Bộ mặt giả tạo với vẻ thanh bình, giàu có của Sàigòn, thủ đô miền Nam VN đang thời chiến tranh vào những ngày sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 gần như biến mất hoàn toàn. Thay vào đó là những khuôn mặt lo lắng, bàng hoàng của người dân thành phố. Những chốn ăn chơi, sầm uất về đêm không còn nữa. Những ngôi chợ luôn luôn đầy ắp thực phẩm cũng trở nên tiêu điều, trống trơn vì không có nguồn hàng cung cấp. Nhất là cây trái, rau cỏ từ xưa vẫn được cung cấp từ Đà lạt và các tỉnh ngoại biên Sài gòn cũng không còn nữa. Nếu có chỉ còn lai rai với số lượng ít ỏi từ những nhà buôn nhỏ lẻ từ những vùng ven đô, tạm gọi là an ninh mang đến, mà giá cả mắc gấp nhiều lần nhưng phẩm chất lại kém hơn.
Mẹ tôi bán chuối lẻ ở lề đường, mỗi ngày phải lên chợ Cầu Ông Lãnh phải tranh nhau với người khác, dù giá cả gấp 2, 3 lần bình thường nhưng cũng chỉ được vài chục nải không đủ đề bán. Lý do là nguồn chuối từ Long Khánh hay các tỉnh miền Tây gần như hoàn toàn chấm dứt, chỉ còn lai rai những buồng chuối kém chất lượng từ những gia đình có vườn tược ven thành phố mang đến. Trong tình trạng không có hàng để bán nhưng gia đình thì vẫn cần tiền để sinh nhai, ôi bàn với mẹ, đi xuống những vùng quê hơi xa thành phố, đến các nhà vườn mua rau muống về bán. Dù biết là liều lĩnh, khi mà mọi con đường dẫn tới Sàigòn vẫn còn vang động tiếng súng. Những đám cháy dọc quốc lộ vì bom đạn vẫn chưa tắt lửa đã làm cho mẹ con chúng tôi có phần lo lắng nhưng vì kế sinh nhai mà phải liều lĩnh mà thôi.
Ngay ngày hôm sau với chiếc xe Suzuki cũ kỹ kèm theo những bao tải, sọt, bị, dây nhợ... hai mẹ con chúng tôi theo quốc lộ 1, nhắm hướng Hóc Môn, rẽ vào những vùng quê hẻo lánh, đến những ruộng rau muống bên đường làng để hỏi mua. Khi đã có nguồn để mua mẹ con chúng tôi cũng phải nhẩy xuống ruộng cùng với gia đình người chủ cắt và bó rau cho nhanh, rồi chất lên xe nhanh chóng chạy về thành phố trước hoàng hôn để tránh những bất trắc về an ninh trên đường.
Rồi cứ thế, suốt cả tháng trời sau biến cố Mậu thân, cứ khỏang 2 hay 3 ngày chúng tôi lại chạy xe xuống mua rau về bán. Một lần vào buổi chiều khi vừa về đến gần ngã ba Ông Tạ thì bánh xe bị bể. Chẳng làm sao hơn tôi đành phải dẫn xe vào chỗ vá xe bên đường. Trong lúc chờ đợi sửa xe, tôi và mẹ bâng quơ ghé mắt vào những tiệm bán hàng ở chung quanh, gần chỗ sửa xe. Đến một tiệm khá khang trang bán đồ gia dụng như chén bát, nồi niêu, bình thủy..v..v.. những món hàng cao cấp hơn so với những tiệm bình dân thường thấy trong chợ. Tôi chợt thấy mẹ tôi ngẩn ngơ, im lặng ngắm nghía một bộ tách uống trà bằng men sứ khá đẹp bên trong tấm kính của hiệu buôn. Chiếc bình pha trà với 6 chiếc tách uống trà xinh xắn nhiều mầu sắc in hình đôi chim phượng in trên nền men trắng đục, được xếp gọn ghẽ trong một hộp bằng các tông nhiều màu, sang trọng.
Với tôi tất cả những vật dụng trong tiệm chẳng có gì đặc biệt, nó hoàn toàn ra ngoài sở thích của thằng con trai không biết gì về bếp núc. Nhưng tôi có cảm giác ánh mắt nhìn của mẹ tôi có cái gì ẩn dấu sự thèm muốn, ước mơ khi nhìn bộ ly tách. Với chút tò mò, quay sang mẹ, tôi hỏi bâng quơ:
- Bộ tách uống trà đẹp lắm mẹ nhỉ?
Ra vẻ ngập ngừng tí chút, nhưng ánh mắt vẫn không rời chiếc hộp, mẹ tôi nói nhỏ với tôi nhưng hình như cũng cho chính mẹ nghe:
- Ừ, bộ ly tách đẹp thật! Chẳng biết bao giờ nhà mình có tiền sắm một bộ như thế này để tiếp khách?
Nghe mẹ nói, trong đầu tôi hiện ngay ra cái ấm nấu trà bằng nhôm mà hàng ngày gia đình tôi vẫn dùng để nấu trà tươi. Khách đến nhà được tiếp đãi bằng những chiếc ly thuỷ tinh nghèo nàn, trà mời khách được rót trực tiếp từ cái ấm nhôm cũ kỹ đó. Đưa mắt nhìn thật kỹ bộ ly tách trong khung kính, rồi tôi kín đáo chuyển ánh mắt nhìn mẹ. Người đàn bà lam lũ trong chiếc áo cánh mầu nâu nhạt ,bạc mầu … hình ảnh người mẹ cả đời đã sống trong nghèo túng vì chồng con đã làm cho tôi thờ thẩn vì thương mẹ. Cũng lúc đó, trong tâm trạng buồn buồn đó, tường tượng trong đầu tôi hiện ra một ước mơ. Làm sao tôi có được bộ ly tách đẹp đẽ kia đặt trên mặt bàn với những câu trầm trồ khen tặng từ những người khách của gia đình và cả trong ánh mắt tự hào, hạnh phúc của mẹ tôi. Chỉ với tưởng tượng, ước mơ đó đã làm tôi sung sướng. Nhưng khi nhìn đến tấm giấy nho nhỏ đề giá 450 đồng trước chiếc hộp mang đến cho tôi cảm giác thất vọng, vì quá mắc. Món tiền đó vượt khỏi tầm tay với của nếp sống đang còn nghèo nàn của gia đình tôi.
Cũng trong nỗi thất vọng đó, tôi đưa mắt nhìn về chiếc xe Suzuki bạc rạc của mình ở góc đường, nó đã được người thợ sửa xe vá xong và đang cúi mình gò nắn lại bánh xe. Rồi tôi lại nhìn rất kỹ vào vào những bó rau muống lờm xờm được cột chặt hay đeo vào những khúc gỗ dọc theo thân xe. Tôi tự hỏi với khoảng hơn một trăm bó rau muống đó, nếu may mắn bán được với giá rất hời của những ngày Saigòn trong máu lửa. Có lẽ sau khi trừ tiền vốn , tiền xăng và tiền vá xe… khá lắm mẹ con tôi cũng chỉ kiếm được khoảng 60 đồng tiền lời. Với món tiền thu hoạch thu nhỏ bé đó thì làm sao mua được bộ ly tách uống trà đẹp đẽ, ước mơ của mẹ tôi với giá 450 đồng được? Tôi lại nghĩ đến đồng lương èo ọt của bố tôi, người trung sĩ trong quân lực VNCH nhưng phải cưu mang 7 anh em chúng tôi đang tuổi ăn học, thêm vào đó còn phải cung ứng cho ông nội tôi luôn luôn bệnh tật... Thỉnh thoảng vì thiếu thốn không đủ tiền mua một “tĩn” nước mắm để nấu ăn, mẹ đã phải sai tôi hay cô em gái mang bát đến tiệm tạp hoá gần nhà mua từng thìa nước mắm. Đúng như vậy, sáu mươi đồng tiền lời bán rau muống cho cả một ngày cực nhọc của mẹ con chúng tôi, nó chẳng là gì so với xã hội nhưng chắc chắn nó là một điều phải có, không thể thiếu được cho cuộc sinh sống quá túng thiếu của gia đình tôi. Để có món tiền 450 đồng cung ứng cho ước mơ của mẹ, nó là một vấn đề rất khó, một giấc mơ không có thật! Một giấc mơ mà cả gia đình tôi có lẽ phải nhịn đói dành dụm cả tháng để mua được một bộ ly tách uống trà, tiếp khách là một truyện hoang đường, không thực tế. Nghĩ như vậy tôi đã hiểu rất kỹ ý nghĩa lời nói, ánh mắt của mẹ nhìn bộ ly tách uống trà chỉ là một ước mơ không có thật!
Nhưng cũng chính lúc cảm giác buồn thấm thía với kiếp nghèo khó của gia đình phủ trùm lên tâm trí của mình. Trí nhớ tôi chợt lóe sáng lên một niềm vui, hy vọng. Tuần tới tôi sẽ có 400 đồng tiền lương dạy kèm cho 2 đứa bé con một gia đình khá giả trong cư xá Chí Hoà. Tại sao tôi không nhín tiền cà phê, ăn sáng hay dẹp chuyện mua sách vở, quần áo... Coi nó như một món tiền không có hay như là một lần bị đánh mất rồi dành món tiền đó để làm cho giấc mơ của mẹ tôi thành sự thật nhỉ? Nghĩ như vậy, ánh mắt tôi sáng lên, kín đáo, nhỏ nhẹ, tôi hỏi mẹ:
- Giá họ để thế mà thôi, ai cấm mình trả giá mẹ nhỉ?
Vẫn không rời ánh mắt ra khỏi chiếc hộp, với âm thanh bâng quơ và có tí chút thất vọng, mẹ nói nhẹ:
- Dù có trả giá, quá lắm họ cũng chỉ bớt được vài chục mà thôi, nó vẫn qua xa, ngoài tầm tay của gia đình mình con ạ!
&
Rồi đúng như dự tính, một tuần lễ sau, ngay sau khi dạy học xong cho 2 đứa bé tôi nhận chiếc phong bì đựng đúng 4 tờ giấy bạc 100 đồng, tiền công cho một tháng trời. Mỗi tuần 3 buổi, mỗi buổi 2 giờ dạy kèm, từ tay bà mẹ hai đứa bé. Không một tí lưỡng lự, tôi đến ngay tiệm bán hàng gia dụng. Sau khi dựng xe sát gần cửa tiệm, trước khi bước vào tiệm, tôi còn đứng lại trước khung cửa kính một tí chút, đưa mắt nhìn rất kỹ bộ tách uống trà một lần nữa như để kiểm xét xem quyết định của mình đã chín chắn chưa?
Khi tôi vửa bước đến ngưỡng cửa tiệm, người bán hàng là một cặp vợ chồng khá đứng tuổi. Bà vợ đon đả với vẻ vui mừng bước ra đón tiếp tôi. với nụ cười rất tươi, săn đón, bà ta hỏi:
- Cậu muốn mua gì, tôi lấy cho cậu xem?
Tôi đưa tay lên gãi đầu ( có lẽ đây là hành động ngượng ngùng hay thiếu tự tin của cố hữu của tôi thì phải?) , ngần ngừ tí chút tôi nói rất khẽ:
- Cháu muốn mua bộ ly tách uống trà, mà bác bầy trong tủ kính. Xin hai bác lấy cho cháu xem.
Người đàn bà bước đến chiếc tủ , cầm chiếc hộp, đưa tay phủi lấy lệ vài hạt bụi rồi thận trọng đưa chiếc hộp cho tôi:
- Hàng sứ mác Đài Loan, loại rất tốt và đẹp lắm. Cậu cứ thoải mái xem thật kỹ rồi hãy mua.
Tôi để hộp ly tách lên chiếc bàn, trước mặt người đàn ông. Chậm rãi tôi lấy từng chiếc ly, cái đĩa và chiếc bình ra xem, chắc chắn không có một vết nứt hay vết bể nào trước khi xếp chúng ngay ngắn trở lại vào chiếc hộp. Ngước mắt nhìn khuôn mặt đang chờ đợi của hai vợ chồng người bán hàng tôi trả giá:
- Hai bác có thể bớt cho cháu được không? 450 đồng đắt quá.
Người vợ vui vẻ, nhanh nhẩu trả lời:
- Tôi để đúng giá đó, nhưng nếu cậu muốn mua tôi bớt cho cậu 10 đồng làm quen mà thôi.
Chẳng cần đợi tôi trả lời bà ta nói tiếp:
- Cậu đừng sợ mua hớ , tôi không muốn mang tiếng bán cho đàn ông con trai mà nói thách đâu.
Nghe bà ta nói, lời đoán giá của mẹ tôi hiện ra trong trí nhớ, cho tôi cảm giác người bán hàng không phải là người nói dối. Nhưng tôi nghĩ, dù có kèn cựa xuống giá thêm ở mức 430 hay 420 đồng, nó vẫn là con số cao hơn chiếc phong bì mà tôi đang có trong túi áo. Ngần ngại một tí, móc chiếc phong bì trong túi áo ra, tôi im lặng để lên trên chiếc hộp bình trà, trước mặt người đàn ông. Tôi nhìn vào khuôn mặt khá phúc hậu của ông ta và nói rõ ràng:
- Cháu nói thật với hai bác, mấy hôm trước mẹ cháu nhìn thấy hộp ly tách này rất thích, nhưng lúc đó mẹ con cháu không có tiền để mua nó. Hôm nay, cháu vừa lãnh lương dạy kèm được đúng 400 đồng cho một tháng tiền công. Nếu hai bác vui lòng bán với gía 400 đồng thì cháu mua còn hơn nữa thì cháu thành thật không có!
Người đàn ông nghe tôi nói, có vẻ ngạc nhiên, hình như xúc động vì sự thật thà đến nỗi khó tin của tôi. Ông hướng mắt về phía người vợ như có ý dò hỏi. Người vợ nhìn trở lại ông ta rồi quay sang tôi bà ta nói:
- Cậu không còn một vài chục nào nữa hay sao? Nếu thế cậu cứ lấy đi, còn thiếu vài chục khi nào cậu có tiền mang đến trả cho tôi cũng được. Với giá 400 đồng, thành thật là gía vốn của tôi đó.
Chẳng biết sao, vừa nghe người đàn bà nói xong, tôi không một tí ngần ngại trả lời bà ta:
- Thôi! Cháu chẳng muốn thiếu nợ hai bác đâu. Nếu hai bác thấy giúp được, bán cho cháu, còn không, cháu đành chờ dịp khác vậy. Tiền lương cả tháng trời dạy học cho một bộ ly tách, cháu chỉ mong làm vui lòng ước mơ của mẹ cháu. Cháu không thể nào cố gắng hơn được nữa.
Nghe tôi nói, người chồng hơi cau mày , thẩn thờ đưa mắt nhìn người vợ có ý dò hỏi. Hình như ông ta động lòng với lời phân trần rất thật của tôi. Ông ta nhìn vẻ thất vọng hiện trên khuôn mặt tôi khi tôi sửa soạn quay bước. Chẳng cần chú ý đến ánh mắt còn lưỡng lự của bà vợ, ông ta cầm cái hộp đưa tận tay tôi và nói:
- Cậu đã nói vậy thì tôi chẳng còn gì để chối từ nữa. Thật như vậy, chúng tôi bán vốn, làm quà cho cậu đó.
Trong khi tôi cũng ngẩn ngơ vì không ngờ kết quả tốt như vậy. Bà vợ hơi cau mày nhìn người chồng ra vẻ không vui rồi miễn cưỡng, im lặng bỏ chiếc hộp vào bịch giấy đưa tận tay cho tôi và nói bâng quơ:
- Ông nhà tôi vẫn thế. Bán buôn mà không có lời thì làm sao mà sống?
Tôi im lặng, nhìn ông chồng với ánh mắt biết ơn, cúi đầu mấy lần tỏ vẽ cám động vì lòng tốt của ông ta rồi tôi nói vài câu cám ơn rất chân tình đến vợ chồng người bán hàng trước khi cầm chiếc hộp bước ra khỏi tiệm. Khi tôi đang loay hoay cột cẩn thận chiếc bịch giấy đựng chiếc hộp vào đằng sau xe, sửa sọan dẫn xe xuống đường thì hai vợ chồng ông chủ tiệm đi ra, đến gần tôi. Bà vợ không còn vẻ khó chịu như lúc đưa chiếc hộp cho tôi nữa, miệng bà ta mỉm cười nhìn tôi rồi bà bước hơi thụt lại phiá sau người chồng. Ông chồng đến gần tôi, thân thiện vỗ nhẹ lên vai tôi, ông ta nói:
- Có thật cậu mua bộ tách ly này tặng mẹ cậu không? Và có thật đây là 400 đồng cả tháng tiền dạy kèm của cậu không?
Ngạc nhiên vì thái độ kỳ lạ của họ, ngước mắt ngẩn ngơ nhìn cả hai vợ chồng họ, tôi trả lời:
- Thật như vậy đó hai bác ạ. Không lẽ cháu lừa đảo hai bác sao?
Người đàn ông không nói gì nhưng miệng mỉm cười , đưa tay rút trong túi áo ra tờ giấy bạc 20 đồng, đưa tận tay tôi và nói:
- Chúng tôi tặng cậu thêm 20 đồng nữa, coi như tí tình cảm qúi mến con người chân thành, tình nghĩa của cậu đó.
Tôi cau mày nhìn vợ chồng người bán tiệm, xác nhận thái độ qúa tốt mà họ đã dành cho tôi là sự thật. Tôi lắc đầu lia liạ nói với họ:
- Thôi! thôi! Cám ơn hai bác. Hai bác bán rẻ , giá vốn cho cháu đã là tốt lắm rồi. Cháu không dám nhận đâu.
Người chồng vỗ thêm một cái nhẹ vào vai tôi rồi ông nhét tờ giấy bạc vào túi áo tôi, sau đó nở nụ cười ra vẻ đùa cợt, nhìn tôi ông nói:
- Cậu cứ cầm lấy đi, đừng suy nghĩ mà mất vui. Tôi đoán sau này cậu sẽ thành công. Khi đó cậu làm ông này ông nọ, nhớ đến chúng tôi là được rồi. Biết đâu trong tương lai, thời thế đổi thay, cậu lại có dịp giúp đỡ lại chúng tôi thì sao! Đừng ngại ngần gì cả.
Nói xong ông ta thân thiện vỗ nhẹ thêm vài cái lên vai tôi rồi nắm tay người vợ đi vào tiệm.
Sau lần mua bán đầy tinh nghĩa đáng nhớ đó, Thời gian còn là sinh viên, tôi vẫn thường đi qua con đường Lê Văn Duyệt, khu gần Ngả ba Ông Tạ. Lần nào tôi cũng đưa mắt nhìn vào tiệm bán hàng của hai ông bà chủ tiệm tốt lòng, họ đã cho tôi một dịp may để có một món quà tặng mẹ, Người mẹ mà tôi mãi mãi kính yêu.
&
Thời gian trầm lặng trôi qua. Sự khôn lớn và vững trãi kèm theo sự tính toán chính xác trong cuộc sống và dĩ nhiên cũng nhờ những may mắn trong đời, tôi đã dựa vào chuyên môn của mình và những cố gắng không ngừng nghỉ. Tôi đã giúp gia đình tôi khá gỉa, an định hơn trong cuộc sinh nhai với một cơ sở chăn nuôi nho nhỏ ở Bà Quẹo. Mẹ tôi không còn phải cực nhọc ngồi lề đường bán chuối, bán rau như xưa nữa. Bà ở nhà chăm sóc đàn heo, đàn gà theo sự hướng dẫn kỹ thuật và tính toán kinh tế của tôi. Những đứa em của tôi cũng chẳng phải nhọc nhằn với lao lực. Chúng được ăn học đầy đủ như bạn của chúng, chúng không còn phải bữa đói bữa no hay mặc cảm nghèo hèn như xưa nữa. Đã thế tôi còn lo được cho một đứa em trai đi du học tự túc... Mức sống gia đình tôi đã êm nhẹ bước vào giới trung lưu trong xã hội, nơi mà vẫn còn mù mịt khỏi lửa chiến tranh!
Rồi cũng với những may mắn tiếp theo vẫn đến với tôi và gia đình trong sự hy sinh chịu khó của bố mẹ, dĩ nhiên cả những sự cố gắng miệt mài của bản thân, tôi đã vượt khó vươn lên. Có lẽ với nhiều người khác, bạn bè quen biết của tôi thì đó chỉ là những chuyện bình thường, chẳng có gì để phô trương, tự hào. Nhưng với tôi, với gia đình bố mẹ tôi lại là những kỳ tích trong đời. Tôi đã tuần tự bước vào đời sống một cách yên bình trong khá nhiều ngạc nhiên của bố mẹ và họ hàng thân quen của tôi. Nhưng bất cứ khi nào có dịp đi qua căn nhà, tiệm buôn của vợ chồng người bán hàng. Tôi luôn luôn nhớ đến họ, hai vợ chồng họ đã cho tôi một ân tình không lớn lắm nhưng nó lại đóng góp vào ý nghĩa món quà sang trọng đầu tiên mà tôi đã dành cho mẹ. Món qùa đã một lần nhờ nó mà tôi đã làm đầy ắp được ước mơ qúa đơn gỉản nhưng đầy ý nghĩa của mẹ con chúng tôi.
&
Thời gian vẫn trầm lặng đi qua, tôi tốt nghiệp đại học, rồi xa gia đình xuống Cần Thơ làm việc, cuộc đời tôi thực sự bước vào một giai đoạn mới. Giai đoạn với nhiều ngoắt ngoéo của xã hội, nó không còn đơn giản như cuộc đời và lối sóng của một sinh viên trong xã hội. Vai trò một người công chức, có những ghanh đua , đố kỵ… phức tạp và cao cấp hơn. Lúc tôi rời xa gia đình xuống Cần thơ nhận nhiệm sở, bộ ly tách uống trà, món quà kỷ niệm thấm đậm lòng kính yêu của tôi cho mẹ, vẫn hiện diện trên bàn mỗi khi có khách đến chơi. Mặc dù với thời gian 6 chiếc tách và đĩa của bộ tách không còn lành lặn như thời mới mua. Vài cái ly đã sứt mẻ, chiếc bình pha trà vẫn còn quai nhưng miệng vòi đã bị bể một góc, lộ ra lớp sành bị ố nâu bởi trà. Nhưng với tôi ( và có lẽ với mẹ tôi nữa ) dù cũ nhưng nó vẫn là một di tích của kỷ niệm rất đẹp món quà của thằng con trai biếu mẹ. Nó cũng là một dấu vết ước mơ rất đẹp, thấm đẫm mồ hôi và khói lửa chiến tranh của mẹ con tôi vào thời kỳ nghèo túng của gia đình.
Đúng như vậy, từ khi tốt nghiệp xong đại học, xuống Cần thơ làm việc, gia cảnh của anh em tôi đã đổi thay. Sự nghèo túng xa xưa đã thực sự bị đẩy vào dĩ vãng một cách ngoạn mục, nhưng bộ ly tách kỷ niệm đó vẫn hiện diện cùng với vài ba món quà khác của tôi mua cho mẹ, cho gia đình. Những món qùa khác, sau này tôi mang về cho gia đình lúc tôi đã lớn khôn, giàu có hơn, dĩ nhiên cũng giá trị hơn. Chẳng hạn chiếc máy may hiệu Mitsubishi của Nhật, bộ salon bằng gỗ lim đen bóng..v..v... Ngay cả căn nhà khang trang với vườn cây, chuồng trại chăn nuôi, tất cả những di vật đó như những ghi dấu sự khôn ngoan tính toán trong sự trưởng thành của tôi, thằng con trai trưởng nam trong gia đình.
Từ Cần Thơ, thỉnh thoảng tôi vẫn tạt về Sàigòn thăm gia đình và hướng dẫn bố mẹ tôi trong việc chăn nuôi. Bộ ly tách càng ngày xưa theo thời gian, nó càng sứt mẻ, cập kễnh, èo ọt hơn, nhưng nó vẫn hiện diện cho đến đầu năm 1974 khi tôi rời xa VN đi tu nghiệp dài hạn ở Nhật bản. Tôi ra đi như một đặc ân của vị thần may mắn trong khi đất nước vẫn còn mịt mùa bom đạn, tang thương và chết chóc. Nhưng chỉ hơn một năm sau ngày tôi đến Nhật bản, cuộc đổi dời tháng 4 năm 1975 xẩy đến. Chiến tranh chấm dứt đã đưa hầu hết những người VN dính dấp đến miền Nam VN ở ngoại quốc hay trong nước vào một giai đoạn mới. Gia đình tôi và ngay cá nhân tôi cũng chẳng phải là trường hợp ngoại trừ.
Biết bao nhiêu cực nhọc lại đến với tôi vì việc học hành chưa xong, rồi tôi phải tìm sống với những công việc lao lực, thấp hèn ở xứ người. Tôi lại phải kiếm tiền gửi về cưu mang gia đình đang khó khăn trong thời buổi giao thời sau cuộc chiến.
Mãi đến năm 1979 tôi mới có dịp để quyết định rời xa Nhật bản đi định cư tại Thụy sĩ, khởi đầu một giai đoạn sống thoải mái hơn vì công việc phù hợp với chuyên môn của tôi. Nhưng chỉ khỏang một năm sau cái khởi đầu may mắn đó, tôi nhận được tin buồn từ quê nhà báo tin mẹ tôi mất! khi đất nước vẫn còn đang ngụp lặn với thiếu thốn khó khăn, khi đó vợ tôi mang thai đứa con đầu lòng mà mẹ tôi vẫn mong ước biết tên hay có dịp nhìn thấy đứa cháu nội đầu tiên dù trai hay gái! Nhưng tất cả đã lỗi điệu với thời gian! Mẹ tôi mất khi đứa cháu đầu tiên chưa chào đời. Mẹ tôi mất khi những ước mơ báo hiếu của tôi vẫn còn khiếm khuyết dở dang… để rồi cả đời tôi mang cảm giác ân hận vì không có dịp báo dưỡng người mẹ mà tôi mãi mãi kính yêu.
Năm 1984 tôi dẫn vợ con về thăm quê nhà lần đầu tiên. Căn nhà rộng rãi ngày xưa của gia đình tôi lại trở về với trống không vì nghèo túng...Vẻ nghèo túng xa xưa lại hiện ra như hoà đồng với những khó khăn chung của đất nước sau cuộc chiến tranh qúa dài. Tôi đã ngẩn ngơ, lòng tôi buốt đau khi nhìn thấy cô em gái vô tình đem chiếc bình pha trà ngày xưa rót cho vợ chồng tôi ly trà nóng. Nhìn chiếc bình ngày xưa cùng với mấy cái ly tạp nhạp, đủ dạng thức để trên bàn. Tôi làm sao quên được cái bình trà bóng bẩy ngày xưa khi nó còn mới mà tôi đã mua nó 400 đồng, trọn vẹn một tháng tiền lương dạy kèm của tôi 17, 18 năm về trước để tặng mẹ? Ngày nay, lúc dẫn vợ con trở về thăm quê hương, ngẫu nhiên tôi nhìn thấy nó đã sứt mẻ với mầu nâu đen loang lổ. Vòi chiếc ấm có lẽ đã bị bể nhiều lần, nó như một khúc cụt ngủn, thô kệch thò ra khỏi thân ấm. Trên bàn cũng chỉ còn lại duy nhất một cái tách của bộ ly tách ngày xưa , xếp cùng vài chiếc tách khác loại cũng sứt mẻ. quai của nó cũng đã cụt lủn như núm mảnh sành gắn vào thân tách. Miệng chiếc tách thì có 5, 6 vết mẻ cũng hoá đen vì mầu trà đóng lại. Còn những chiếc đĩa nho nhỏ, xinh xắn đựng tách ngày xưa không còn nữa, tất cả đã hoàn toàn biến mất.
Trong cái nghèo nàn đó, hình ảnh người mẹ quá cố với những hy sinh tột cùng cho gia đình trở lại với tôi, mang cho tôi cái cảm giác thẩn thờ, nhớ mẹ. Cuốn phim dĩ vãng với biết bao nhiêu nỗi cực nhọc nghèo túng của gia đình một lần nữa được quay lại trong ký ức tôi. Rồi trong vẻ ngẩn ngơ nhớ mẹ đó, ký ức lại kéo tôi về một lần cùng với mẹ lên chợ Cầu Ông Lãnh mua chuối.
Hôm đó, hai mẹ con chúng tôi phải gò mình phụ người phu xe ba gác khuân những buồng chuối nặng trên dưới 10kg từ vựa chuối xếp lên xe ba gác. Quần áo lem luốc với mồ hôi và nhựa chuối. Nhiều khi công việc dồn dập vì chuối từ Long Khánh về muộn, chúng tôi phải làm vội vàng cho kịp mang chuối về nhà, cắt rời từng nải trước khi đem ủ khí đá cho kịp chín để mang ra chợ bán vào hôm sau. Nhiều khi, hàng về quá muộn hai mẹ con ngồi chờ đến gần tối, quá bữa cơm. Bụng thì đói, miệng thì khát nhưng vẫn chẳng dám ăn uống vì sợ tốn kém. Đôi khi thấy tôi uể oải, biết tôi đói, mẹ kêu cho tôi đĩa cơm tấm, cơm sườn rẻ tiền ở góc chợ ... nhưng mẹ không ăn mà chỉ ngồi nhìn. Có lần tôi hỏi sao mẹ không ăn, mẹ trả lời:
- Con ăn đi, mẹ không đói, hơn nữa về nhà ăn cơm ngon hơn.
Về sau , khi lớn khôn, tôi nghĩ lại mà ân hận vì đã không hiểu được mẹ. Đĩa cơm dù chỉ giá 5, 10 đồng nhưng không phải là bé nhỏ với cái vốn của người bán buôn bên lề đường. Mẹ không ăn chỉ vì muốn tiết kiệm, hy sinh cho gia đình đó mà thôi.
Sau khi chất đầy chuối lên chiếc xe ba gác, tôi và mẹ phải cong lưng đẩy phụ người phu xe cho xe có đà lăn bánh, rồi hai mẹ con chạy xe gắn máy chầm chậm theo sau. Đến mỗi ngã đường có đèn giao thông, nếu xe ba gác phải dừng lại vì đen đỏ, tôi lại phải dừng xe bên lề đường, cùng với mẹ phụ đẩy cho người phu ba gác để xe có chớn lúc khởi đầu khi đèn xanh.
Tôi còn nhớ có một lần. Không biết vì lần đó mua chuối qúa nhiều hay vì chiếc xe ba gác lọc cọc, trục bánh xe không trơn hay cũng có thể vì gặp phải người ba gác gìa nua, yếu đuối, ông ta không đủ sức để đẩy xe nhanh hơn? Chiếc xe dừng lại ở góc ngã tư Lê Văn Duyệt - Hồng Thập Tự. Ba người chúng tôi còng lưng đẩy chiếc xe nhưng nó vẫn ỳ ạch, chậm chạp lăn bánh chưa khỏi phần giữa đường, khi mà đèn xanh đã đổi mầu. Chẳng biết làm sao hơn, chúng tôi vẫn gò lưng giúp người phu xe đẩy cho mau hơn. Lúc đó từ đường Hồng Thật Tự một chiếc xe ô tô du lịch muốn quẹo trái nhưng nó đã phải dừng lại giữa đường vì chiếc xe ba gác của chúng tôi đang ì ạch cản lối. Trên xe ô tô, lái xe là người đàn ông trung niên, bên cạnh có lẽ là người vợ trẻ hơn, dáng dấp sang trọng. Dù bận đẩy xe nhưng tôi cũng nhìn thấy nét mặt bực bội, không vui của hai người vì chúng tôi đã làm cản trở không cho xe họ quẹo, họ phải chờ đợi.
Khi đuôi chiếc xe ba gác vừa đi qua đầu chiếc xe ô tô, người chồng lách nhẹ tay lái để băng qua bên kia đường. Xe của họ chưa kịp vượt qua giữa đường, người đàn bà quay mặt ra khỏi khung cửa sổ, với vẻ bực tức bà ta chửi lớn:
- Cả lũ mù hay sao mà không trông thấy đèn đỏ!
Lời chửi bới của bà ta đã làm tôi khựng lại, ngước mắt nhìn mẹ và người phu ba gác. Tôi ngạc nhiên, vì cảm giác như hai người không nghe lời tôi nói, vẫn bình thản, chẳng có gì tỏ ra bực tức với lời chửi xỗ xàng của người đàn bà trên xe ô tô. Tôi nhìn mẹ và hỏi:
- Mẹ không nghe thấy người ta chửi mình mù sao?
Mẹ tôi quay sang tôi, chẳng có tí giận tức, nói với tôi:
- Tại sao con chú ý đến cái chuyện nhỏ nhặt đó làm gì cho tội vào thân? Mau lên! trở lại lấy xe đi, mẹ chờ con bên kia đường.
Trên đường về, nghĩ đến sự bình thản của mẹ, nhớ đến nét mặt bực bội của hai vợ chồng người lái ô tô.Tôi tự hỏi ai là người khổ sở, mẹ tôi hay vợ chồng người lái xe khi gặp một chuyện chẳng có gì cần thiết để phải bực bội, chửi mắng nhau? Đó cũng là bài học rất nhỏ nhoi mà đã làm tôi nhiều lần suy nghĩ trong đời vậy.
Rồi cuốn phim ký ức lại kéo tôi về với cực nhọc, liều lĩnh trong những lần chở mẹ vượt khói bom sau ngày tết Mậu Thân 1968, về miền quê mua rau muống bán kiếm lời. Tôi lại nhớ đến hai vợ chồng người bán tiệm tốt bụng đã cảm thương mà bán cho tôi bộ ly tách uống trà với gía vốn 400 đồng, đúng một tháng lương dạy học của tôi. Họ đã cho tôi có thêm một lần trong đời trả nghĩa sinh thành, trả công dưỡng dục cho mẹ tôi! Đã vậy, lúc rời xa, họ lại còn hào phóng tặng cho tôi thêm 20 đồng để ghi đậm thêm dấu ấn cảm tình cùng lời chúc cho tương lai của tôi, làm ông này, ông nọ nhưng đừng bao giờ quên họ. Ngày nay, khi tôi đã mòn gót phong trần trên thế giới, thời gian đã qua đi … khi trở về thăm lại VN, nơi mà ngày xa xưa cực nhọc mồ hôi đó. Nhìn lại chiếc bình trà, cái tách nhem nhuốc với thời gian, bóng hình hai vợ chồng người chủ tiệm tốt lòng đó lại hiện lên trong trí nhớ tôi. Tôi tự hỏi những cơn giông của thời cuộc đã mang họ đi đâu? họ về đâu? Họ còn sống hay đã bất hạnh trở về với cát bụi trần gian?!
Thời gian đã qua đi rất lâu rồi. Tôi trở lại VN cùng với vợ và con trong một hoàn cảnh khác, hoàn toàn khác xa xưa của đất nước. Tôi trở về với âm thanh mừng vui trong lòng kẻ tha phương được nhìn lại quê nhà, tạm quên đi nỗi buồn viễn xứ. Tôi trở về với những giọt lệ buồn đau khi nhớ đến mẹ, người mẹ tuyệt vời, cả đời chỉ biết hy sinh cho chồng con, bây giờ không còn nữa. Bộ ly tách uống trà ngày xưa đã vỡ bể gần như toàn vẹn. Ngày nay bộ ly tách không còn tí gì cái sang trọng của nó xa xưa, dù chỉ một tí bóng bẩy lúc nó còn mới, trong hộp. Nhờ cái bóng bẩy đó mà mẹ tôi thường tự hào đem ra tiếp khách mấy mươi năm về trước. Tất cả bị thời gian làm biến đổi, tẩy rửa hết rồi! Buồn ơi và kỷ niệm nhớ thương ơi!
Rồi cũng trong cuốn phim dĩ vãng hiện ra đó. Tôi nhìn thấy tôi trong một lần tôi theo phái đòan Thụy Sĩ công tác ở Ethiopia, một quốc gia nghèo khổ đang bị nạn chết đói tung hoành ở Phi Châu. Một buổi sáng tôi và người bạn Thụy Sĩ bước vào một căn lều trong một trại tỵ nạn. Chúng tôi thấy một bà mẹ đã chết từ lâu, thân thể bà ta đã co cứng. Nằm bên cạnh bà ta là đứa con còm cõi giơ xương, nửa ngủ nửa thức vẫn còn ngậm vú mẹ, cặp vú lép xẹp chẩy dài như một chiếc bí tất nhăn nheo. Cảnh tượng đau thương và kinh sợ đó đã làm cho tôi và người bạn Thuỵ sĩ thẩn thờ im lặng kèm theo vài tiếng thở dài!
Rồi một lần khác, cũng tại Phi Châu, tôi và vài người bạn Thuỵ Sĩ ngồi trên chiếc xe ô tô trên đường đi đến trại tỵ nạn, qua một đường làng bên cánh rừng thưa. Chúng tôi phải dừng lại vì
thóang thấy một người nằm chết trong con rạch bên đường. Khi đến gần chúng tôi thấy một bà mẹ da đen khác cũng đã chết từ lâu. Trong vòng tay bà ta, một đứa bé gái khỏang 2 tuổi, thân hình lở loét, còm giơ xương vẫn còn say ngủ. Nhìn dạng thức người đàn bà co quắp, tất cả chúng tôi đều có cảm giác trước khi chết bà ta vẫn cố gắng ôm đứa con vào trong lòng như để chuyền cho nó hơi ấm cuối cùng từ tấm thân gầy guộc , thiếu ăn của bà ta. Hay ít ra bà ta muốn lấy thân mình che chở cho đứa con với những đe doạ của thú rừng, rắn rết...
Cũng trong lần dẫn vợ con về VN đầu tiên đó, ký ức lại kéo tôi nhớ đến một lần xem phim tài liệu chiếu về sự tàn phá kinh hoàng của trái bom nguyên tử ở Hiroshima Nhật bản. Một bà mẹ Nhật bản bị phỏng, thân thể, quần áo của bà ta bị cháy nám đứng bên lề đường, trước căn nhà của chính mình. Bà ta la hét, cầu cứu những người thất thểu đi qua, mong họ giúp để cứu cô con gái nhỏ 5 tuổi của bà. Con bé đang hét lên những tiếng thét kinh hoàng vì bị kẹt trong căn nhà xập đổ đang cháy. Nhưng chung quanh bà ta toàn là thây người chết, nếu có vài người còn sống sót thì họ cũng chỉ đủ sức lê bước như thây ma… thì làm sao họ còn sức lực để cứu giúp người khác được!?Trong trạng huống kinh hoàng đó, những lời cầu cứu vô vọng đau đớn của đứa bé trong ngọn lửa vẫn vang lên:
- Mẹ ơi con nóng quá! mẹ ơi cứu con!
Bên ngoài đường, người mẹ vẫn la hét đau thương trong vô vọng:
- Con ơi, tha lỗi cho mẹ! mẹ không làm sao cứu con được!... Con ơi, mẹ là người mẹ khốn nạn, đáng nguyền rủa! Mẹ nhìn thấy con đang chết , mẹ cảm nhận được cái nóng rát, khốn khổ của con trong lửa đỏ... Nhưng mẹ làm gì cho con được đây khi mẹ cũng đang chết đến nơi rồi! Con ơi, đứa con yêu thương mà chính mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng ơi , hãy tha thứ cho mẹ!
Bà mẹ khóc than, la hét cho đến khi bà ta gục ngã, ngất đi dù tiếng cầu cứu của đứa con đã tắt ngấm từ lâu trong làn lửa đỏ.
Tất cả hình ảnh đó đến với tôi, hiện ra trong trí não tôi. Cho tôi thêm một lần nữa hiểu rằng tình mẹ thương con là một loại tình cảm vĩ đại đáng tôn thờ. Dù người mẹ là người da đen, da trắng hay da vàng cũng vậy mà thôi. Mãi mãi là một dạng tình cảm tự nhiên, cao cả mà người mẹ nào cũng có. Nhưng chỉ khác, ở những xã hội, những nơi mà cuộc sống bấp bênh, nghèo đói vì thiên tai vì chiến tranh, những nơi gần gũi với bất hạnh chết chóc… Lòng mẹ thương con lại càng được thể hiện rõ ràng và đau xót hơn.
Với tôi câu nói: “Nơi trú ẩn an toàn nhất là lòng mẹ , nơi đáng phục vụ và yêu thương nhất là tổ quốc nơi mà người ta đã sinh ra, lớn lên với những kỷ niệm “. Lời nói đó, ý nghĩa đó luôn luôn với tôi là chân lý.
Hết
Zuerich, 10.05.06
(Lưu An)