Từ khi Lục tổ Huệ Năng Ðại sư đắc Pháp từ Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng Mai cho đến lúc đắc Giới tại Ðông Sơn là khoảng thời gian dài mười lăm năm ẩn tu trong đám thợ săn. Một hôm Lục Tổ suy nghĩ đã đến lúc nên ra hoằng pháp, không nên ẩn lánh mãi được, liền đi đến chùa Pháp Tánh tại Quảng Châu, gặp lúc pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết bàn. Lúc bấy giờ, gió thổi lay động lá phướn. Một vị tăng bảo là gió động, một vị tăng khác bảo là phướn động, cứ thế mà tranh luận nhau mãi. Huệ Năng thấy vậy, bèn bước đến bảo: “Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà chính tâm hai nhân giả động đó!” Đại chúng nghe vậy đều vô cùng ngạc nhiên, đến nỗi Pháp sư phải ngừng giảng, mời Huệ Năng lên chiếu gạn hỏi áo nghĩa Phật pháp. Ấn Tông nghe Huệ Năng giảng xong, hoan hỷ chắp tay thưa: “Tôi giảng kinh ví như ngói gạch, nhân giả luận nghĩa ví như vàng ròng.” Sau đó Pháp sư cạo tóc cho Tổ Huệ Năng và tôn xưng Ngài làm Thầy.
Gió động, phướn động câu nào đúng? Nếu có phướn mà không có gió thì phướn động được không? Trái lại có gió nhưng không có phướn thì có thấy động không? Cũng không thấy! Chúng ta thấy phướn động là do có cả hai gió và phướn; đó gọi là tướng duyên hợp. Nếu không có duyên hợp của gió và phướn thì cũng không có cái tướng phướn động. Vì thế, nếu chúng ta chấp một bên thì không đúng với lý cứu cánh. Do mỗi người chỉ nhìn một khía cạnh của nguyên nhân nên thấy khía cạnh ấy là đúng. Nếu đã cho chỉ có khía cạnh ấy là đúng thì sẽ thấy khía cạnh khác là sai, mà chẳng biết tất cả pháp trên thế gian này đều là tùy duyên, vì tùy duyên nên có động tác, có hình tướng v.v... Vì động tác và hình tướng đều là tướng của duyên, mà đã là tướng của duyên thì tất nhiên là không thật. Người này nhìn pháp như thế này là do thấy khía cạnh này của pháp, người kia nhìn pháp như thế kia là do thấy khía cạnh kia của pháp. Cả hai đều không có cái nhìn toàn diện hết thảy các khía cạnh của pháp, nên cái thấy biết có khác nhau. Nếu nhìn toàn diện thì các pháp không cố định, tự tánh là không, duyên khởi là lý thật của các pháp. Chúng ta thấy rõ trong câu chuyện này, do chấp một bên mà có sự tranh cãi. Để chấm dứt cuộc tranh cãi, Lục Tổ bảo: “Tâm nhân giả động đó!” Tại sao Tổ nói vậy? Vì họ chấp một bên, dấy lên một niệm chấp chính là tâm động! Ở đây, Lục Tổ chỉ nói chỗ rốt ráo, chỉ thẳng cái gốc của sự tranh cãi là do tâm chấp. Dấy lên niệm chấp chính là tâm động!
Trong kinh Hoa Nghiêm, Lục Địa Bồ-tát quán sát vô minh thấy rằng: “Hễ có vô minh thì có tạo nghiệp, đó gọi là hành. Vô minh là động. Minh là không động.” Hành mang ý nghĩa động. Cảnh giới bên ngoài động mà tâm chẳng động thì gọi là minh. Nói cho đầy đủ, minh là Minh Tâm Kiến Tánh hay Giác Tâm Bất Động. Tất cả tông phái trong Phật giáo đều coi trọng thiền định vì thiền định là pháp tu tâm bất động, tách lìa thiền định sẽ chẳng có Phật pháp, đủ thấy thiền định vô cùng trọng yếu! Trong pháp môn Niệm Phật, chúng ta niệm niệm câu Phật hiệu đến mức công phu thành phiến, Sự Nhất tâm Bất loạn cho đến Lý Nhất tâm Bất loạn, đều là công phu thiền định. Công phu và cảnh giới giữa Thiền, Mật, Tịnh v.v… đều hoàn toàn giống nhau, đều là để được Giác Tâm Bất Động.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, A Di Đà Phật dạy: “Thường hành sáu độ, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ.” Tỳ-kheo Pháp Tạng, tức tiền thân của Phật A Di Đà, từ lúc phát tâm tu hành cho đến kết thúc, đều từ một pháp Lục độ Ba-la-mật mà thành tựu Giác Tâm Bất Động. Vậy, Giác Tâm Bất Động chính là kết quả của pháp tu Lục Độ Ba-la-mật. Cho nên, Tỳ-kheo Pháp Tạng lúc còn tu Bồ-tát đạo đã phát ra lời thệ nguyện: “Nguyện con đắc tiếng Phật thanh tịnh. Pháp âm vang khắp vô biên cõi. Rộng truyền cửa Giới, Ðịnh, Tinh Tấn. Thông đạt thâm sâu pháp nhiệm mầu.” Tỳ-kheo Pháp Tạng nguyện sau khi thành Phật, Ngài sẽ đem pháp Lục độ Ba-la-mật giáo hóa và an lập chúng sanh an trụ trong đạo chân chánh vô thượng. Đấy đã chỉ rõ, tu niệm Phật chính là tu Lục độ Ba-la-mật để thành tựu định huệ, cũng tức là thành tựu Giác Tâm Bất Động. Tu pháp Lục độ Ba-la-mật phải bắt đầu từ trì giới. Bố thí và nhẫn nhục thuộc về trì giới. Vì sao chúng ta phải bắt đầu tu Lục độ từ trì giới? Vì nhân giới sanh định, nhân định khai huệ! Đó là đường lối nhất định mà tất cả những người học Phật trong bất cứ Tông phái nào, địa vị nào, cũng đều phải trải qua trong giai đoạn tu hành từ phàm phu phá mê cho đến khi kiến tánh thành Phật. Nếu chúng ta không trải qua con đường này, chắc chắn chẳng thể khôi phục bản tánh mà thành Phật.
Chúng ta trì năm giới, mười giới, Bồ-tát giới, Tỳ-kheo giới v.v…, thì cũng giống như là trèo lên cái thang của nhà lầu sáu tầng. Nếu muốn lên tầng thứ năm, thứ sáu, nhất định phải bắt đầu từ tầng thứ nhất là trì giới. Nếu chúng ta không rõ đạo lý này, thì chẳng có cách chi đạt được định huệ, kiến tánh thành Phật. Pháp môn Niệm Phật cũng không ngoại lệ, nếu người niệm Phật chẳng chịu buông xả, chẳng thể nhẫn nhục, tức là không trì giới, thì dù mỗi ngày niệm đến mấy chục vạn câu Phật hiệu cũng uổng công, vẫn không thể đạt được định, nên cũng chẳng thể sanh huệ. Thật ra, buông xả và nhẫn nhục là một chuyện, chẳng phải là hai chuyện khác nhau. Nếu một người đã thật sự buông xả hết thảy vạn duyên, thì đâu còn có gì để nhẫn nữa. Ngược lại, nếu người đã đắc nhẫn trong mọi chuyện, chẳng còn chấp trước một điều nào cả, thì đó cũng chính là buông xả được tất cả. Tịnh Nghiệp Tam Phước trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã nêu lên điều đầu tiên của việc tu giới là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng.” Nếu có người muốn gạt bỏ hiếu thân tôn sư để trì giới, thì có khác gì gạt bỏ tầng lầu thứ nhất mà muốn leo lên tầng lầu thứ năm, thứ sáu, thì làm sao có thể trèo lên được! Người đời thường nói: “Tiên học lễ, hậu học văn.” Phổ Hiền hạnh nguyện thứ nhất cũng dạy “Lễ kính chư Phật”. Từ xưa đến nay, tất cả những người thành tựu trong thế gian lẫn xuất thế gian pháp đều phải có Sư thừa. Vì sao Sư thừa là bậc thang giới luật thứ nhất? Vì giáo giới có nghĩa là răn dạy. Thầy dạy dỗ học trò thì gọi là giới. Học trò tuân thủ lời thầy dạy, y theo lời giáo huấn của thầy mà học tập thì gọi là giữ giới. Thời nay, có người tự cho mình là bậc trí thức, muốn phế bỏ tiêu chỉ giáo dục căn bản “tiên học lễ, hậu học văn,” thì đấy chính là phá giới! Nói hơi khó nghe một tí, là hủy hoại nền móng giáo dục căn bản, khiến cho những chương trình giáo dục khác cũng theo đó mà không thể thành tựu.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật bảo: “Ta thương các ông, khổ tâm khuyên dạy, trao cho kinh pháp, thảy đều thọ trì, quán chiếu, phụng hành. Trai gái sang hèn, bà con bạn bè, thay nhau dạy bảo, cùng nhau kiểm thảo, nghĩa lý thuận hòa, vui vẻ hiếu hiền.” Phật là thầy dạy, lời giáo huấn pháp của Phật là giới, học trò tuân tu theo lời thầy dạy là giữ giới. Bất luận người tiếp nhận và phụng hành kinh giáo của Phật là tại gia hay xuất gia, là nam hay nữ, già hay trẻ, sang hay hèn v.v… đều có thể mang thân phận thầy nếu người ấy hiểu biết Phật pháp và có khả năng dùng Phật pháp để giảng dạy người khác. Chúng ta hãy xem trong kinh Hoa Nghiêm thì biết rõ, Thiện Tài Đồng Tử đối xử với năm mươi ba vị thiện tri thức như thế nào? Ngài tôn xưng họ là thầy dạy. Trong năm mươi ba vị thiện tri thức chỉ có sáu vị xuất gia, ngoài ra đều là Cư sĩ tại gia. Những vị ấy đều đại diện cho các ngành nghề, nam nữ, già trẻ, sang hèn, xấu tốt, thiện ác khác nhau, nhưng Thiện Tài Đồng Tử đều bái họ làm thầy. Dụng ý của kinh Hoa Nghiêm rất sâu xa, nhằm dạy chúng ta hãy thật sự học nguyện thứ nhất “Lễ kính chư Phật” trong Mười Đại Nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát, hay nói theo người thế gian là “Tiên học lễ, hậu học văn.” Người thật sự tu hành trên con đường Bồ-đề phải luôn dùng thân phận học trò, chỉ có riêng mình ta là học trò, trừ ta ra ai nấy đều là thầy dạy, đều là thiện tri thức của ta. Bất luận người ấy là xuất gia hay tại gia, là trai hay gái, già hay trẻ, sang hay hèn, tốt hay xấu, thiện hay ác v.v…, chúng ta đều có thể lễ kính, tham bái họ làm thầy, làm thiện tri thức, thì đó mới đúng với ý nghĩa của câu “Lễ kính chư Phật.” Hiểu một cách sâu xa hơn nữa theo kinh Kim Cang, nếu bốn tướng nhân, ngã, chúng sanh và thọ giả không còn nữa, tự nhiên sẽ thấy ai nấy đều là Phật, đều là thiện nhân cả, như kinh Hoa Nghiêm nói: “Tình dữ vô tình đồng viên Chủng Trí.” Cho nên mới biết dụng ý của Phổ Hiền Bồ tát trong pháp thứ nhất “Lễ kính chư Phật” thật là sâu xa, dẫn đến chỗ thành tựu tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian cho đến viên thành Phật đạo.
Trong năm mươi ba lần tham học, Thiện Tài Đồng Tử không chỉ tham bái thiện nhân, mà Ngài còn tham bái kẻ ác nữa. Trong Kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy Cam Lộ Hỏa Vương dường như phạm lỗi sân hận rất lớn, Ngài dùng hình phạt nghiêm khắc để xử phạt chúng sanh. Nhưng thật ra, Ngài là một vị Bồ-tát hóa thân, dùng cách thức đó để độ loại chúng sanh đó. Chúng ta là phàm phu không thể hiểu cá ch thức hóa độ chúng sanh của Bồ-tát, chỉ nhìn vào một cảnh tướng nào đó, liền khởi tâm chấp trước, rồi cho đó là tội lỗi. Phật, Bồ tát nhìn rốt ráo từ nhân đến quả, thấy Cam Lộ Hỏa Vương chính là một vị Bồ-tát hóa thân phổ độ chúng sanh. Trong Kinh Hoa Nghiêm chúng ta cũng thấy sự ngu si của Thắng Nhiệt bà-la-môn, sự tham ái của Phạt-tô-mật-đa Nữ v.v…, họ đều là những vị Bồ-tát dùng phương pháp Tham Sân Si để độ chúng sanh. Chúng ta không có trí huệ, không có pháp nhãn để nhìn ra dụng ý của Bồ-tát, mà tùy tiện tạo tác khẩu nghiệp, tùy tiện phê bình ác ý, ly gián làm tổn thương, tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Cho nên trong các Kinh, Phật khuyên bảo nhắc nhở chúng ta, khi chưa chứng đắc quả vị A-la-hán, kiến tư phiền não chưa đoạn, thì nhất định không được tin vào suy nghĩ của chính mình, không được tin vào cách nhìn của chính mình, không được tin vào phán đoán của chính mình. Chân thật mà nói, đối với những sự đúng sai, thiện ác, chúng ta không có cách gì hiểu rõ được. Chúng ta không thể nhìn vào hình tượng bên ngoài mà hiểu được dụng ý bên trong của Phật, Bồ-tát.
Trong năm mươi ba thiện tri thức mà Thiện Tài Đồng Tử tham bái, có người thiện, có kẻ ác, có người trí, có kẻ ngu v.v…, nhưng họ đều là thầy dạy của chúng ta. Nếu chúng ta thấy người tu thiện hạnh thì theo họ học tập điều thiện. Nếu chúng ta thấy người thị hiện ác hạnh thì hãy phản tỉnh, sửa chữa lỗi lầm. Nếu chúng ta thấy người trí thức thì học được những điều hay lẽ phải. Nếu chúng ta thấy người ngu si thì tránh được những điều dỡ tệ. Do vậy, thiện nhân hay ác nhân, người trí hay kẻ ngu đều là thiện tri thức, đều là đối tượng để chúng ta một lòng bình đẳng tu lễ kính, đấy mới thật sự là hạnh lễ kính chư Phật trong Phổ Hiền Mười Đại Nguyện Vương. Đây là bước đầu tiên của người mới bắt đầu tu hạnh Bồ-tát mà Thiện Tài Đồng Tử biểu diễn cho chúng ta xem. Người muốn tu tâm thanh tịnh, cầu sanh Tịnh độ nhất định phải tuân tu theo đức hạnh của Phổ Hiền Bồ-tát, phải bắt đầu tu từ lễ kính chư Phật, cũng tức là lễ kính hết thảy chúng sanh. Bất luận là người ấy hiền hay kẻ ác, trí hay kẻ ngu, chúng ta đều một lòng bình đẳng cung kính họ như cung kính Đức Phật. Nếu chúng ta y theo Phổ Hiền Thập Đại Nguyện Vương để tu hành đúng như vậy, nhất định sẽ nâng cao phẩm vị vãng sanh, trở thành một vị Phổ Hiền Bồ-tát nơi cõi Cực Lạc trong tương lai. Vì thế, chúng ta phải biết điều này, phải tu học điều này! Nếu điều gì cũng không biết thì Phật pháp gọi đó là vô minh. Hễ vô minh thì tâm động, giác ngộ rồi tâm hết động. Tâm không động, tức là tâm không chấp trước đối với hết thảy cảnh giới bên ngoài, thì đó gọi là Giác Tâm Bất Động.