi một chỗ mà nghe hết Phật phải hóa thân đi khắp mọi nơi để cứu độ chúng sanh.
Tôi đã từng nhìn thấy đức Phật A Di Đà. Đừng có nói đùa. Thật mà chính mắt tôi thấy Ngài đi thanh thản ung dung, tôi đi theo phía sau lưng quan sát, vòng qua góc phố, qua mấy con đường như là người lắng tay nghe bao nguyện vọng thầm lặng của con người. Và rồi, Ngài nhẹ nhàng rẽ vào viện dưỡng lão – trẻ mồ côi. Sau khi phát quà thăm hỏi những người bất hạnh Ngài liền tặng cho viện một số tiền to vật chất kẻ ăn không hết người lần không ra. Ở những nơi như viện dưỡng lão, trẻ mồ côi bao nhiêu con người đang cần đến bàn tay nhân ái trợ giúp. Do đó Vị Giám đốc mừng rở hỏi tên tuổi của Ngài để ghi vào sổ tri ân cảm tạ, nhưng ngài nhẹ nhàng lắc đầu ra về như một kẻ vô danh. Sau đó Phật A Di Đà còn xuất hiện ở bên Nhật. Tôi không thấy nhưng đọc qua báo. Một gia đình rơi vào hoàn cảnh khó khăn, con bị bệnh nan y, người vợ lại bị xe đụng nằm liệt giường. Anh chồng âm thầm chịu đựng chẳng biết than thở với ai, báo chí cũng không hay để đưa tin nên chẳng có ai biết để chia sẽ với người bớt khó khăn. Bất ngờ một sáng khi mở cửa nhà anh thấy một gói tiền là người thật thà anh cho là của ai đó đánh rơi nên đem nó gởi cho đồn Công An. Không ngờ sáng ngày hôm sau anh lại phát hiện thêm gói tiền nữa. Lần này anh mới biết gói tiền ấy là của người vô hình muốn giúp đỡ mình. Rõ ràng Phật A Di Đà qua lời nguyện tha tâm thông, thiên nhỉ thông đã nghe khắp nơi những tiếng kêu cứu giúp và ngài đã hóa thân tìm đến họ. Bạn có thể cải trong xã hội cũng có nhiều người có lòng từ tâm theo kiểu như vậy nhưng với tôi, người có tha tâm không ấy chính là đức Phật A Di Đà hóa thân đứng trước mặt mình. Vì trình độ của ta chưa tới nên không nhận ra ấy thôi.
V.
Pháp tu niệm Phật A Di Đà đặt trên căn bản tín, nguyện, hạnh. Tín là tin, vì đây là lời của chính miệng đức Phật nói ra. Mặc dù trước đó Phật có dạy, cho dù ta có nói các người cũng đừng nghe theo Phật dạy ta biết hoài nghi nhưng lòng hoài nghi cũng song song với lòng tin tưởng đấy mới thật sự là lòng tin để chân lý luôn tỏa sáng. Chẳng lẻ ta không tin Phật là một người luôn nói thật. Nguyện là phát nguyện dũng mạnh quyết tâm về cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Nhưng với hạnh không phải chỉ là việc công phu trì niệm. Suốt ngày ngồi lần chuỗi niệm Phật mà quên việc hành. Người hành gì? Có phải 48 lời nguyện hàm chứa lòng từ bi vô cùng lớn lao đó cũng là con đường để đi. Pháp môn mà đức Phật A Di Đà đã vạch ra cho người mỗi khi cất tiếng niệm Nam Mô A Di Đà Phật phải đi cùng với bồ đề tâm (chứ không phải niệm Nam Mô mà bụng lại chứa một bồ dao găm).