Giọng đọc: Gia Hiếu - Lê Tâm Tây phương biết Phật giáo từ hồi đầu
thế kỷ 19. Nhưng hồi đó chỉ mới một số ít học giả và triết gia khám phá ra sức
thu hút của một tư tưởng đến từ phương Đông mà người ta không biết nên gọi là
tôn giáo hay triết lý. Âm thầm, “ im lặng, Phật giáo lan ra xã hội, phát triển
khắp nơi ở châu Âu ”
(1) từ giữa thế kỷ 19 cùng với sự phát triển
của trào lưu tiến hóa mà ngày nay ta gọi là hiện đại. Âm thầm, im lặng như thế
cho đến đầu những năm 60 của thế kỳ 20 thì Phật giáo bỗng được tiếp nhận rộn
ràng trong giới trẻ khi giới này phất lên một phong trào văn hóa phản kháng
(contre-culture) chống lại văn hóa tôn sùng kỹ thuật, vật chất và tiền bạc.
Giới trẻ khao khát một đời sống tâm linh mới giúp họ giải quyết những vấn đề
tâm lý, hiện sinh, và họ nghĩ đã tìm được nơi Phật giáo. Đó là lúc mà nhiều trí
thức trẻ tìm đến Tây Tạng như tìm đến miền đất hứa. Nhanh chóng, trong vòng hai
mươi năm, tu viện và thiền viện mọc lên hàng trăm ngôi trên khắp Âu Mỹ. Giới
trẻ – học thức và trung lưu – gặp một thứ hạnh phúc mới mà họ thực chứng được
bằng kinh nghiệm tu học bản thân trong các thiền đường. Đến những năm 90 thì
báo chí, truyền thông rộ lên cả một cao trào tin tức, bình luận, phóng sự, hình
ảnh đầy cảm tình với Phật giáo. Cùng lúc, Hollywood nồng nhiệt đưa lên màn ảnh
phim truyện về cuộc đời của đức Phật, về ngài Đạt Lai Lạt Ma, về Tây Tạng,
nhiều ngôi sao màn bạc, nghệ sĩ, ca sĩ danh tiếng trở thành Phật tử, khiến dư
luận, quần chúng, càng có cảm tình hơn. Bây giờ thì Phật giáo đã mọc rễ, đã
phát triển trong xã hội, trong đời sống văn hóa ở Âu Mỹ. Phật giáo là môn học
được ưa chuộng trong các trường đại học Mỹ danh tiếng, thu hút sinh viên ngày
càng đông.
Thưa Quý Vị và các bạn thân mến, tôi
rất vinh đự được nói chuyện với Quý Vị trong Tuần Lễ Văn Hóa này, và rất vui
mừng được đặc biệt làm quen với các bậc trí thức và các bạn trẻ. Trong mấy câu
nhập đề sơ lược ở trên, chắc quý vị và các bạn đã để ý : tôi nhấn mạnh đến giới
trẻ và trí thức. Chẳng phải vì tôi thuộc vào thành phần ấy. Mà vì đó là khía
cạnh mà tôi muốn hạn chế trong đề tài của tôi. Âu Mỹ đang mở lòng tiếp nhận một
tư tưởng, một tôn giáo mà họ cho là rất trẻ và rất hiện đại. Hiện đại : đó là
khía cạnh của đề tài rộng lớn mà tôi sẽ nói chuyện với quý vị hôm nay : tại sao
Phật giáo bành trướng được ảnh hưởng trên Âu Mỹ ? Bài nói chuyện của tôi sẽ gồm
4 điểm vây quanh chủ đề hiện đại. Trong điểm thứ nhất, tôi sẽ cắt nghĩa thế nào
là hiện đại. Trong điểm thứ hai, tôi trình bày : Phật giáo thích hợp với hiện
đại như thế nào. Trong điểm thứ ba, tôi sẽ nói : thế nhưng chính hiện đại đang
bị khủng hoảng. Trong điểm thứ tư, tôi trả lời : chính vì hiện đại bị khủng
hoảng mà Phật giáo lại càng thích ứng. Trong suốt bài nói chuyện của tôi, và
nhất là trong phần kết luận, các bạn sẽ nhận ra rằng tôi nói chuyện phương Tây
mà thật ra là tôi nói chuyện Việt Nam. Mở cửa nhìn ra thế giới, chính là để
biết mình là gì và biết mình phải làm gì.
I. Vậy thì, điểm thứ nhất: Thế nào
là hiện đại? Hiện đại là gì?
Từ ngữ này đã trở thành quá phổ
thông, đã bị pha loãng ra trong ngôn ngữ thường ngày, ở ta cũng như ở Âu Mỹ,
cho nên phải trở về lại với lịch sử để tìm bản chất của nó. Thông thường, ta
dùng từ hiện đại để nói cái gì là mới, ngầm ý tán thưởng : mới là hơn cũ, nay
là hơn xưa. Thì cũng đúng thôi ! Nhưng có người sẽ nói trái lại : chắc gì mới
đã hơn cũ, chắc gì nay đã hơn xưa ! Ở thời nào cũng vậy, và ở xã hội nào cũng
vậy, hai khuynh hướng cứ đối chọi nhau : một muốn đi tới, một muốn kéo lui, một
cách tân, một hoài cổ, bên nào cũng muốn biện minh khuynh hướng của mình, và
nếu biện minh có hệ thống thì trở thành ý thức hệ, trở thành chủ nghĩa, “ chủ
nghĩa hiện đại ” chống lại “ chủ nghĩa truyền thống ”. Để tránh cả hai cực
đoan, cực đoan của phe mới cũng như cực đoan của phe cũ, tôi lần theo chiều
lịch sử phân tích đâu là những yếu tố tạo thành cái mà ta gọi là hiện đại.
Yếu tố quan trọng nhất là tự chủ, là
con người tự chủ, con người tự mình làm chủ mình. Làm chủ là thế nào ? Kant đã
cắt nghĩa bằng một câu bất hủ khi được hỏi : “ Khai Sáng là gì ? ” Ông trả lời
: “ Là con người bước ra khỏi tình trạng vị thành niên ”. Trước khi tư tưởng
Khai Sáng bừng nở, con người hãy còn thơ ấu, phải vịn vào tay người lớn mà đi,
bây giờ đi được một mình. Chữ Pháp, chữ Anh làm rõ hơn nghĩa đó. Autonomie có
gốc Hy Lạp là autos (tự mình) và nomos (luật) : con người tự mình cai trị
mình theo luật tự mình làm lấy, chứ không phải luật do người khác làm ra và bắt
mình phải theo. Và luật do mình làm ra dựa trên cái gì ? Dựa trên lý trí, lý
tính mà đã là người thì ai cũng có. “ Hãy có can đảm sử dụng lý tính của chính
mình ! ” : đó là châm ngôn của Khai Sáng và cũng là châm ngôn của con người
hiện đại. Đừng dựa nữa vào bất cứ cái gì ở ngoài con người, nhất là ở trên cao.
Hãy đứng dậy, đừng vịn nữa vào Thượng Đế !
Từ yếu tố quan trọng nhất đó, từ tự
chủ, cả một loạt các yếu tố khác sáng rõ ra, bắt đầu là sự giải phóng của lý
tính phê phán, bởi vì phê phán là chức năng của lý tính. Không có gì được thoát
ra khỏi phê phán, không có đối tượng nào được xem là Tuyệt Đối, là húy kỵ, kể
cả Thượng Đế, kể cả Nhà Thờ. Kant hô to : “ Hãy dám tư tưởng ! ” Không có lĩnh
vực nào là lĩnh vực riêng của bất cứ quyền uy nào : tất cả đều phải bước qua “
tòa án của lý tính ”.
Trước tòa án đó, bị cáo mà tư tưởng
hiện đại nhắm đến trước tiên là lòng tin tôn giáo. Phải giải phóng lý tính ra
khỏi lòng tin. Phải giải phóng Galilée ra khỏi lòng tin nô lệ, tin rằng mặt
trời xoay chung quanh trái đất. Với lý tính, khoa học sẽ phát triển, và khoa
học có khả năng vén những tấm màn bí mật của vũ trụ mà lòng tin cố cản. Khoa
học, tư tưởng khoa học, đó là ánh sáng dẫn đường cho tính hiện đại, giúp con
người tự mình biến đổi thế giới, làm thành thế giới của con người, đập tan mọi
xiềng xích của mê muội. Khoa học sẽ phát triển không ngừng, do đó tiến bộ cũng
đi tới không ngừng, tiến bộ giống như mũi tên bắn ra, chỉ bay thẳng phía trước,
không ngoằn ngoèo, vòng vo.
Với tự chủ của con người trưởng
thành, với lý tính được giải phóng ra khỏi lòng tin, với khoa học vén màn bí
mật, các bạn thấy lịch sử của tư tưởng Âu châu cứ dần dần đi vào chiều hướng
củng cố địa vị của con người, bắt đầu từ thời Phục Hưng (thế kỷ XIV-XVI). Chiều
hướng đó, khuynh hướng đó, cao trào đó, tên của nó là nhân bản chủ nghĩa
(humanisme). Không thể hiểu được tư tưởng Âu châu nếu không thấy cái hướng đi
đó của chủ nghĩa nhân bản, và cũng không thể hiểu được hiện đại là gì nếu trước
hết không hiểu sự giằng co, có khi âm thầm, có khi dữ dội, giữa Thiên chúa giáo
và nhân bản chủ nghĩa (2). Cố gắng, cố gắng không ngừng để phát triển, phát
triển không ngừng tất cả những khả năng của con người để đừng làm mất đi bất cứ
cái gì làm con người lớn lên, làm con người vinh thăng. Lớn lên bằng cách nào
trong lịch sử Âu châu ? Bằng cách làm bớt đi, làm nhỏ dần Thượng Đế. Cho đến
thế kỷ 19 thì Nietzsche loan báo : “ Thượng Đế chết rồi ! Chúng ta đã giết ! ”
Sự thực là Thượng Dế vẫn còn đấy
thôi, nhưng thay hình đổi dạng, không còn là Thượng Đế nhân dạng nữa. Mà cũng
chẳng còn thống trị nữa trong tư tưởng, trong đời sống xã hội, trong luật pháp,
trong chính trị, trong sinh hoạt thường ngày của người Âu châu. Thế kỷ 20 không
còn đặt vấn đề giết Thượng Đế nữa, bởi vì người ta sống ngoài vòng cương tỏa
của Thượng Đế, chẳng cần biết Thượng Đế là ai, có hay không, và chính thái độ dửng
dưng đó làm các người bênh vực Thượng Đế bực mình còn hơn là thái độ chống đối
Thượng Đế. Xã hội ngày nay ở châu Âu đi vào tình trạng mà các nhà xã hội học
gọi là thế tục hóa. Thế tục hóa : đó cũng là một trong những yếu tố đặc trưng
của hiện đại. Trên quá trình hiện đại hóa đó thì Tây phương gặp đạo Phật.
II. Đạo Phật hiện đại như thế nào
trước mắt Tây phương?
Con người Tây phương khám phá ra
rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương
đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương
phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra
cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là
vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày
phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói : không có ai phán xét ta
cả, chỉ có con người phán xét con người thôi. Tây phương trăn trở về những vấn
đề siêu hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên : khi anh bị mũi tên độc bắn vào
thân thì anh phải rút nó ra ngay hay anh ca vọng cổ hỏi mũi tên do ai bắn, lý
lịch thế nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi tên ra : đó là nhu cầu giải phóng con
người ở Tây phương và họ thấy nơi Phật giáo một đáp số hợp với lý tính, đặt
nặng trên kinh nghiệm, trên thực hành, và kiểm chứng được bằng kết quả bản
thân, ở ngay đời này, chứ không phải đợi đến khi lên thiên đường, xuống địa
ngục.
Hợp với lý tính : người Tây phương
ngưỡng mộ nét đặc biệt đó của Phật giáo, làm Phật giáo khác với các tôn giáo
khác. Phật giáo từ chối lòng tin nếu không đặt cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy,
trong Phật giáo không có tín điều. Tây phương ngưỡng mộ kinh Kâlâma khi Phật
dạy : Đừng vội tin một điều gì dù điều đó được ghi trong kinh điển hay sách vở.
Hãy quan sát, suy tư, thể nghiệm, thực chứng rồi mới tin. Tinh thần đó xuyên
suốt kinh kệ Phật giáo. Người trí thức Tây phương thấy tinh thần đó hợp với
khoa học, hợp với đầu óc phê phán. “ Phật giáo là tôn giáo duy nhất thích ứng
với khoa học hiện đại ”, Einstein đã phát biểu như vậy.
Tại sao Phật giáo hợp với khoa học?
Tại vì Phật giáo không nói điều gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói : sự
vật là vô thường. Hãy nhìn chung quanh với mắt của mình, kinh nghiệm của mình :
có cái gì là thường còn đâu? Cái thường còn duy nhất là khoảnh khắc này đây.
Vậy thì tìm thiên đường ở đâu nếu không phải nơi chính cái khoảnh khắc này ?
Hạnh phúc nằm ngay nơi mỗi khoảnh khắc : đó là bài học hiện đại quý giá nhất mà
Phật giáo đem đến cho người Tây phương. Và hãy nhìn thêm nữa : mọi sự mọi vật đều
tương quan lẫn nhau mà có và tương quan lẫn nhau mà diệt. Màu hồng nơi đóa hoa
kia có phải tự nó mà có không? Đâu phải ! Nếu không có mặt trời thì nó đâu có
hồng thắm như vậy? Nhưng mặt trời có phải là tác giả duy nhất của màu hồng kia
không? Không! Vì nếu không có mưa thì làm sao hoa sống? Nhưng mưa có cũng là do
mây, mây có cũng là do hơi nước. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì
cái kia cũng không. Đó là luật vô ngã của Phật giáo và cũng là luật tương quan
tương sinh. Ai đọc sách của nhà vũ trụ vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết :
những luật đó có nhiều điểm hội tụ với khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng được
luật đó vào đời sống bản thân, đời sống gia đình, đời sống xã hội, cam đoan
không cần tìm thiên đường ở đâu xa. Đó là chưa kể đến luật nhân quả mà ai cũng
có thể dễ kiểm chứng. Từ đó, người Tây phương đi đến một cái nhìn hiện đại hơn
nữa vào bản chất của cuộc đời để hiểu chữ “ khổ ” trong Phật giáo. Họ chất vấn
Thượng Đế : Nếu Thượng Đế là toàn năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất,
triều cường, dịch này dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy ?
Nếu Ngài là nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu
? Phải chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc đời
như muối nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh dễ thấy
nhất ? Từ đó, Tây phương hiểu chữ “ niết bàn ” của Phật giáo đúng hơn hồi thế
kỷ 19 : niết bàn là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản thân tôi, mỗi khi tôi
nghe ai cầu cho người chết được siêu thoát, tôi không khỏi cười thầm, bởi vì “
siêu ” là vượt lên, “ thoát ” là giải thoát, vượt lên trên tham sân si thì giải
thoát, vậy thì nên cầu cho cả người sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa
đâu, người Tây phương hiểu điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của
chính họ: nhân bản nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ
khả năng để vượt lên trên chính mình.
Nhưng vượt lên như thế nào, cụ thể
bằng cách nào? Đây là cái mới mà Phật giáo đem đến cho Tây phương và đem đến
trong tinh thần khoa học. Trong lịch sử, Tây phương đã vượt quá ta hằng mấy thế
kỷ nhờ khám phá thế giới bên ngoài. Nhưng đến một lúc họ bỗng giật mình thấy
rằng khám phá thế giới bên ngoài không đủ để đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi
vì con người còn có đời sống ở bên trong. Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ : “ Những
vấn đề của chúng ta, dù đến từ bên ngoài, như chiến tranh, như bạo lực, như tội
ác, hay đến từ bên trong dưới hình thức khổ đau về tâm lý hay tình cảm, đều sẽ
không tìm ra giải pháp chừng nào chúng ta còn không hiểu chiều sâu nội tâm của
ta ” (3). Đó là lúc mà ngài và các vị sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang
theo một ánh sáng khoa học mới rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một
cuộc cách mạng thứ hai mà người Tây phương gọi là “ cách mạng ở bên trong ”, bổ
túc cho “ cách mạng ở bên ngoài ” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa
học. Chìa khóa của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá
nhân. Mà muốn nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong bằng
những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do chính kinh
nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm đến làm ăn bịp bợm :
khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc thám hiểm vào não bộ của con
người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính bản thân để các máy móc tối tân trong
các đại học danh tiếng nhất của Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định trên não
bộ. Họ không phải chỉ đem lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật, phương
pháp cụ thể để các nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của thiền
định, góp phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh. Tôi xin thú
thực : bản thân tôi có tính đa nghi, khi đọc lịch sử đức Phật, tôi không hiểu
làm sao Phật có thể ngồi thiền định dưới bóng cây bồ đề trong suốt 49 ngày. Bây
giờ thì tôi hiểu : mỗi người chúng ta đều có một sức dự trữ tâm linh mà ta
không ngờ bởi vì chưa bao giờ sử dụng. Tôi sẽ trở lui lại điểm này – cuộc hành
trình của ta tìm ta để chữa bệnh cho chính ta và chữa bệnh cho thời đại.
Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và
khoa học, có phải sức quyến rũ của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật
giáo mà thôi hay không ? Tôi không nói đến chiều sâu của triết lý Phật giáo ở
đây, cũng không nói đến tính minh triết mà Tây phương đang tìm lại. Tôi chỉ hạn
chế trong một vấn đề nữa thôi : đạo đức. Đạo đức học ở Tây phương là những răn
cấm, những mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có ngón tay
chỉ vào trán và ra lệnh : mày không được thế này, mày không được thế kia, mày
làm là phạm tội. Phạm tội với ai ? Tại sao như thế là phạm tội ? Tại sao tội đó
phải nhờ một người khác giải tội với Trên Cao ? Đạo đức đó, con người hiện đại
chối bỏ vì họ cảm thấy như vậy là hãy còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo
trái hẳn, bắt nguồn từ con người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo
nói : tham thì khổ, sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì
vui, xả thì vui. Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào
sẽ thấy khổ. Đừng giết hại, đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng say
rượu : đó là năm điều tôi tự nguyện với tôi, làm được đến đâu chính tôi nhẹ
nhàng đến đó. Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục đích làm cho con
người tốt hơn đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm thanh thản, bởi vì thanh
thản chính là hạnh phúc.
Hơn thế nữa, đạo đức Phật giáo còn
thức tỉnh con người hiện đại ở Tây phương ở chỗ nới rộng lòng từ bi và ý thức
liên đới ra khắp chung quanh, không những giữa người với người, mà còn giữa
người với thú vật, với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo cổ truyền của
họ, Tây phương đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi cố gắng để chinh phục, cai
trị thiên nhiên. Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ sông, lấp núi : cái gì con
người cũng làm được, thiên nhiên đã bị nhân hóa. Nhưng thiên nhiên cũng đã bị
khai thác, bóc lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu, mưa hóa chất, nước nhiễm độc,
chúng ta biết rõ hơn ai hết. Và rốt cục, con người ăn trong miếng ăn những chất
độc do chính con người thải ra. Đạo đức đối với thiên nhiên trở thành trách
nhiệm của chính con người. Các tôn giáo khác nói : không được giết người. Phật
giao nói : tôi nguyện không sát sinh, nghĩa là không giết sự sống, và sự sống
đó, thú vật đều có, cây cối thiên nhiên đều có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều
có, tất cả đều liên đới với con người, phải yêu thương nhau như một thì mới
sống còn với nhau.
Tôi vừa động đến một vấn đề hiện đại
có tính tiêu cực : vấn đề môi trường. Bởi vì hiện đại không phải cái gì cũng
hay. Hiện đại cũng có lắm tiêu cực. Hiện đại cũng đang gặp khủng hoảng. Bởi
vậy, sau khi tán thưởng hiện đại và giải thích Phật giáo hiện đại như thế nào,
tôi bắt qua điểm thứ ba, trình bày những khủng hoảng của hiện đại.
III. Khủng hoảng của hiện đại
Khủng hoảng quan trọng nhất của hiện
đại là khái niệm về Tiến Bộ. Hồi thế kỷ 19, với sự phát triển thần kỳ của khoa
học, ai cũng lạc quan về tương lai. Cha đẻ của môn xã hội học, Auguste Comte,
xây dựng cả một hệ thống lý thuyết cắt nghĩa rằng lịch sử của nhân loại là lịch
sử của tiến bộ, tiến bộ của đầu óc con người từ giai đoạn thần linh qua giai
đoạn siêu hình để cuối cùng đến giai đoạn khoa học. Đó là một sự tiến bộ không
ngừng và giai đoạn sau tốt đẹp cho con người hơn giai đoạn trước về phúc lợi,
vật chất cũng như tinh thần. Lạc quan đó, Tây phương đã thấy đổ vỡ phũ phàng
với chiến tranh thế giới thứ hai. Một nước văn minh như nước Đức trở thành một
nước dã man, phi nhân, trong học thuyết cũng như trong hành động. Nước Đức quốc
xã đưa ra hình ảnh ghê rợn của một phá sản tinh thần, khi phá sản đó xảy ra
trong chính niềm tin vào “ tiến bộ đạo đức ” mà người ta chờ đợi ở hiện đại.
Rồi bom nguyên tử, rồi Hiroshima, rồi chiến tranh lạnh, rồi leo thang vũ khí
tận diệt nhân loại, đâu là Tiến Bộ, đâu là đạo đức của khoa học ? “ Khoa học mà
không có lương tâm là đổ nát của linh hồn ”, câu nói ấy trở thành thời sự trước
mắt. Khoa học là mục đích nhưng lương tâm phải là người bạn đồng hành. Nói là
nói thế, nhưng trên thực tế người bạn đồng hành của khoa học lại là chiến
tranh, buôn bán vũ khí, chiến tranh làm phát triển khoa học, khoa học phục vụ
chiến tranh.
Khái niệm “ tiến bộ ” cũng được cảnh
báo cả khi khoa học làm đúng nhiệm vụ của khoa học là tìm tòi, nghiên cứu, phát
minh, vén màn bí mật của vũ trụ và đời sống. Không có gì quý hóa cho con người
hơn là những phát minh càng ngày càng nhiều trong y khoa. Khám phá về tế bào
gốc chẳng hạn là một trong những phúc lợi lớn mà nhân loại chờ đợi. Nhưng lương
tâm có cho phép ta tạo ra đồng loạt vô số những người y chang giống nhau trong
tương lai ? Chẳng lẽ khoa học cũng bắt chước Tôn Hành Giả nhổ một sợi lông,
thổi một cái, để biến ra thành cả trăm con khỉ giống hệt nhau, chẳng biết con
nào là khỉ gốc họ Tôn ? Hiện đại đang gặp phải vấn đề của “ đạo đức sinh học ”,
mà đạo đức sinh học không thể không liên quan đến cái nhìn của tôn giáo.
Cuối cùng, khái niệm “ tiến bộ ” còn
được đặt lại khi tiến bộ vật chất đưa đến xã hội tiêu thụ trong đó con người bị
tha hóa, nghĩa là mất địa vị chủ. Đây là mê lộ trong đó con người Âu Mỹ nhởn
nhơ sa vào. Muốn phồn thịnh kinh tế, phải sản xuất. Muốn sản xuất, phải có tiêu
thụ. Muốn có tiêu thụ, phải kích thích nhu cầu, không có nhu cầu cũng phải kích
lên cho có. Nhu cầu này được thỏa mãn, phải kích lên nhu cầu khác, nhu cầu phải
luôn luôn mới để đáp ứng sản xuất phải mới luôn luôn. Hiện đại đòi hỏi những
con người có lý tính. Đâu còn là lý tính nữa trước cuộc chạy đua không ngừng
đuổi theo nhu cầu giả tạo, đuổi theo tiêu thụ phù du ? Con người trở thành nô
lệ của quảng cáo, và quảng cáo, tuyên truyền, có đủ mánh lới để tước bỏ phê
phán ra khỏi đầu óc người nghe. Lúc nhỏ, ở lớp 11, 12, tôi học câu thơ của
Nguyễn Công Trứ : “ Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc ”. Biết đủ thì đủ,
tìm đủ thì biết đến bao giờ mới thấy đủ ! Ấy là câu thơ dí cái chìa khóa vào
tay ta để mở cửa thoát ra khỏi mê lộ tiêu thụ. Nhưng cái tài của quảng cáo là
mê hoặc, đưa con người tiêu thụ vào siêu thị mà làm người ta tưởng vào chốn đào
nguyên !
Tha hóa : con người hiện đại thoát
ra khỏi tha hóa đối với Trên Cao thì lại rơi vào tha hóa ở dưới đất. Tha hóa
trước sản phẩm, hàng hóa. Tha hóa trước thị trường. Bởi vì cái gì bây giờ cũng
trở thành thị trường, cái gì cũng bị thị trường khai thác, kể cả lĩnh vực tâm
linh. Phật giáo cũng bị thôi, và bị chính vì sự thành công của mình. Tôi chỉ
lấy một ví dụ thôi : cái nhãn hiệu “Nirvana” trên một sản phẩm sắc đẹp của quý
bà. Thoa kem ấy vào, lập tức thấy cực lạc ! Cực lạc bỗng trở thành nạn nhân của
tha hóa. Tôi nhấn mạnh điểm này để giải thích cho các bạn về sự biến đổi của
lòng tin ở Tây phương. Đúng là người Âu châu có vấn đề với Thượng Đế. Đúng là
nhà thờ vắng tín đồ. Đúng là linh mục khan hiếm, phải cầu viện đến tận các linh
mục Phi châu. Đúng là người Âu châu không đi tìm nữa trong tôn giáo truyền
thống của họ câu giải đáp lớn cho những khắc khoải của tâm linh, mà đi tìm
những phương thuốc tức thì trên hạ giới này, trên đời sống này, ở đây và bây
giờ, here and now. Đúng như quy luật của thị trường, ở đâu có cầu thì ở đấy có
cung. Hàng loạt tín ngưỡng lang băm, chính tà lẫn lộn, xuất hiện trên thị
trường tâm linh, tranh nhau giành khách. Và khách ở đây là những người có đời
sống vật chất đầy đủ, nhưng bơ vơ, cô đơn, mất tập thể, mất phương hướng, mất ý
nghĩa sống. Ngày trước, con người Âu châu cũng yếu đuối trước Thượng Đế, nhưng
họ có cái gì để tin, họ có cái chắc chắn. Bây giờ họ cũng yếu đuối, nhưng không
có cái gì để tin nữa, họ mất chân đứng, họ mất quân bình, họ mất chiều cao lẫn
chiều ngang, họ lung lay. Và vì họ lung lay, họ tưởng cần phải củng cố cái “
tôi ” của họ, cái “ tôi ” mà một chủ nghĩa cá nhân quá đà đã đề cao lên thượng
đỉnh. Các bạn hiểu tại sao ngành phân tâm học phát triển như thế ở Âu Mỹ, tại
sao các bác sĩ phân tâm học đông khách nhà giàu và trí thức : họ đi tìm cái “
tôi ” của họ ! Nhưng cái “ tôi ” của họ trốn ở đâu ? Một số người đi tìm trong
cùng tận thâm sâu bí ẩn của ý thức dưới ánh đèn pin của ông Freud. Một số, nông
cạn hơn, nghĩ rằng cái “ tôi ” của mình là cái thân này đây, phải làm cho nó
mạnh, khỏe, đẹp, và nhất là trẻ mãi, để “ cực lạc ” mãi. Tất nhiên họ biết :
cung cấp món ăn cho cái thân thì cũng phải cung cấp món ăn cho cái tâm, vì tâm
không yên thì thân cũng khó khỏe. Nhưng họ ăn gì trên mâm cơm tinh thần của họ
? Ăn lẩu. Nghĩa là hổ lốn. Chút tôm, chút mực, chút thịt gà. Chút Chúa chút
Phật. Bác ái lộn xà ngầu với từ bi. Lấy một chút chỗ này, một chút chỗ kia, cái
gì mà cá nhân mỗi người thấy hoặc tưởng thích hợp cho riêng mình thì gắp bỏ
chung vào cái lẩu nước xúp tâm linh. Người Pháp gọi cách thực hành tân thời này
là “ bricolage ” - lắp ghép thủ công.
Trong chiều hướng đó, ngồi thiền
phát triển khắp nơi tại Âu Mỹ. Tất nhiên là hay. Nhưng trong cái hay đó, coi
chừng cái dở. Cái dở là thị trường tâm linh đánh đúng vào tâm lý con người thời
đại, quảng cáo ngồi thiền như một kỹ thuật để gìn giữ sức khỏe và chỉ như một
kỹ thuật mà thôi. Như một kỹ thuật, quảng cáo biến ngồi thiền thành một thứ kem
xức mặt, xức vào thì da mặt mát ra, nhìn vào gương thấy cái “ tôi ” của mình
như gái một con trông mòn con mắt. Chắc các bạn biết thần thoại Hy Lạp về anh
chàng Narcisse. Anh chàng mê mình đến độ ngất ngây soi bóng mình trên mặt nước,
soi gần, thật gần, môi chạm môi, và anh chàng lộn cổ xuống ao. Con người hiện
đại ở Tây phương cũng mê cái “ tôi ” của mình như thế, ve vuốt nó, hôn nó,
tưởng nó có thật trong một dòng sông ảo. Nhà sư danh tiếng Tây Tạng Chögyam
Trungpa gọi đùa khuynh hướng đó là “ chủ nghĩa duy vật tâm linh ” (“ spiritual
materialism ”). Nhưng đó đích thực là một vấn đề, một thách thức đối với hiện
tại và tương lai của Phật giáo tại Âu Mỹ. Bởi vì ngồi thiền không phải chỉ là
một kỹ thuật, lại càng không phải để phục vụ cho cái “ tôi ”. Ngồi thiền, chính
là để thấy cái “ tôi ” là không có. Và như vậy là tôi bắt qua điểm thứ tư :
Phật giáo trong thời hiện đại bị khủng hoảng.
IV. Phật giáo và khủng hoảng của
hiện đại
Nhiều tác giả gọi thời đại này là “
hậu hiện đại ”. Tôi không đồng ý với khái niệm này nên chỉ đề cập ở đây hiện
tượng khủng hoảng thôi. Và tôi cũng chỉ xin hạn chế vấn đề vào một khủng hoảng
thôi là khủng hoảng của cái “ tôi ”.
Trước hết, tôi không phủ nhận phúc
lợi của việc ngồi thiền, dù cho ngồi thiền chỉ để tăng cường sức khỏe. Ai đã
ngồi thiền và ngồi thiền đúng kỹ thuật rồi đều nói : không phải chỉ sức khỏe
được tăng cường, tâm hồn cũng được thư thái. Bản thân tôi không phải chỉ chứng
nghiệm một lần mà cả ngàn lần : chỉ cần biết nén giận trong một giây thôi, đừng
cho nó nổ ra, đã là khóa được cái cửa của địa ngục. Huống hồ ngồi thiền không
phải chỉ trong một giây ! Bởi vậy, người Tây phương biết đưa việc ngồi thiền
vào nhiều lĩnh vực : bệnh viện, nhà tù, trường học, công sở, xí nghiệp… Họ làm
có phương pháp, bài bản, làm việc gì cũng phải làm cho đến nơi đến chốn.
Nhưng thiền không phải chỉ là thế.
Thiền là tự biết mình, và tự biết mình là để quên mình. Quên mình là để nhập
làm một với tất cả những gì hiện hữu. Đó là câu định nghĩa của Đạo Nguyên mà
các thiền viện ở Âu Mỹ áp dụng như kinh nhật tụng. Thế nào là tự biết mình ?
Tôi không muốn đưa các bạn vào lý thuyết xa xôi. Chỉ nói một hành động nhỏ
nhặt, cụ thể, của một người Âu Mỹ khi lần đầu tiên bước vào thiền đường. Cử chỉ
đầu tiên là cởi giày. Cởi giày, xếp ngay ngắn. Bước nhẹ vào thiền đường. nghe
một mùi hương thoảng, gặp một im lặng thẳm sâu, đi trên một sàn gỗ sạch không
một hạt bụi, thấy một không gian không chướng ngại mở rộng ra trước mắt. “ Cởi
giày ”: đó là bài kinh đầu tiên của họ. Cởi vướng mắc ra, giải thoát cho hai
bàn chân, hai bàn chân quý lắm, bao nhiêu nút thần kinh nằm ở trong đó, hai bàn
chân quý lắm, nhờ nó mà mình đứng vững được, hai bàn chân quý lắm, hãy biết quý
hai bàn chân như chưa bao giờ mình biết quý nó trước đây, hãy nghe hai bàn chân
đang hạnh phúc khi gặp hơi mát của sàn gỗ, nó và cái sàn gỗ đang tan thành một,
người bước vào phòng đang biến thành một với gian phòng trống, với im lặng mênh
mông. Bàn chân quên nó. Người bước vào phòng quên mình, để cái “ tôi ” ngoài
cửa, như để đôi dép.
Từ khi sinh ra, ta đã muốn chỉ huy
cả thế giới, sai khiến mọi người chung quanh. Đói, khóc ầm lên, mẹ phải đưa
ngay bầu sữa. Thèm hơi ấm, mếu máo để được người bồng. Muốn cái gì phải có ngay
cái nấy, không thì la hét. Ta là trung tâm của vũ trụ, tất cả mọi người đều
phải chiều ta. Lớn lên, ta cũng vậy thôi, 99% của cuộc đời ta được xài phí để
lái thiên hạ, bắt thiên hạ phải thỏa mãn ý muốn của ta. Thậm chí, cái mà ta gọi
là “ tình yêu ” suy cho cùng cũng chỉ là nhu cầu cần có một quan hệ gần gũi để
ta cảm thấy sung sướng. Có lẽ ở đâu cũng vậy, nhưng trong văn hóa của cá nhân
chủ nghĩa Âu Mỹ, nghĩ đến ta được xem là chuyện bình thường, tất nhiên. Ai lái
người khác giỏi để phục vụ mình tốt, người ấy được xem là thành công. Thiền là
trái ngược lại. Không nhắm tích tụ. Không nhắm chinh phục. Càng nhiều cái “ có
” càng ít cái “ là ”, cái tinh túy, cái bản chất, cái đem lại hạnh phúc. Và tôi
“ là ” gì, chính là ở phút này đây. Ở phút này đây, tôi còn sống, còn thở, còn
nói, còn có các bạn để nghe, còn có nắng đẹp ngoài kia, gió mát đang thổi, hạnh
phúc vô biên, hạnh phúc được sống với cái khoảnh khắc này, được làm một với các
bạn, được làm một với tất cả, được làm một với tờ giấy trước mắt tôi. Thiền
không phải là ngồi yên. Thiền là không đi ăn mày nữa, không ngửa tay xin xu hào
nơi người khác, nơi bên ngoài, bởi vì thiền là biết rằng cả một kho tàng châu
báu nằm ở trong ta, hãy nhìn vào để thấy, và để chiêm nghiệm rằng ta càng trống
đi cái “ tôi ” thì kho tàng ấy càng đầy.
Các thiền viện Âu Mỹ biết nhắm đến
cái mục đích ấy. Kho báu trong tôi càng đầy, khả năng nhập thành một với mọi
vật chung quanh càng nhạy bén, và khi ấy, tôi khổ với cái khổ của bạn, tôi vui
với cái vui của bạn, tôi không còn nữa, bạn cũng không còn nữa, chỉ còn cái khổ
chung, cái vui chung. Định nghĩa của chữ “ từ bi ” là như vậy, và ngồi thiền
chính là để mở rộng lòng từ bi. Tôi đã là một với tất cả, làm sao tôi không
thương tất cả, từ thiên nhiên đến loài vật, từ người gần đến người xa ?
Tôi biết : đó là lý thuyết rất cao
mà không phải ai cũng đạt được hoặc hiểu được. Nhưng, tôi xin quả quyết : cứ
bước dần đi mỗi bước rồi sẽ thấy : quên mình nhiều nhiều hơn một chút, nghĩ đến
người khác nhiều nhiều hơn một chút, ấy là con đường đi đến hạnh phúc. Và xin
các bạn hãy biết điều này : các người Âu Mỹ ngồi trong thiền đường phần đông là
trí thức hoặc thuộc thành phần cao trong xã hội, đã nắm khá vững lý thuyết Phật
giáo và có lòng hướng đến một cái gì cao hơn đời sống vật chất, vị kỷ. Tôi nói
điều này là để nghĩ đến tương lai của Phật giáo ở Âu Mỹ. Phật giáo hạn chế ở
tầng lớp trí thức hay mở rộng ra cho đại chúng ?
Tôi không có thì giờ để đi sâu vào
câu hỏi này. Chỉ xin nói rằng : bộ não của con người gồm hai phần : khả năng
lô-gích, trừu tượng, phân tích, tương ứng với não bộ phía trái ; khả năng nhận
ra sự giống nhau giữa những cái khác nhau, trực giác, tổng hợp, tương ứng với
não bộ phía phải (4). Tác giả Frédéric Lenoir cho rằng văn minh Tây phương chú
trọng tác động trên vũ trụ, tương ứng với việc đặt ưu tiên trên não bộ phía
phải. Phật giáo đến Tây phương đã đóng vai trò tích cực trong việc làm quân
bình hai vùng trong não bộ con người Tây phương. Trong cái ý đó, câu nói nổi
tiếng của nhà sử học Arnold Toynbee đã thành dễ hiểu : “ Sự gặp gỡ giữa Phật
giáo và Tây phương là biến cố có ý nghĩa nhất của thế kỷ 20 ”.
Tôi cũng nhân cái ý đó để nói thêm
rằng Phật giáo chính là sự quân bình và trước hết là quân bình giữa trí tuệ và
lòng tin. Không có trí tuệ thì không hiểu được đức Phật. Nhưng không có lòng
tin thì cánh cửa cuối cùng của trí tuệ vẫn không mở ra. Trí tuệ cũng như hoa
mai. Lòng tin cũng như hơi ấm đầu tiên của mùa xuân. Chạm vào một điểm của hơi
ấm đó thôi, hoa nở bung. “ Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa ” là vậy. Chỉ một làn
gió xuân thoảng qua thôi, chốn chốn hoa mai bừng nở. Thiền là cây cầu bắt qua
giữa trí tuệ và lòng tin. Đó là pháp môn – cánh cửa đạo – mở ra cho các bậc
thượng thủ. Nhưng không phải ai cũng là thượng thủ cả, cho nên Phật giáo nói có
đến “ bốn vạn tám ngàn pháp môn ” thích hợp với căn cơ của mỗi người. Ai giàu
trí tuệ, như giới trí thức ở Âu Mỹ, đi vào Phật giáo bằng cửa thiền. Ai giàu
lòng tin… Đây chính là tương lai của Phật giáo tại Tây phương. Bởi vì Phật giáo
muốn lan tỏa ở đây phải biết rằng không phải ai cũng là trí thức. Vậy thì, có
một nhánh Phật giáo nào ở Âu Mỹ có khả năng lan tỏa ra đại chúng chăng ? Có. Đó
là Phật giáo Tây Tạng mà ngài Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh sống động. Phật giáo
bám rễ được ở Tây phương là nhờ ngài và cả một loạt những nhà sư Tây Tạng xuất
chúng qua giáo hóa tại đấy. Chỉ mỗi một việc xuất hiện của các vị đó thôi đã
làm dấy động được lòng tin nơi quần chúng. Phật giáo Tây Tạng đáp ứng được
những khắc khoải về tâm linh của quần chúng hơn là thiền tông đến từ các thiền
sư Nhật Bản. Nhưng dù là thiền tông hay Phật giáo Tây Tạng, trí tuệ và lòng tin
phải cùng bay với nhau như hai cánh của con đại bàng.
Các bạn đồng nghiệp trí thức và sinh
viên thân mến, chính vì hai cánh của con đại bàng mà tôi chọn đề tài này để nói
chuyện với các bạn hôm nay. Tôi đâu có nói chuyện bên Tây. Tôi nói chuyện bên
ta ! Chúng ta đã lãng quên trí tuệ của thiền tông Yên Tử. Chẳng lẽ đạo Phật trí
tuệ đã bay cả rồi qua bên Tây ? Chẳng lẽ Tây phương thừa hưởng hết tinh túy của
Phật giáo ? May thay, chúng ta rất giàu lòng tin, nhưng buồn thay, lắm khi, lắm
nơi, đó là tin nhảm, đó là mê tín, đó không phải là đạo Phật. Không, nhất quyết
ta không để gãy chiếc cánh trí tuệ của con đại bàng Lý Trần. Nhất quyết ta củng
cố lòng tin chân chính. Đó là nhiệm vụ của Tuần Lễ Văn Hóa hôm nay. Các bạn trí
thức Nghệ An thân mến, hãy chắp lại hai cánh của con đại bàng lịch sử. Hãy bay
với hai cánh vào hiện đại.
Cao
Huy Thuần
Chú thích :
- Câu nói của Nietzsche, trích trong Frédéric Lenoir, Le
bouddhisme en France trang 9.
- Fernand Braudel : Grammaire des civilisations,
Arthaud-Flammarion, 1987, trang 371.
- Dẫn trong Frédéric Lenoir, La rencontre du bouddhisme
et de l’Occident, Albin Michel, 2001, trang 318.
- Frédéric Lenoir, như trên, trang 353.