Kinh Vô Lượng Thọ ghi “liền đặng sinh về chỗ Vô Lượng Thọ” có nghĩa là chẳng có cách trở về mặt thời gian. Hễ vừa ra khỏi hoa sen thì ngay lập tức diện kiến đức Phật A Di Đà, nghe Ngài nói pháp, chẳng cần phải mất chút thời khắc nào. Ở cõi Cực Lạc là vậy, cõi này chẳng khác. Bởi do đời trước “trí tuệ người đó không được sáng suốt, hiểu kinh lại ít” nên nay tuy được nghe lời giáo huấn của Phật, nhưng do tâm cấu nhiễm chưa tiêu trừ, tình chấp, kiến chấp vẫn còn, nên chẳng thật sự tin hiểu được lời dạy sâu xa của Phật. Bởi thế, chúng ta cần phải đa văn huân tập, tăng trưởng trí huệ, thì mới có thể thâm nhập tạng pháp của Như Lai. Do được nghe Phật pháp và lãnh hội được ý chỉ của Phật mà được tâm khai, lý giải, nên kinh nói: “Lắng nghe kinh pháp, dần dần cũng sẽ khai giải vui vẻ.” Hiện nay, chúng ta học kinh Vô Lượng Thọ cũng chẳng khác chi nghe Phật A Di Đà đang nói pháp nhiệm mầu nơi cõi Tây Phương. Thế nhưng, do tâm cấu nhiễm chưa trừ, tình chấp, kiến chấp vẫn còn, nên chúng ta cần phải đa văn huân tập để tăng trưởng trí huệ, khi chúng ta hiểu rõ lời dạy của Phật rồi thì dần dần rồi cũng được tâm khai, lý giải và vui vẻ. Vì thế, cổ nhân mới bảo: “Đọc một quyển sách ngàn lần sẽ tự thấy được ý nghĩa.”
Lão hòa thượng Tịnh Không lại nói: “Thử hỏi, quý vị đã đọc kinh Vô Lượng Thọ được ngàn lượt hay chưa? Không có thì quý vị cứ từ từ đọc đi, nhất định đọc nhiều, nghe nhiều tuyệt đối chẳng bỏ lỡ cơ hội.” Thật vậy, chúng ta muốn học tập, chỉ có một cách là huân tu thời gian lâu dài, mới có thể chế ngự được phiền não, mới có thể mở mang trí huệ, đâu có lý nào chỉ nghe một lần thì sẽ khai ngộ. Đấy cũng chính là ý chỉ mà Phật dạy trong kinh này: “Lắng nghe kinh pháp, dần dần cũng sẽ khai giải vui vẻ.” Hiện tại, chúng ta không thể đạt đến cảnh giới khai ngộ là do từ hai nguyên nhân chánh: Nguyên nhân thứ nhất là nghe Kinh quá ít, nguyên nhân thứ hai là phiền não tập khí từ vô thỉ kiếp cho đến nay quá nặng. Do nghe kinh nhiều sẽ giúp chúng ta hóa giải được phiền não, tập khí từ vô thỉ kiếp, nên đức Phật mới dạy: “Lắng nghe kinh pháp, dần dần cũng sẽ khai giải vui vẻ.” Khi nào chúng ta hóa giải phiền não tập khí thì mới đạt được cảnh giới khai ngộ. Nếu nghe kinh mà chưa thể hóa giải phiền não tập khí thì ít nhất nó cũng có thể chế ngự được phiền não tập khí, không để cho nó dễ dàng khởi hiện hành. Đó là sự ích lợi của việc nghe kinh. Cho nên nghe Kinh là việc rất quan trọng.
Hòa thượng Tịnh Không bảo, một ngày nghe Kinh hai tiếng chỉ đủ để nhắc nhở, vẫn còn hai mươi hai tiếng đồng hồ vọng tưởng, mê hoặc điên đảo nổi dậy. Mỗi ngày chúng ta nghe Kinh tám tiếng đồng hồ, niệm Phật tám tiếng đồng hồ thì cái cơ hội nổi dậy vọng tưởng có lẽ sẽ ít hơn. Ngày nay chúng ta tu hành không có công phu đắc lực là vì nghe Kinh quá ít. Ngài khuyên chúng ta một ngày nghe đi, nghe lại chỉ một băng giảng, không nên nghe nhiều băng. Nghe một lần không hiểu, nghe lần thứ hai hiểu được một chút, nghe lần thứ ba càng hiểu được sâu thêm, càng nghe nhiều lần thì càng thêm thông suốt. Xưa nay, chư cổ Đại Đức cầu học đều phải dùng phương pháp này! Chúng ta học Phật cũng chẳng thể ngoại lệ. Mỗi ngày nghe đi nghe lại nhiều lần, miệt mài không ngừng, lúc đó tâm mình sẽ định, trong tâm mình sẽ chế ngự được vọng tưởng tạp niệm, đừng cho tâm mình có thì giờ để nổi dậy vọng tưởng bằng cách nghe kinh, niệm kinh. Huân tu như vậy trong một thời gian lâu dài thì chúng ta dần dần sẽ chứng được thiền định. Đấy cũng chính là lời Phật khuyên trong kinh: “Lắng nghe kinh pháp, dần dần cũng sẽ khai giải vui vẻ.” Tâm được “khai giải vui vẻ” chính là chứng được thiền định.
Chứng được thiền định không phải do ngồi xếp bằng, mặt quay vào vách, loại thiền định này công phu rất cao, phàm phu chúng ta khó mà thành tựu. Mỗi ngày chúng ta đều nghe kinh, tư duy nghĩa lý trong Kinh thì mỗi ngày sẽ bớt khởi tâm động niệm khi đối diện với vạn sự, vạn vật trong thế gian. Cho đến khi thời tiết nhân duyên thành thục thì hoảng nhiên đại ngộ; do vậy nên kinh mới nói: “Lắng nghe kinh pháp, dần dần cũng sẽ khai giải vui vẻ.”
Do nguyên nhân gì mà chúng ta không thể chuyển đổi cảnh giới hiện tiền? Là vì chúng ta chưa thông suốt kinh tạng của Phật. Tuy rằng chúng ta đọc nhiều, nghe nhiều lần một quyển kinh, nhưng chúng ta chưa thật sự thấu triệt. Cái mà chúng ta nghe chỉ là bề ngoài, chỉ là lớp mặt ngoài da, chứ thật ra vẫn chưa khế nhập Phật trí, nên không làm chủ được chính mình trong cảnh giới hiện tiền, phiền não tập khí vẫn cứ tiếp tục khởi hiện hành như củ. Đọc kinh, nghe giảng kinh và quán văn tự trong kinh sẽ giúp chúng ta nhìn thấu, hiểu rõ chân tướng của sự thật. Chân tướng sự thật đó là gì? Như trong Kinh Kim Cang nói, vạn pháp vốn chỉ là mộng huyễn bào ảnh, vốn là không. Đó chính là chân tướng của sự thật!
Lão sư phụ Tịnh Không lại bảo: “Chân tướng của sự thật là tất cả chúng sanh đều là chư Phật Như Lai.” Chúng ta cũng đã từng nghe qua các ý này rất nhiều lần trong các kinh điển Đại Thừa, nhưng thật sự vẫn chưa hiểu rõ, nên vẫn chưa thể thâm nhập Phật trí. Do vậy chúng ta vẫn còn phải tiếp tục đọc tụng và nghe kinh nhiều hơn nữa để dần dần hiểu rõ thêm. Khi nào chúng ta thật sự thông suốt chân thật nghĩa của Như Lai rồi thì hoảng nhiên đại ngộ. Vì sao có chuyện này? Vì trong việc đọc tụng và nghe kinh vốn có đầy đủ các pháp tu Giới, Định, Huệ. Chỉ khi nào chúng ta chân thật hiểu rõ, thật sự nhìn thấu, thì mới có thể triệt để buông bỏ. Buông bỏ cái gì? Buông bỏ thành kiến, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của mình. Khi nào chúng ta buông bỏ được hết sạch những thứ này rồi thì thân tâm mình mới được thanh tịnh, rỗng lặng, nhẹ nhàng. Đấy chính là chứng được thiền định, trong định này có cả huệ. Định-huệ đều cân bằng, chớ chẳng phải là cái định của Tiểu Thừa, thì mới gọi là đại ngộ. Vì Thế Nhị Tổ Thiện Đạo Đại Sư mới bảo: “Đọc kinh và niệm Phật mỗi ngày không gián đoạn là duyên giúp một phàm phu có thể vãng sanh Thượng phẩm.”
Trong tất cả các phiền não, chướng ngại lớn nhất là ái dục. Do chúng ta không thể buông bỏ ái dục và sở thích, nên tâm mình thường hay khởi động những phiền não. Ái dục và sở thích chính là “tự tư tự lợi” và cũng là nguyên nhân vì sao mình khởi tâm động niệm. Khi nào chúng ta nhổ sạch được cái gốc “tự tư tự lợi” rồi, thì khi ấy chúng ta mới được cứu. Nếu cái gốc “tự tư tự lợi” không được nhổ đi thì công phu tu hành của chúng ta sẽ không có lực? Gặp người khác gặp nạn không cứu giúp vì sợ liên lụy đến mình chính là “tự tư tự lợi.” Người nhổ được cái gốc “tự tư tự lợi” thì sẽ vô cùng tự tại, họ có thể làm hết thảy mọi việc thế gian mà tâm vẫn an trụ trong định-huệ cân bằng; đấy mới thật sự là người đại tiệt đại ngộ. Lão hòa Thượng Tịnh Không dạy, then chốt của thành tựu trong tất cả pháp là hiếu học. Hiếu học chính là cảm! Năng cảm hết tất cả Phật, Bồ tát và thiện hữu trí thức đến giúp đỡ mình, thì đó chính là năng ứng. Chúng ta học tập phải từ ngay chỗ này mà bắt tay vào. Sau khi gặp Phật A Di Đà rồi thì chúng ta sẽ có đầy đủ các thần thông, đi dạo khắp các cõi Phật để cúng dường chư Phật và tùy ý tu tập các pháp công đức đúng như bổn nguyện của Phật Di Ðà, nên kinh bảo là: “Cũng đặng cúng dường khắp vô lượng Phật, tu các công đức.”
Trong kinh, đức Thích Ca Mâu Ni Phật kêu tên Ngài A Dật Ða là để cảnh tỉnh đại chúng chuyên tâm lắng nghe lời răn dạy của Phật: “Này A Dật Đa, đều nên biết rằng, những sự nghi hoặc là đại tổn hại, làm mất lợi lớn, bởi thế phải nên rõ tin Trí Huệ Vô Thượng của Phật.” Muốn rõ tin Trí Huệ Vô Thượng của Phật Vô Lượng Thọ thì không thể không thọ trì, đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ; đấy là điều tất nhiên không cần phải giải thích! Nếu có thể vì người diễn nói kinh này thì sự rõ biết trí huệ của Phật lại càng mau chóng tăng thượng. Vì sao? Vì người ấy có đầy đủ ba thứ lực: tư lực, tha lực và công đức lực.
Có nhiều Bồ tát còn chưa nghe được kinh Vô Lượng Thọ, nên đối với pháp môn Tịnh độ vẫn còn nghi ngờ mà bị thoái chuyển quả vị Vô Thượng Bồ Đề. Đối với vấn nạn này, Bồ tát còn có nghi hoặc, huống gì là phàm phu Đại Thừa và phàm tình chúng sanh. Bồ tát còn có nghi hoặc đối Phật trí trong kinh Vô Lượng Thọ còn bị mất điều lợi lớn, thì phàm phu chúng ta lại càng phải tin rành rẽ vào Phật trí, thấu rõ kinh Vô Lượng Thọ một cách sâu xa, để không bị mất lợi lớn. Tin rõ Phật trí cũng chính là nhận biết một cách rõ ràng minh bạch, phương tiện cứu độ và sự gia bị của Phật A Di Đà đối với chúng sanh nói chung và riêng mình. Do thông suốt Phật trí cho đến Thắng Trí của Như Lai, không còn tưởng lầm nữa, nên việc thấy Phật đến thọ ký cho mình là điều tất nhiên, chẳng nên nghi ngờ nữa. Lại nữa nếu hành nhân đã gặp A Di Đà Phật đích thân đến thọ ký vãng sanh rồi, thì lúc lâm chung, tự tại vãng sanh Cực Lạc chỉ là điều tất nhiên; giống như chiếc thuyền nan thuận theo cơn gió mát trong lành, vượt qua hết thảy tất cả núi cao, biển lớn, trắc trở xa xăm, đưa mình đến chỗ mình muốn đến mà không cần phải tốn hao công sức; đó chính là điều lợi lớn nhất.
Vì sao thấy Phật là điều lợi lớn nhất? Bởi vì sau khi thấy Phật, vãng sanh Cực Lạc rồi thì liền chứng Bất Thoái Chuyển cho đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề. Chúng ta tuy là phàm phu đầy dẫy nghiệp chướng, phiền não và vọng niệm, nhưng nếu có thể chân thật phát khởi Bồ Ðề tâm thì chính là “Sơ Phát Tâm Bồ tát.” Tâm Bồ Ðề vô thượng chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh chính là tâm nhiếp thủ chúng sanh về cõi có Phật. Ngài Thiên Thai bảo: Bồ tát thuộc Tín vị trong Biệt giáo, giống như những sợi tơ trên không trung lờ lững vô định. Vì thế, “Sơ Phát Tâm Bồ tát” thật sự vẫn còn có nhiều nguy cơ bị thoái đọa. Đây cũng đã nêu rõ là: Dẫu thật sự là Bồ tát, nhưng nếu sanh lòng nghi hoặc pháp môn niệm Phật của Di Đà Phật, vẫn bị mất lợi lớn, huống gì là phàm phu chúng ta. Do đó, phàm phu chúng ta muốn dứt tuyệt các nghi thì không thể không thọ trì kinh Vô Lượng Thọ.
Đức Thế Tôn trụ trong chân thật huệ để khai hóa, hiển thị Chân Thật Tế, cũng chỉ là vì muốn cứu vớt quần manh, ban cho họ cái lợi chân thật, khó gặp, khó thấy như hoa Ưu Ðàm hy hữu xuất hiện. Nay đấng khó gặp đã được gặp, điều khó nghe cũng đã được nghe mà chúng ta chẳng chịu tin nhận, thì thật là bội bạc ơn Phật, nên kinh bảo là “làm mất lợi lớn,” tức là chẳng nhận được“cái lợi chân thật” mà Phật ban bố cho chúng sanh. Hơn nữa, pháp môn Tịnh Ðộ, Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, tín nguyện trì danh, chứng ngay lên bất thoái đây chính là điều chân thật nhất trong những điều chân thật, là điều lợi lớn lao nhất trong những điều lợi lớn lao. Người chẳng tin và chẳng nhận lãnh pháp môn này thì vĩnh viễn đánh mất cái lợi lớn ấy.
Kinh Thiên Thủ dạy: “Nếu đối với đà-ra-ni này mà sanh nghi chẳng tin, thì nên biết rằng người ấy vĩnh viễn đánh mất cái lợi lớn. Trong trăm ngàn muôn kiếp luân hồi trong nẻo ác, chẳng có lúc ra, thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, chẳng gặp Tăng.” Câu kinh này đã chỉ rõ người nghi hoặc, chẳng chịu nhiếp giữ thọ trì kinh này sẽ làm mất lợi lớn. Kinh Thập Vãng Sanh cũng nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân chánh tín kinh này, yêu mến kinh này, quán sát, dẫn dắt chúng sanh thì kẻ nói, người nghe đều được vãng sanh cõi Phật A Di Ðà. Nếu có những người như vậy thì từ hôm nay, ta thường sai hai mươi lăm vị Bồ tát hộ trì những người ấy, thường khiến cho họ vô bịnh, vô não, dù là người hay phi nhân, chẳng có dịp khuấy nhiễu họ. Ði, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận là ngày hay đêm thường được an ổn.” Các kinh đã nêu rõ điều tai hại nếu không tin nhận kinh Vô Lượng Thọ này, và điều đại lợi nếu tin nhận kinh giáo này. Ðiều nào nên bỏ, điều nào nên thuận theo, chúng ta phải tự mình khéo léo suy nghĩ kỹ càng lời khuyên dạy chân thật của Phật!
Tiếp đó, kinh nói đến cái tai hại lớn của việc nghi báng kinh Tịnh độ. Kinh Thập Vãng Sanh dạy: “Sau này trong Diêm Phù Ðề có tỳ kheo hoặc là tỳ kheo ni thấy có người đọc tụng kinh này mà nếu sanh lòng giận dữ, đem lòng phỉ báng thì do báng chánh pháp, ngay nơi thân hiện đời của người ấy sẽ phát ra các bệnh nặng nề, thân căn chẳng đầy đủ, điếc, mù, câm, ngọng, thủy thũng, quỉ mỵ, nằm ngồi chẳng yên, muốn sống chẳng được, cầu chết không xong. Hoặc đến khi chết đọa vào địa ngục, trong tám vạn kiếp chịu đại khổ não. Trăm ngàn vạn đời, chưa từng nghe danh từ cơm, nước. Mãi lâu sau mới được thoát ra, sanh làm trâu, ngựa, lợn, dê, bị người giết hại, chịu đại cực khổ. Sau đấy mới được làm thân người, thường sanh vào nhà hèn hạ, trăm ngàn vạn đời chẳng được tự tại, trọn chẳng được nghe danh tự Tam Bảo. Vì thế đối với những kẻ vô tín, vô trí, chớ thuyết kinh này.”
Phật đã nói rõ “nghi hay tin” tuy chỉ thuộc trong một niệm của đương cơ, nhưng chúng tạo thành “họa hay phước” khác nhau một trời, một vực trong bao kiếp vô tận. Bởi thế, Phật mới dạy: “Phải nên rõ tin Trí Huệ Vô Thượng của Phật,” tức là phải tin ưa, thọ trì, đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ, vì sao? Bởi vì kinh này chính là Trí Huệ Vô Thượng của Phật A Di Đà. Đầu mối quan hệ trong vòng sống chết của chúng ta, duy có hai thức: Tâm lực và Nghiệp lực. Tâm lực là tâm niệm có nhiều mối, khi lâm chúng ta sẽ đi theo mối nào nặng nhất. Nghiệp lực ví như chủ nợ mạnh lôi kéo mình. Nghiệp lực tuy lớn, nhưng tâm lực lại càng lớn hơn. Bởi vì nghiệp không có tự tánh, hoàn toàn nương nơi tâm, nên khi tâm chú trọng vào việc gì thì làm cho nghiệp của việc đó tăng thêm lớn mạnh. Thí dụ: Nếu chúng ta dùng trọng tâm này mà tu Tịnh độ thì Tịnh Nghiệp sẽ trở thành mạnh mẽ hơn hết vượt qua tất cả các nghiệp khác, khi lâm chung quyết định sanh về Tây Phương Cực Lạc. Cũng ví như cây to tường cao, nghiêng về phía Tây, một ngày nào đó nó cũng sẽ phải đổ về hướng Tây.
Thế nào là trọng tâm? Chúng ta tu Tịnh độ, hai điều trọng tâm là: tin sâu và nguyện thiết. Do tâm mình tin sâu, nguyện thiết nên tất cả tà thuyết không thể lay động, tất cả cảnh duyên bên ngoài không thể lay động và lôi kéo mình. Lòng tin sâu, chí nguyện tha thiết ấy gọi là trọng tâm. Dùng trọng tâm này mà niệm Phật thì tịnh nghiệp sẽ mạnh lên và dần dần thành thục. Khi nghiệp thanh tịnh Cực Lạc thành thục, thì tất nhiên duyên nhiễm Sa bà phải dừng dứt. Như thế, lúc lâm chung dù muốn thấy cảnh luân hồi, nó cũng chẳng thể hiện ra được; dù không muốn thấy cảnh Tịnh độ và đức Phật Di Đà mà cảnh ấy vẫn bày ra rõ ràng trước mắt. Vì vậy, lúc bình thời chúng ta phải rèn luyện cho thành thục tín, nguyện sâu thiết ấy thì khi lâm chung mới khỏi lạc vào nẻo khác.
Như chư cổ đức lúc sắp mạng chung, các chư Thiên ở sáu cõi trời trổi nhạc, cầm tràng phan, lần lược, nối tiếp nhau đến tiếp rước. Vậy mà các Ngài vẫn nhất quyết chối từ, chỉ một lòng, một dạ chờ Phật A Di Đà hiện đến mới chịu đi. Chúng ta thấy, lâm chung là cảnh tứ đại phân tán, đau đớn vô cùng, chư Thiên đến rước là cảnh tốt đẹp tuyệt vời! Thế mà các cảnh trời tốt đẹp ấy vẫn chẳng thay đổi tâm ý của chư cổ đức; đấy mới thực sự là tin sâu, nguyện thiết. Nếu bình thời chúng ta không siêng gắng rèn luyện tín, nguyện cho được mười phần vững chắc, thì khi lâm chung gặp phải cảnh trời đẹp tuyệt vời hiện ra, làm sao có thể tự chủ được chứ! Vì thế, Thập Nhị Tổ, Tế Tỉnh Đại Sư căn dặn rằng: “Giả sử khi ta đang niệm Phật, bỗng tổ Đạt Ma hiện ra bảo, phải bỏ Tịnh tu Thiền có thể liền giác ngộ, thì cũng từ tạ không dám tuân lời. Hay dù đức Thích Ca hiện thân bảo, có pháp môn khác hơn Tịnh độ, dạy ta phải bỏ niệm Phật để tu môn kia, ta cũng đảnh lễ mà từ khước. Giữ vững như vậy mới gọi là lòng tin sâu sắc. Lại nữa, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay vần trên đầu, ta cũng không vì sự khổ ấy mà thối thất chí vãng sanh. Lại như có cảnh dục lạc mầu nhiệm nhất của Chuyển luân vương hiện đến, ta cũng không vì sự vui sướng đó mà tạm quên niệm cầu về Cực Lạc. Dù chúng ta gặp những cảnh duyên nghịch hay thuận cùng cực như thế, mà vẫn không đổi lòng, mới gọi là chí nguyện tha thiết!