Triết lý hay mục đích sống là lý tưởng của mỗi người, chính vì thế mà ngày nay, hầu hết trong chúng ta, ai cũng có khuynh hướng tìm về sự thật, một giải pháp rốt ráo, an toàn, độc nhất, cứu cánh.
Khi nhận chân sự thật, giá trị cuộc đời, thì trọng trách đối với những việc cần làm, cho ‘ý nghĩa cuộc đời’, được con người trân quý, bảo tồn và phát huy. Chính đặc tánh phi thường này, tạo cuộc sống con người ngày càng bình an, thánh thiện, đậm tình người một cách hữu ích.
‘Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng.
Bởi vì:
Quá khứ đã đoạn tận,
trong khi
Tương lai lại chưa đến.’
Một công dân tốt/ Phật tử tín thành/ bậc trượng phu/ người có trí, bằng chính nỗ lực và sự hiểu biết, vị này sẽ hết lòng cống hiến cho đời/ nhân loại những giá trị / phúc lợi và niềm an vui (diṭṭhadhamma-hitasukha).
Thế thì:
‘Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây
Không động, không rung chuyển.
Biết vậy, nên tu tập’
Đúng như, ‘Hiện tại là một sự thật, không có sự thật thứ hai,’ chúng ta cần khắc ghi trong tâm trí:
‘Evaṃ kho purisa jānāhi, pāpadhammā asaññatā.
Mā taṃ lobho adhamma ca, ciraṃ dukkhāya randhayuṃ’.
Vậy ngươi hãy nên biết - Không chế ngự là ác
Chớ để tham phi pháp - Làm ngươi đau khổ dài. (Dhp. 248)
Dù sự việc có thế nào đi nữa, lời đức Phật muôn đời vẫn không khác, ngoài vấn đề ‘dạy con người tỉnh thức/ chánh niệm ngay trong phút giây hiện tại’, hãy ‘chú tâm cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác’. Chính vì thế, con người cần trau giồi tâm trí, khi ý thức ‘quá khứ vị lai hay sống chết’ chỉ là tư duy tiếp nối của chuỗi nhân duyên; nó chính là chu kỳ của cuộc sống (Paṭiccasamuppāda). Điều quan trọng/ căn bản/ cốt lõi đối với kiếp nhân sanh này bao giờ cũng là ‘hiện tại cần/ tu tập/ tuệ quán/ dựa trên nền tảng đạo đức’.
Có bốn hạng người ở đời minh chứng/ xác thực cho dẫn chứng ‘Bồi công dưỡng đức’:
Hạng 1: Ngay đời này (hiện tại), một người làm 10 ác nghiệp về thân khẩu ý là do kiếp trước (quá khứ) đã quen làm các pháp ác, bất thiện; đến giờ phút chót cuộc đời, gần khi lâm chung vị này còn bị vô minh che phủ; tham đắm, ái nhiễm, chấp chặt quan điểm của mình. Có thể nói (tương lai) về sau, nhất định vị này cũng sẽ lặp lại thói quen/ vết đổ cuộc đời. Kết quả rõ ràng cho thấy, sau khi thân hoại mạng chung, người này phải bị đọa cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, chịu cảm giác đau đớn, thống khổ.
Hạng 2: Ngay tại đời này (hiện tại), một người làm 10 ác nghiệp về thân khẩu ý, nhưng vì kiếp trước (quá khứ) đã trồng các pháp thiện; đến giờ phút chót gần lúc lâm chung vị này tỏ ra ăn năn, hối cải, một lòng quy hướng Tam Bảo; phát nguyện đời đời nỗ lực tinh cần, tinh tấn trên con đường lành...
Do nội tâm đã gột cấu uế, nhất định (tương lai) về sau vị này chấm dứt/ đoạn tuyệt điều ác. Kết quả rõ ràng cho thấy, sau khi thân hoại mạng chung, người này được sanh cõi lành: Cõi người hoặc trời, thọ lãnh cảm giác an vui.
Hạng 3: Ngay tại đời này (hiện tại), một người không làm 10 ác nghiệp về thân khẩu ý, do kiếp trước (quá khứ) đã trồng các pháp lành; đến giờ phút chót cuộc đời, gần lúc lâm chung vị này suy nghĩ những gì cần làm tốt cho đời, ta đã hoàn xong trách nhiệm. Tâm vị này do có thanh lọc; một lòng quy hướng về Ba ngôi Báu, nhất định trong tương lai vị này ‘sanh phùng trung quốc, trưởng ngộ minh sư’... Kết quả rõ ràng cho thấy, sau khi thân hoại mạng chung, người này được sanh cõi thiện/ cõi người hoặc trời, nhận lãnh cảm giác bình an, vắng lặng, tịch tịnh.
Hạng 4: Ngay tại đời này (hiện tại), một người không tạo 10 ác nghiệp về thân khẩu ý, nhưng trong kiếp trước (quá khứ) đã quen làm các pháp ác, bất thiện; đến giờ phút chót cuộc đời, gần lúc lâm chung, tập khí làm ác khởi lên; tâm ái nhiễm việc ác, bảo thủ việc ác đã tạo của mình. Nhất định (tương lai) về sau, với tâm uế trược dẫn đầu, lôi kéo, phán quyết, sai xử, ra lệnh tâm ý… , sau khi thân hoại mạng chung, người này phải bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, chịu cảm giác đau đớn, thống khổ.
‘Tâm tại thời điểm cận tử nghiệp’ vô cùng quan trọng, nó quyết định cảnh giới tái sanh:
‘Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā,
Manasā ce paduṭṭhena, bhāsati vā karoti vā
Tato naṃ dukkhamanveti, cakkaṃ’ va vahato padaṃ’.
Ý dẫn đầu các pháp - Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý ô nhiễm - Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau - Như xe chân vật kéo.
(Dhp. 1)
‘Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā,
Manasā ce pasannena, bhāsati vā karoti vā
Tato naṃ sukhamanveti, chāyā’va anapāyinī’
Ý dẫn đầu các pháp - Ý làm chủ ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh - Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau - Như bóng không rời hình
(Dhp. 2)
Thế thì, con người muốn kiếp sau/ tương lai được an vui (samparāyika-hitasukha), ngay giây phút hiện tại, cần khắc ghi:
‘Sududdasaṃ sunipuṇaṃ, yatthakāmanipātinaṃ
Cittaṃ rakkhetha medhāvī, cittaṃ guttaṃ sukhāvahaṃ’
Tâm khó thấy tế nhị - Theo các dục quay cuồng
Người trí phòng hộ tâm - Tâm hộ an lạc đến
(Dhp. 36)
Sự thật minh chứng cho người biết phòng hộ tâm, gọi là người trí: ‘Không có sợ hãi, nguy hiểm, thảm họa đến với người trí’. Bởi vì người trí là người ‘ở trong sanh, già,… bệnh... chết… sầu… bi.. khổ… ưu… não’… biết tỉnh thức/ chế ngự các căn để đạt pháp cao thượng và an trú trong tự tại: ‘không sanh, không già,…không bệnh... không chết… không sầu… không bi… không khổ… không ưu… không não’ …
Trái với người trí là người chưa hiểu rốt ráo/ cốt lõi/ sự thật cuộc đời, vị này sống hưởng thụ, đam mê, đắm nhiễm, sa vào 5 dục thấp hèn (sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu). Người như vậy, chính mình bị sanh… già… bệnh... chết… sầu… bi… khổ… ưu … não…, lại tự mình đi tìm cầu hạnh phúc trong sanh… già…bệnh... chết… sầu… bi.. khổ … ưu … não …
‘Puttā m’atthi dhanaṁ m’atthi iti bālo vihaññati
Attā hi attano natthi kuto puttā kuto dhanaṁ’
Con tôi, tài sản tôi - Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có - Con đâu, tài sản đâu?
(Dhp. 62)
Không được chánh kiến soi đường/ dẫn đầu trong các pháp, vị này mất phương hướng, định hướng cuộc đời; cuộc sống vị này trở thành vô nghĩa/ chao đảo/ do phóng dật, buông thả vì thiếu tư duy/ kiểm soát nên các ác, bất thiện, tội lỗi gặp dịp móc nối, xâm nhập vào tâm.
Cuộc sống trở nên có ý nghĩa phải là cuộc sống vì an lạc và hạnh phúc lâu dài/ bền vững không những cho bản thân/ cá nhân mà còn tha nhân/ mọi loài/ chúng sanh/ hữu tình. Chính vì lẽ này, lời đức Phật hướng vào tâm người đầu tiên là ‘thành tựu các việc lành (kusala)’ - Một sự thật rất người, rõ ràng và dễ hiểu: Loài hữu tình nên chú trọng đến ‘nhân’ mình gây/ tạo/ gieo/ trồng: ‘Cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi’ / nghiệp là hành động có cố ý/ tác ý qua việc làm, lời nói và ý nghĩ, vì: ‘Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp (kammassako), là thừa tự của nghiệp (kammadāyāda). Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; có liệt, có ưu’.
Triết lý nền tảng về nghiệp, cũng dạy con người: ‘Cái gì thuộc bản chất sanh, cái đó ắt thuộc bản chất diệt’/ (Yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhammaṃ). Như vậy chính ‘thanh lọc tâm ý’ giúp con người tự tại, vượt qua vòng đối đãi tốt xấu, sanh diệt hay vui buồn…
Attanā’va kataṃ pāpaṃ, attanā saṃkilissati.
Attanā akataṃ pāpaṃ, attanā’va visujjhati.
Suddhi asuddhi paccattaṃ, n’āñño annaṃ visodhaye.
‘Tự mình điều ác làm - Tự mình làm nhiễm ô
Tự mình ác không làm - Tự mình làm thanh tịnh
Tịnh, không tịnh tự mình - Không ai thanh tịnh ai’
(Dhp. 165)
Thế thì, người biết phân biệt, có hiểu định luật ‘gieo nhân gặt quả’, cần tự điều chỉnh thái độ không làm / tránh xa / cấm tuyệt… những điều vi phạm nền tảng/ căn bản:
Yo pāṇaṃ atipāteti, musāvādaṃ ca bhāsati
Loke adinnaṃ ādiyati, paradāraṃ ca gacchati
Surāmerayapānaṃ ca, yo naro anuyuṃjati
Idh’evaṃ eso lokasmiṃ, mūlaṃ khaṇati attano
‘Ai ở đời sát sanh - Nói láo không chơn thật
Ở đời lấy không cho - Qua lại với vợ người
Uống rượu men rượu nấu - Người sống đam mê vậy
Chính ngay tại đời này - Tự đào bới gốc mình
(Dhp. 246 - 247)
Qua những dẫn chứng đã nêu, chỉ ‘Tỉnh giác và chánh niệm’, điều kiện tiên quyết trong cuộc sống và là nhân để con người chọn mục đích/ hướng đi:
‘Hôm nay nhiệt tâm làm - Ai biết chết ngày mai?’
Bằng phương pháp giáo dục này, đức Phật đã dạy con người gặt hái đức tin vững chắc (không mê tín/ mù quáng); bằng cách sử dụng các giác quan thông thường nơi tự thân để chuyển hóa khổ đau; con người trở về với nếp sống thực tại, bình an ‘như người bị mũi tên tẩm thuốc độc bắn vào, phải tự nhổ’:
‘Uṭṭhānavato satimato - sucikammassa nisammakārino
Saññatassa ca dhammajīvino appamattassa yaso’ bhivaḍḍhati’.
‘Nỗ lực, giữ chánh niệm - Tịnh hạnh, hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp - Ai sống không phóng dật
Tiếng lành ngày tăng trưởng’
(Dhp. 24)
Đối với ai dũng cảm/ nhiệt tâm đi tìm chân lý/ mục đích tối hậu của Pháp/ sống theo Pháp… người đó chắc chắn thâm nhập cốt lõi cuộc đời, có Pháp làm hướng đi, ốc đảo tự thân: ‘Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng (Svākkhāto Bhagavatā dhammo), thiết thực hiện tại (sandiṭṭhiko), không có thời gian (akāliko), đến để mà thấy (ehipassiko), có khả năng hướng thượng (opanāyiko), được người có trí chứng hiểu (paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti)’.
Thật vậy, Pháp Phật gắn liền đức tánh ‘chân thiện mỹ’, giúp người đạt được nghĩa tín thọ (attha-veda), pháp tín thọ (dhamma-veda) và chứng được hân hoan liên hệ đến pháp (dhammūpasaṃhitaṃ). Nhờ vậy, người học Phật biết vận dụng/ tự điều mình sống theo Pháp, bằng những biểu hiện của hoạt động/ nói năng / tư duy một cách phù hợp khi giao tiếp, ứng xử.
Với lý do này, giáo pháp của đức Phật cần được phổ biến, truyền bá khắp nơi: ‘Mỗi người nên đi một phương để truyền bá chánh Pháp và khi hoằng truyền Phật Pháp, nên tùy thời/ căn cơ/ địa phương… từ lúc bắt đầu, khoảng giữa cho đến kết thúc đều nên tốt đẹp/ có thiện chí/ không chống trái nhau; Pháp được nói ra nên y nghĩa lý trong Kinh’.
Sự thật cho thấy, người biết thừa tự Pháp, là người đáng được cung kính/ tôn trọng/ cúng dường/ chắp tay/ là phước điền vô thượng ở đời. Những ngôn từ dành cho vị này là: Đệ tử đức Thế Tôn: ‘Diệu hạnh (su-paṭipanno)/ Trực hạnh (uju-paṭipanno)/ Như lý hạnh (ñāya-paṭipanno)/ Chánh hạnh (sāmīci-paṭipanno)’ ...
Nắm được sự vận hành cơ bản của Pháp, người hành Pháp thấu triệt ‘Không ai điều đình được - Với đại quân thần chết’, chính là trọng tâm giáo lý Tứ Đế (Cattāri Ariyasaccāni): ‘Này các Tỳ Kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ tuyên bố về Khổ và sự Diệt khổ’.
Cuối cùng, con người cần:
‘Trú như vậy nhiệt tâm - Đêm ngày không mệt mỏi
Xứng gọi Nhứt dạ Hiền - Bậc an tịnh, trầm lặng’.
Có thể nói, ‘Bậc an tịnh trầm lặng’ là thành quả xứng gọi, dành cho vị biết ‘Bồi công dưỡng đức’ để sở hữu ‘Tất cả các thời đều an lành’/ ‘An tịnh nội tâm’ / ‘An tịnh trầm lặng’:
Appamādo amatapadaṁ -pamādo maccuno padaṁ
Appamattā na mīyanti - ye pamattā yathā matā’.
Không phóng dật, đường sống, - Phóng dật là đường chết
Không phóng dật, không chết - Phóng dật như chết rồi.
(Dhp. 21)