Kinh Vô Lượng Thọ tường thuật, nước trong ao bảy báu nơi cõi Cực Lạc chẳng những có khả năng tẩy sạch cấu ô trong tâm chúng sanh mà lại còn biết tùy thuận ý thích và căn tánh của chúng sanh để khai hiển thần thức. Một khi thần thức được khai hiển, thân tâm tự nhiên vui sướng bất tận. Nước dâng cao lên hay hạ thấp xuống, nóng hay lạnh, chảy gấp hay chảy từ từ, hết thảy đều tùy theo ý muốn của chúng sanh mà biến hóa vô cùng. Tỷ dụ, nếu ai thoạt đầu muốn nước chỉ ngập đến chân, ngập đến hông, đến cổ, hoặc muốn nước phủ toàn thân, thì cũng chỉ là một dòng nước đó nhưng lại tùy theo ý nghĩ của mỗi người mà dâng lên hay hạ xuống một cách tự tại, thậm chí nước có thể dâng đến tận hư không để xối xuống. Lại nữa, người tắm trong ao chẳng cần phải nói ra; thế mà nước tự nhiên biết chuyển thành cạn hay sâu thuận theo ý muốn, chẳng hề sai trái dù chỉ là một tí, muốn nước sâu bao nhiêu, nước bèn sâu bấy nhiêu, muốn nước cạn một chút chỉ ngập đến bàn chân, nước bèn dâng ngập bàn chân, muốn sâu hơn một chút ngập tới gối, nước dâng tới đầu gối v.v… Còn nữa, người tắm trong ao muốn nước ấy ấm một chút thì nước ấm một chút, muốn nước mát một chút thì nước mát một chút. Nước ấy nhất nhất làm cho người tắm trong ao thần thể khai vui.
Dẫu cùng một lúc, cùng một chỗ, có rất nhiều người vào tắm trong cùng một khối nước trong ao, vậy mà nước ấy lại biết tùy theo ý thích mỗi người, hiển hiện các sự bất đồng như là hoặc cao hoặc thấp, hoặc ấm hoặc mát, hoặc gấp hoặc thong thả, hoặc sâu hoặc cạn v.v…, khiến họ thỏa mãn. Vậy, nước ấy là thứ nước gì? Cảnh giới ấy là cảnh giới nào? Kinh Pháp Hoa bảo: “Thôi, thôi, chớ nên nói, pháp của ta mầu nhiệm khó nghĩ nổi.” Tuy là những điều nhiệm mầu ấy chẳng thể nào diễn tả nổi, nhưng chúng ta cũng có thể miễn cưỡng mà suy luận rằng: Thứ nhất, nước ấy ví cho diệu pháp kinh Vô Lượng Thọ có khả năng tùy ý thích, tùy căn tánh của từng mỗi chúng sanh mà diễn biến cảnh giới trí khác nhau, khiến cho mọi chúng sanh đều được lợi ích chân thật nơi Phật pháp. Thứ hai, Phật Di Ðà lúc còn tu nhân đã trụ trong chân thật huệ để trang nghiêm cõi Tịnh độ, có khả năng khai hóa, hiển thị chân thật tế, mà cái chân thật tế ấy chính là Thật tế Lý thể, là Tự tâm của đương nhân, là một thanh tịnh cú và cũng là Chân thật Trí huệ Vô vi Pháp thân. Cõi nước ấy hiển thị chân thật tế của Chân thật Trí huệ Vô vi Pháp thân có nghĩa là tuy Pháp thân Phật thanh tịnh bình đẳng, như như nhất vị, nhưng lại có thể phổ môn thị hiện, biến hóa vô lượng vô biên các tướng khác nhau, nhằm làm thỏa mãn tâm nguyện của từng mỗi chúng sanh một cách trọn vẹn. Bởi vì nước trong ao thất bảo có khả năng phổ môn thị hiện, diễn nói diệu pháp, nên ai đáng được nghe pháp nào thì nước ấy diễn biến pháp đó bằng âm thanh, ngôn từ và cảnh tướng khác nhau để khai hiển thần thức cho họ, khiến cho trí huệ của họ được mở sáng, thấy thông suốt sự lý một cách tự tại. Nước ấy chẳng những làm thân thể của người tắm trong ao được mát mẻ, thoải mái, vui vẻ, sạch sẽ, mà còn làm tinh thần của họ sáng suốt, gột sạch hết những mối tình chấp ưu lự, trong sáng, lắng sạch, thanh tịnh đến mức dường như vô hình vô tướng, mà còn có khả năng khai hiển thần trí sẵn có trong thức tánh của đương nhân, khiến họ triệt khai triệt ngộ, đắc Thật tướng Bát-nhã, chánh nhân thành Phật. Đây là ưu điểm của chất nước nơi cõi Cực Lạc!
Thể tánh của nước nơi cõi Cực Lạc hết sức thanh tịnh tinh khiết, trong lặng, không nhơ giống như là không có hình, không có tướng, nên dù cát báu trải đáy ao ở chỗ sâu đến cùng tận, cũng có thể phản chiếu ánh sáng lên tận mặt nước, khiến người ta có thể trông thấy thấu tận đáy ao. Hiểu một cách sâu xa, thâm thúy hơn, kinh dùng tánh tướng của nước trong ao thất bảo để biểu thị tánh tướng của Chân tâm Tự tánh vốn sẵn thanh tịnh sáng suốt vô cùng tận, có thể rõ thông tất cả thế gian và xuất thế gian pháp đến mức rốt ráo, không ngằn mé. Nói tóm lại, tướng của nước nơi cõi Cực Lạc là thanh tịnh tinh khiết, không hình không tướng. Công dụng của nước ấy là khai hiển thần thức, thân thể vui sướng. Vì tướng lẫn dụng của nước đều vi diệu, không thể nghĩ bàn cho nổi, nên kinh Pháp Hoa mới bảo: “Thôi, thôi, chớ nên nói, pháp của ta mầu nhiệm khó nghĩ nổi.” Vì sao kinh lại dùng nước trong ao thất bảo để hiển thị Chân tâm Tự tánh? Có ba lý do về mặt Tự thể, Tự tướng và Tự dụng:
• Về mặt Tự thể, kinh dùng nước ấy ví cho Chân tâm Tự tánh vốn chỉ là thanh tịnh bình đẳng, bất tăng bất giảm, bất cấu, bất tịnh. Thí dụ, tuy nước trong ao thất bảo có thể hiện ra các tướng cao thấp, sâu cạn, nóng lạnh, nhanh chậm khác nhau, nhưng Tự thể của nó chỉ thuần là thanh tịnh tinh khiết, không hình không tướng. Thanh tịnh tinh khiết, không hình không tướng chính là Tự thể thanh tịnh bình đẳng, bất tăng bất giảm, bất cấu, bất tịnh của Chân tâm Tự tánh.
• Về mặt Tự tướng, kinh dùng nước ấy ví cho Như Lai Tạng có đầy đủ vô lượng tánh công đức. Tám công đức của nước được nói trong kinh chỉ là con số tiêu biểu, chớ chẳng phải thật bởi vì trong một tánh công đức của tám công đức vốn đã bao gồm vô lượng tánh công đức không thể nghĩ bàn. Thí dụ, tuy Tự thể của nước ấy vốn chỉ là nhất thể thanh tịnh tinh khiết, không hình không tướng, nhưng lại có khả năng biến hiện ra nhiều tướng dạng khác nhau để làm Phật sự, thành tựu vô lượng vô biên công đức không thể nghĩ bàn.
• Về mặt Tự dụng, kinh dùng nước ấy ví cho công năng của Chân tâm Tự tánh có thể phát sanh ra tất cả nhân quả lành thế gian và xuất thế gian. Tất cả chư Phật đều lấy một pháp này để phổ độ chúng sanh. Tất cả chư Bồ-tát cũng đều lấy một pháp này làm phương tiện để đi đến đất nước của Như Lai. Thí dụ, tuy Tự thể của nước ấy chỉ là thanh tịnh tinh khiết, không hình không tướng, nhưng lại biết tùy ý thích của mỗi chúng sanh mà biến hiện các tướng dạng khác nhau, khiến cho tất cả mọi căn cơ, bất luận là người trí hay kẻ ngu, đều có thể khai mở thần trí, chứng được Thật tướng Bát-nhã, chánh nhân thành Phật. Đây chính là Tự dụng của Chân tâm Tự tánh, phổ môn thị hiện diễn biến pháp Đại thừa bằng vô lượng phương tiện thiện xảo môn. Tuy cảnh tướng của nước thiên biến vạn hóa, nhưng nó lại chỉ nhằm mục đích giáo hóa chúng sanh, khiến chúng sanh trở về với cái dạng đồng nhất, đó là Phật pháp thân. Phật A Di Đà từ nơi Chân tâm Tự tánh biến hiện ra vô lượng phương tiện thiện xảo môn, mỗi môn đều có đầy đủ vô lượng tánh công đức không thể nghĩ bàn, khiến mọi căn cơ đều có thể ở nơi pháp mình ưa thích, khai hiển thần trí, chứng nhập Thật tướng Bát-nhã, trở thành một vị Quán Tự Tại Bồ-tát, thoát khỏi mọi khổ ách, hưởng mọi sự vui sướng của thường-lạc-ngã-tịnh trong Vô vi Niết-bàn, nhất tâm hướng đến Nhất thừa, vượt qua khỏi mười pháp giới, chánh nhân thành Phật. Kinh nói chất nước ấy vô hình vô tướng là nói về tánh nhẹ nhàng, mềm mại, chẳng ô trược, nặng nề như nước ở cõi này. Nói sâu xa hơn, nước ấy vốn vô tâm nên mới có thể tùy thuận ý muốn trong lòng mỗi người tắm trong ao. Người tắm trong chất nước vô hình vô tướng như vậy mới có thể diệt trừ được tập khí phiền não, đạt đến cảnh giới vô tâm, khiến Trí Huệ Chân Thật trong Tự tánh hiện tiền, thành tựu sức định huệ trong Lục độ rất thâm sâu.
So sánh Thế giới Cực Lạc và thế giới Sa-bà, chúng ta thấy chúng sanh nơi ấy do ngộ chẳng mê nên có thể chuyển cảnh giới, mọi thứ họ mong muốn đều được thành tựu đến mức viên mãn. Ngược lại, chúng ta trong thế giới này do mê chẳng ngộ nên bị cảnh giới chuyển đến mức rất đáng thương! Tây Phương Cực Lạc Thế Giới quả thật là cảnh giới cao tột độc nhất vô nhị, không có cảnh giới nào của chư Phật trong mười phương có thể sánh bằng, đúng như kinh này đã nói: “Cảm ứng sâu xa chỗ thanh tịnh, trang nghiêm thù thắng chẳng đâu bằng.” Tây Phương Cực Lạc Thế Giới có thể thù thắng đến ngần ấy đều là do vô lượng vô biên công đức thành tựu của Phật A Di Đà và chư Bồ-tát trong cõi ấy. Nếu chẳng phải do tu hành, tích lũy công đức thù thắng thì làm sao có đại phước báo đến mức mọi thứ mọi điều đều tùy theo ý muốn đến dường ấy cho được! Nay nếu chúng ta thật thà tu hành đúng theo lời Phật dạy trong kinh này, ắt cũng sẽ được tùy theo ý muốn mà tự nhiên cảm nhận mọi nguyện ước thành đạt, tức là tâm vừa nghĩ cái gì thì cái đó bèn hiện ra đúng như lòng mong muốn, chẳng hề sai trật. Tỷ dụ, chúng ta cầu học kinh pháp nào thì kinh pháp đó liền tự nhiên đến với chúng ta, không cần phải nhọc công hao sức tìm kiếm, lục lạo mới có. Điều này là sự thật, vô cùng chân thật, ai thật tâm cầu học Phật pháp thì tự mình biết rõ hơn ai hết.
Phương pháp “Nhiếp thủ sáu căn, tịnh niệm tiếp nối câu A Di Đà Phật” của Bồ-tát Đại Thế Chí là cách để chỉnh sửa lỗi lầm hay nhất, tốt nhất và viên mãn nhất. Khi sáu căn của mình tiếp xúc với sáu trần, chỉ có một câu niệm Phật hiễn hiện trong tâm, chẳng phạm một lỗi lầm nào hết, thì đấy chính là vô lượng vô biên công đức. Do đó, niệm Phật là cách thức dùng để sửa đổi lỗi lầm, đơn giản, ngắn gọn và có hiệu quả nhanh chóng bậc nhất! Hơn nữa, trong các kinh sớ đều nói, Niệm Phật là Nhị Lực pháp môn vô cùng diệu dụng, có thể chuyển biến công đức của A Di Đà Phật thành công đức của chính mình. Diệu dụng đó là gì? Nhất tâm chuyên niệm là tự lực, thần lực gia trì của Phật Di Đà là tha lực, chỉ cần niệm một câu A Di Đà Phật với tín tâm thanh tịnh, liền có được cả hai thứ tự lực và Phật tha lực, nên mau chóng thành tựu tịnh nghiệp, đấy chính là diệu dụng của pháp môn Niệm Phật! Vì thế, đối với bản thân chúng ta, điều khẩn yếu là nhất tâm chuyên niệm. Nhất tâm là tâm thanh tịnh, nhất tâm là rời khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Tâm phân biệt, chấp trước, vọng tưởng không còn nữa thì sẽ không mắc phạm lỗi lầm nơi thân, miệng, ý. Chúng ta niệm Phật để đạt được cái tâm ấy, rồi lại dùng cái tâm ấy để niệm Phật, thì nhất định sẽ cảm ứng hết thảy chư Phật, Bồ-tát trong mười phương.
Trong kinh Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ, Đức Phật đã giảng rõ ràng, rành mạch phương pháp tu hành pháp môn Niệm Phật, nhưng chính chúng ta hiểu sai lời Phật dạy trong kinh, hiểu sai ý nghĩa của câu Phật hiệu, chẳng thấy được diệu dụng của câu Phật hiệu, nên niệm Phật suốt đời mà chẳng có thành tựu, rồi lại còn nói kinh Phật chẳng vi diệu nhiệm mầu, niệm Phật chẳng linh. Tu hành như vậy thì tội càng thêm tội, chớ đâu có giảm bớt tí nào. Người ta niệm một câu Phật hiệu diệt được tám mươi ức kiếp tội nghiệp sanh tử, còn ta niệm mấy chục vạn tiếng niệm Phật bị đọa địa ngục. Do đâu niệm Phật nhiều hơn người khác mà lại bị đọa lạc? Là do không chuyên tâm đọc kinh, nghe pháp, không nắm vững nền tảng căn bản của Phật pháp, hiểu sai ý Phật. Pháp môn Tịnh độ tuy dễ tu nhưng chẳng dễ hiểu! Chẳng phải ai cũng biết niệm Phật đúng như lý như pháp. Ai nấy đều có thể niệm Phật, tướng niệm Phật bên ngoài tuy rất giống nhau, âm thanh niệm Phật cũng chẳng khác, nhưng tâm niệm bên trong vô cùng khác biệt, cho nên cái quả báo cũng theo đó mà cách xa vời vợi. Người ta niệm một tiếng Phật hiệu bèn có thể diệt trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, vậy mà ta niệm mấy vạn câu Phật hiệu chẳng thể tiêu trừ một tí tội chướng nào hết, lại còn sanh thêm tội nghiệp mới; đó đều là do chúng ta không biết niệm Phật là gì? Không biết căn cứ trên lý luận gì để niệm Phật? Không biết phải dùng cái tâm gì để niệm Phật? Những điều này có quan hệ rất to lớn trong suốt cả một cuộc đời tu hành của ta, thế mà ta chẳng chịu dành dụm chút ít thời giờ để nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi cho thông đạt giáo pháp của Đức Phật trước khi hạ thủ công phu. Tu hành mà chẳng thông đạt lý luận căn bản của pháp môn mình tu thì làm cách nào được, tu kiểu nào đây? Chư cổ đức gọi tu hành kiểu đó là “tu mù, luyện đui.”
Trong bộ sách Đại Thế Chí Bồ-tát Niệm Phật Viên Thông Chương Sớ Sao do pháp sư Quán Đảnh chủ giải, Ngài nói: Niệm A Di Đà Phật có một trăm thứ quả báo bất đồng. Quả báo thứ nhất là địa ngục A-tỳ. Miệng niệm A Di Đà Phật, tâm hạnh hủy báng Phật pháp, đoạn diệt Pháp thân huệ mạng của chúng sanh, lẽ nào kẻ ấy chẳng đọa địa ngục? Miệng đúng, tâm sai thì đương nhiên là bị đọa địa ngục rồi! Kinh Vô Lượng Thọ có một đoạn kinh văn rất dài giảng về ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu. Ngũ ác là mê hoặc điên đảo, ngũ thống là tạo nghiệp, ngũ thiêu là quả báo. Người niệm Phật do chẳng tham thấu nhân quả báo ứng chẳng sai sót mảy may, do không tin thiện có thiện báo, ác có ác báo, nên mặc tình phạm lỗi nơi ba nghiệp thân, ngữ, ý, làm biểu hiện xấu, khiến người ta lánh xa Phật pháp; đó chính là ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu.
Đức Phật thấy chúng sanh do mê hoặc điên đảo mà tạo vô lượng tội ác, phải lãnh chịu quả khổ vô tận, nên Ngài vô cùng thương xót mà căn dặn rằng: “Ta thương các ông, hơn cha mẹ thương. Ta cõi này thành Phật, lấy thiện trừ ác, nhổ gốc khổ sinh tử, khiến đặng năm đức, đặng an vô vi. Ta vào Niết-bàn, kinh đạo lần diệt, nhân dân tà ngụy, lại làm điều ác, năm thiêu năm khổ, lâu sau càng nguy. Các ông thay nhau, khuyên lơn nhắc nhở, y kinh pháp Phật, chớ nên trái phạm.” Nay, chúng ta gặp được Phật pháp thì phải dốc lòng học hỏi để thật sự tham thấu Phật pháp, thật sự giác ngộ, mới có thể quay đầu bỉ ngạn. Một khi hiểu rõ Phật pháp, thâm tín nhân quả thì không những chỉ là chẳng dám làm chuyện xấu, mà kể cả một niệm xấu cũng chẳng dám dấy lên. Sau khi thật sự giác ngộ rồi, mới biết rõ chính mình chẳng bằng kẻ khác, mỗi người ai nấy đều có sở trường riêng của họ, ai nấy đều giỏi hơn ta, chỉ có ta là tệ nhất chẳng bằng người khác. Vì thế, chính mình phải khiêm hư giống như Thiện Tài đồng tử lúc đi tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức thì mới là thật đức, mới là đức hạnh chân thật. Chính mình thừa nhận, trong hết thảy các pháp môn, ta chỉ biết có một pháp môn Niệm Phật, ta chẳng bằng các vị thiện tri thức khác, họ đều là những bậc thượng căn thượng trí, thông đạt hết thảy các pháp môn, Tam Tạng Mười Hai Bộ Kinh họ đều thấu suốt, trí huệ lẫn đức hạnh của họ đều vượt cao hơn ta rất nhiều, nên ta phải ẩn quang dấu tích, chăm lo chuyện tu hành của chính mình để không phải đứng sau người.
Phật pháp thâm sâu, nghĩa nhiệm mầu.Trăm ngàn muôn kiếp dễ gặp đâu?Con nay nghe, thấy, được trì tụng.Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.