Trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác, Đức Phật tuyên bố một câu làm chấn động cả thiên hạ, Ngài nói: ”Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật.” Phật chẳng dối gạt ai, lời nói này của Phật hoàn toàn chân thật, lời nói này chẳng phải là quyền cũng chẳng phải là thí dụ, mà đây là lời nói mà chỉ có Như Như trí mới hiểu nổi, như kinh Vô Lượng Thọ bảo: “Lấy Huệ vô ngại giải pháp Như Như.” Ở đây kinh dùng đến hai chữ “Như Như” để nói lên bản thể của kinh Vô Lượng Thọ vốn là từ Pháp thân của A Di Đà Phật diễn biến ra. Thế mới biết kinh này đồng với kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác, chỉ có người liễu ngộ Tự tánh mới hiểu được cái lý Như Như hàm chứa trong kinh. Thế nhưng, vì sao cái lý “hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật” ấy là bất biến, chẳng hề thay đổi mà chúng ta vẫn chẳng phải là Phật? Đó là vì chúng ta bị mê mất chính mình. Bị mê mất chính mình thì có sâu hay cạn khác nhau, mê nặng nhất là lục đạo phàm phu, mê nhẹ hơn một tí là Thanh văn và Duyên giác, mê nhẹ nhất là Bồ-tát, hoàn toàn chẳng mê thì gọi là Phật.
Nền giáo học của Phật-đà chỉ nhằm để phá mê khai ngộ, chẳng có gì khác. Khai ngộ là khôi phục Tự tánh, tức là khôi phục vô lượng trí huệ và đức năng trong tánh đức của chính mình. Tuy Phật đã dạy chúng ta khá nhiều phương pháp để khôi phục Tự tánh, nhưng các phương pháp ấy đều phải cậy vào sức tinh tấn tu học và sức định-huệ rất thâm sâu của chính mình mới có thể làm nổi, mà sức tu hành và định-huệ của chúng ta thì quá sức kém cỏi, lại cộng thêm muôn thứ chướng ngại của nghiệp lực; cho nên, tuy Phật diễn nói rất nhiều pháp môn vô cùng vi diệu, nhưng chúng ta chẳng có cách nào khôi phục nổi Tự tánh nếu chỉ cậy vào năng lực của chính mình. Chính vì lẽ đó, trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật từ bi nói ra một pháp môn vô cùng kỳ lạ và đặc biệt, một pháp môn hy hữu bậc nhất mà tất cả thế gian khó tin tưởng nổi; đó là pháp Trì danh Niệm Phật của Tịnh tông. Chúng ta chỉ cần y theo pháp môn này tu hành, cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới thì A Di Đà Phật sẽ có cách giúp chúng ta khôi phục Tự tánh.
Chúng ta phải biết, hết thảy muôn hình vạn tướng nghiêm tịnh hiện ra trong cõi Cực Lạc đều là do tánh đức của Phật A Di Đà lưu hiện ra để giúp chúng ta khôi phục Tự tánh. Cho nên, khi chúng ta quán chiếu cảnh giới trong cõi nước nghiêm tịnh này bằng Bát-nhã Vô Tri thì tánh đức trong Tự tánh của chúng ta cũng theo đó mà lưu xuất và biến hiện ra. Bản thể của tánh đức trong Tự tánh ấy chính là Tánh Không, tức là không tịch mà hết thảy vô tình và hữu tình chúng sanh đều có cùng một Chân tánh ấy. Tuy bản thể không phải là vật chất, thế mà hết thảy vật chất đều do từ bản thể ấy biến hiện ra. Do vậy, cái không của bản thể chẳng phải là không có gì. Nếu không là không có gì thì dễ hiểu quá rồi, đứa trẻ hai ba tuổi cũng đều hiểu được, Phật cần chi phải nói tới Tam Tạng, Mười Hai Bộ kinh để hiển bày cái không này và chúng ta cần gì phải cầu sanh Cực Lạc để không phục lại Tánh Không này. Như vậy, cái khó thể hiểu nổi của Tánh Không chính là “không tức là có.”
Vì Tánh Không là “không tức là có,” nên trong Tánh Không ấy mới biến hiện ra cõi Cực Lạc với đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm, mọi thứ trong cõi đó đều tự nhiên làm bằng bảy báu, đất bằng vàng ròng, rộng rãi bằng phẳng, không có hạn lượng, vi diệu đẹp đẽ, thanh tịnh trang nghiêm, siêu vượt mười phương tất cả thế giới. Thế nhưng, Tự tánh vốn sẵn có như vậy thì cớ sao lại nói là Không? Bởi vì cái có này chẳng có hình tướng, âm thanh, mùi vị chi cả, nên mắt chẳng thể thấy, tai chẳng thể nghe, mũi chẳng thể ngữi, lưỡi chẳng thể nếm, tay chẳng sờ được, mà ngay cả trong tâm tưởng cũng chẳng thể nghĩ ra được cái có ấy. Nói cách khác, cái không của Tự Tánh Không thể nhận biết được bằng sáu căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; nhưng nó lại xác thực là có tồn tại nên bất đắc dĩ phải gọi là không. Tuy được gọi là không, nhưng nó lại tồn tại khắp ở mọi nơi, không đâu chẳng có, nên cái không của Tự tánh chẳng phải là không có gì cả mà là tất cả.
Do “không tức là có” là điều rất khó hiểu, chẳng dễ gì dùng sáu căn để hiểu được, nên Phật A Di Đà phải từ trong Tánh Thật Không ấy biến hiện ra cõi nước Cực Lạc với vô lượng vô biên các thứ công đức trang nghiêm để biểu hiện cái tánh “không tức là có”, nhằm giúp chúng sanh khai ngộ Tánh Không mà khôi phục Tự tánh. Chúng ta có thể dùng một tỷ dụ để nói, điện đài vô tuyến được đặt ở mọi nơi trên thế giới đều phát ra làn sóng điện, nên làn sóng vô tuyến điện chỗ nào cũng có. Mặc dù chúng ta chẳng có cách chi nhận ra làn sóng điện bằng sáu căn, nhưng chúng ta có thể dùng máy móc để nhận thấy được nó. Do vậy, tuy chúng ta nói, sóng vô tuyến điện là không, nhưng nó lại tồn tại ở khắp mọi nơi. Vậy cái không này là có chớ chẳng phải là chẳng có gì! Nói thật ra, sóng vô tuyến điện vẫn có hình sắc, âm thanh, nên vẫn có thể dùng dụng cụ khoa học để đo lường độ dao động của nó. Còn cái không trong Tự tánh thì vô cùng vi tế, nó còn vi tế hơn sóng vô tuyến điện, nên chẳng có máy móc nào có thể đo lường được nó, mà chỉ có thể cảm nhận được bằng cái tâm vô cùng thanh tịnh và bình đẳng của Tự tánh mà thôi. Phật A Di Đà cảm nhận được tâm dao động của từng mỗi chúng sanh bằng bản tâm vô cùng thanh tịnh bình đẳng của Ngài, rồi từ đó biến hiện ra cảnh tướng giúp chúng sanh nhận thấy nó; pháp này gọi là “Mượn Thức Trí.” Pháp “Mượn Thức Trí” hoạt động giống như cái máy TV nhận làn sóng điện của một đài truyền hình nào đó, rồi hiện ra hình trên màn ảnh để người bắt đài được thấy. Từ tỷ dụ này, chúng ta nhận thấy, Phật A Di Đà ví như cái máy TV giúp cho chúng sanh nơi cõi nước ấy nhận thấy được “không tức là có.” Hết thảy các thứ làm bằng bảy báu như đất đai, sông núi, ao suối, rừng cây, hương thơm, ánh sáng v.v... nơi cõi Cực Lạc đều là pháp trợ đạo do A Di Đà Phật biến hiện ra để hiển thị pháp môn Không chính là “không tức là có. Có tức là không.” Do vậy, kinh Vô Lượng Thọ mới bảo: “Nếu có chúng nào vãng sanh Cực Lạc, tiếp xúc được với bất cứ cảnh tướng, âm thanh, mùi vị nào nơi cõi Cực Lạc đều tự nhiên trụ pháp Bình Đẳng, chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, được Bất Thoái Chuyển.” Ở đây, Đức Phật A Di Đà dùng pháp môn Nhị Lực để giúp chúng sanh nơi ấy khôi phục Tự tánh.
Các nhà Khoa học hiện thời đã chứng minh, hết thảy các hiện tượng vật chất đều là hiện tượng dao động mà thôi. Trong phần cuối cùng của bản chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ viết: “Về căn bản là chẳng có vật chất tồn tại.” Như vậy, vật chất từ đâu mà có? Các nhà Duy Thức Học nói, vật chất là do từ vọng tâm biến hiện ra. Vì tất cả vật chất và vọng tâm đều cậy vào Tánh Không làm bản thể nên các kinh điển Đại thừa đều nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh.” Từ câu nói này, chúng ta có thể dùng phương pháp Nhất Tâm để nhận biết Tánh Không. Nhất Tâm là tâm bất động, bất động thì mới có thể đo lường cái động. Niệm Phật là pháp tu Nhất Tâm, niệm niệm cho đến vô niệm thì được Nhất Tâm, được Nhất Tâm thì tự nhiên khôi phục Tự tánh, thấy được Tánh Không của vạn vật. Pháp này hoàn toàn từ ngay trong tâm mình mà chứng ngộ, chẳng thể nương vào bất cứ một pháp nào ở bên ngoài mà có thể tìm được. Vì lẽ này, tu hành trong Phật pháp coi trọng tu Thiền định. Tâm thanh tịnh là Thiền định, Thiền định là tâm thanh tịnh. Thiền còn có nghĩa là “ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng khởi niệm.” Người tu pháp Nhất Tâm phải dùng cái tâm thanh tịnh bình đẳng “ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng khởi niệm” để quán sát và tiếp diện với tất cả cảnh giới thì đó gọi là Thiền định. Khi tâm của mình được thanh tịnh đến một mức độ kha khá nào đó, thì sẽ nhận biết được sự dao động của tâm; đó gọi là Tha Tâm thông. Sức Tha Tâm thông có sâu, có cạn tùy theo lực thanh tịnh của tâm. Thí dụ, tâm Phật rốt ráo thanh tịnh nên có thể nhận được tâm thô lẫn vi tế của hết thảy chúng sanh. Tâm A-la-hán chưa rốt ráo thanh tịnh nên chỉ có thể nhận biết tâm thô của chúng sanh, chẳng thể nhận biết tâm vi tế. Tâm phàm phu quá sức bất tịnh nên ngay cả tâm thô của chính mình cũng không nhận biết thì làm sao nhận biết tâm thô của người khác?
Tâm thanh tịnh thấy được nguồn gốc của vật chất, rồi từ đó mà phát triển thêm lên cho đến khi hoảng nhiên đại ngộ, thấy được tất cả chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Cảnh giới mà Đức Phật nói trong kinh Vô Lượng Thọ là cảnh giới Hiện Lượng do Ngài đích thân trông thấy bằng cái tâm vô cùng thanh tịnh của Ngài, chớ chẳng phải là do từ suy lường theo lý luận, chẳng phải do từ toán học mà tính toán ra, cũng chẳng phải do dùng máy móc hiện đại để quán sát v.v… Những điều được Đức Phật nói trong kinh Vô Lượng Thọ chỉ có người khai ngộ Tự tánh hoặc vãng sanh Cực Lạc mới chứng minh được. Do vậy, kinh Vô Lượng Thọ chính là môn Vật lý Khoa học Vũ trụ mà chỉ có người chứng được Nhất Tâm mới có thể ấn chứng hoàn toàn. Người học pháp môn Niệm Phật trước hết phải tu định, tức là tu cái tâm thanh tịnh, chuyện gì có thể chẳng cần nghĩ tới thì tốt nhất là đừng nghĩ, chuyện gì có thể chẳng vấn vương thì tốt nhất là đừng vướng bận, tận hết khả năng khiến cho tâm địa thanh tịnh, đó là bí quyết nhập Phật, khôi phục Tự tánh. Tất cả pháp môn Phật nói, chẳng ngoài mục đích dẫn đến Nhất Tâm bởi vì Nhất Tâm chính là Nhất chân, chỉ có Nhất Tâm mới là thật, Nhị tâm là giả tâm, chẳng phải là Chân tâm. Do đó, chỉ có niệm Phật đến Nhất Tâm Bất Lọan thì Nhất chân Pháp giới, Tây Phương Cực Lạc mới hiện tiền.
Phương pháp của Tịnh độ Tông rất đơn giản, thẳng chóng, chỉ lấy nhất tâm Niệm Phật làm tông chỉ, chỉ lấy một nguyện vãng sanh Cực Lạc làm mục tiêu để đạt đến. Hễ được Nhất Tâm thì có thể nhập vào Nhất chân. Trong Nhất chân, năng là Nhất Tâm và sở là Nhất chân, nên năng và sở chỉ là một không hai, dẫn đến cảnh giới “dứt bặt ngôn từ, tâm hạnh đều diệt.” Do vậy, khi nào công phu niệm Phật của mình đạt tới Nhất Tâm thì năng và sở cùng mất, chẳng cần phải phóng tâm rong rủi chạy ra bên ngoài đi tìm Nhất chân mà Nhất chân lại tự nhiên hiện tiền. Cho nên, trong phẩm Cõi Nước Nghiêm Tịnh, Phật dùng cảnh tướng trang nghiêm thanh tịnh của Tây Phương Cực Lạc để nêu lên một đạo lý chân chánh là “Tâm tịnh thời cõi nước tịnh. Tâm bình thời cõi nước bình.” Hiện nay, chúng ta chưa được Nhất Tâm, nên đối trước bất cứ chuyện nào bên ngoài, chúng ta cũng đều khởi tâm động niệm, tam tâm, nhị ý cứ mãi khởi dậy, làm mê mất Nhất chân. “Mê mất Nhất chân” có nghĩa là tuy Nhất chân vẫn ở ngay trước mắt nhưng chẳng thể nhận ra. Đấy cho chúng ta thấy, tâm địa thanh tịnh là yếu tố quan trọng bậc nhất trong tất cả pháp môn tu đạo giải thoát; chúng ta phải luôn ghi nhớ lời Phật dạy mà giữ lấy Nhất Tâm. Nếu chúng ta mất đi tâm thanh tịnh thì dù có nói pháp như hoa trời rơi rụng, thì cái pháp ấy cũng chỉ là pháp ngoài tâm, pháp nơi miệng, pháp ngoài da, chớ chẳng phải là Chánh pháp của Như Lai. Chánh pháp của Như Lai chỉ có trong Chân tâm Tự tánh, ngoài tâm không có pháp nào là thật cả.
Chúng ta tu tập hạnh buông xả, tức là lấy Nhất Tâm làm mục tiêu để niệm Phật sẽ tự mình nhận thấy rõ ràng, tâm mình ngày càng thanh tịnh hơn, trí tuệ ngày càng sáng tỏ hơn, vướng mắc ngày càng ít hơn, nghiệp chướng ngày càng giảm dần, hoàn cảnh cuộc sống ngày càng thịnh vượng kiết tường, sức khỏe ngày càng dồi dào, tướng hảo ngày càng quang minh đẹp đẻ; đó đều là các thứ hoa báo sanh ra từ công phu niệm Phật đắc lực. Người niệm Phật có năng lực, có tiến bộ, ắt hẳn sẽ được cái hoa báo ấy ngay trong hiện đời; lúc ấy mới hy vọng có ngày được vãng sanh Cực Lạc, thành tựu đạo nghiệp. Ngược lại, nếu chúng ta niệm Phật mà chẳng thấy các thứ hoa báo này hiện ra thì phải tự biết công phu niệm Phật của mình có chướng ngại, chẳng đúng với lý đạo được giảng dạy trong kinh. Thật ra, hầu hết chúng ta đều có chướng ngại; cho nên, chúng ta phải thường luôn trao giồi học vấn bằng cách đọc kinh, nghe giảng kinh, rồi dùng những pháp lý nhận biết đó để quán sát tâm hạnh của chính mình, cốt hầu gạt lọc những cấu nhiễm tương tục sanh ra nơi tâm mình.
Bản thể của Chân tâm Bổn tánh là cái mà Lục Tổ Huệ Năng đã nói: “Nào ngờ Tự tánh vốn sẵn trọn đủ.” Chỉ cần chúng ta niệm Phật được Nhất Tâm thì liền kiến tánh, tâm thông thì vạn pháp đều thông, vì sao? Vì hết thảy vạn pháp chẳng có pháp nào không trọn đủ ở trong bản thể của Chân tâm Bổn tánh. Chúng ta học Phật, chớ chẳng phải là làm công việc Phật học. Học Phật là thực hành các pháp Văn (lắng nghe), Tư (suy nghĩ kỹ càng), Tu (hành động tùy thuận Chân như). Phật học là công việc thuộc về nghiên cứu lịch sử, triết lý của Phật giáo. Nếu chúng ta coi học Phật là một môn Phật học thường thức thì đó là một quan niệm sai lầm. Người học Phật mà lầm lẫn nền tảng của việc học Phật thì không thể nào thành tựu đạo nghiệp. Lục Tổ suốt đời học Phật chớ chẳng làm công việc Phật học, nên Ngài mới sớm khai ngộ. Sau khi khai ngộ, Lục Tổ Huệ Năng nói: “Nào ngờ Tự tánh có thể sanh ra vạn pháp.” Tướng của sum la vạn tượng trong vũ trụ được biến hiện từ Chân Không là giả, chỉ có tánh ngưng lặng của Chân Không mới là thật. Tuy tướng ấy là giả, tánh ấy là thật, nhưng cả hai đều thuộc về Chân Không, nên giả và thật chẳng hai, tánh và tướng như một. Vì thế, trong phẩm Cõi Nước Nghiêm Tịnh, kinh dùng cái giả để hiển bày cái thật, tức là dùng tướng của cảnh giới để hiển hiện tánh của Chân Không. Nếu chúng ta học kinh mà thấy được thật tướng của các pháp vốn là như Lục Tổ đã nói: “Nào ngờ Tự tánh vốn sẵn trọn đủ. Nào ngờ Tự tánh có thể sanh ra vạn pháp,” thì gọi là đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tức là không còn bị trói buộc trong bất cứ pháp nào ngay cả Phật pháp, đạt được đại tự tại trong tất cả pháp, không cần dụng công tu đạo mà vẫn thường luôn đạt được lợi ích chân thật nơi Phật pháp, dẫn đến sự thành tựu viên mãn quả Bồ-đề trong tương lai.
Phẩm Thành Tựu Viên Mãn ghi: “Tỳ-kheo Pháp Tạng tu hạnh Bồ-tát, tích công dồn đức vô lượng vô biên. Ðối tất cả pháp thường được tự tại, ở chỗ ‘hay biết’ đều không phải do ngôn ngữ phân biệt. Lời thệ nguyện phát, thành tựu viên mãn, như thật an trụ, trang nghiêm đầy đủ, oai đức rộng lớn, thanh tịnh cõi Phật.” Bởi do Tỳ-kheo Pháp Tạng buông xả được hết thảy pháp chấp, ngã chấp, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, nên đối tất cả pháp thường được tự tại, không cần dụng công tu hành nên mới tích lũy được vô lượng vô biên công đức. Vì sao vô công dụng đạo mà lại có thể tích lũy được vô lượng vô biên công đức? Vì hễ còn dụng công tu đạo tức là còn khởi tâm động niệm, còn tạo tác, nên chỉ đạt được công đức hữu lậu, mà công đức hữu lậu thì có giới hạn, chỉ có công đức vô lậu mới là vô lượng vô biên không có hạn lượng. Nói cách khác, chỉ khi nào tất cả các tướng của tánh đều ngưng lặng thì trí huệ và đức năng vốn sẵn trọn đủ trong Chân tâm Tự tánh mới bộc phát ra mà có thể nghe thông thấy suốt rộng lớn đến mức không cùng tận, không ngằn mé, chẳng có giới hạn, được đại tự tại trong tất cả các pháp. Đây là thể tánh của Chân tâm Tự tánh, chẳng thể dùng ngôn ngữ phân biệt hay những phương pháp đo lường nào mà có thể biết được. Cảnh giới này chỉ có chư Phật mới hay biết, chư Bồ-tát trong cõi Phật phương khác chẳng đạt được cảnh giới này, duy trừ Bồ-tát nơi cõi Cực Lạc do nương vào sức Đại Nguyện Lực gia trì của A Di Đà Phật mới đạt được cảnh giới đại tự tại, rõ thông không ngằn mé này.
Từ sự giảng dạy của Đức Thế Tôn trong các kinh Đại thừa, chúng ta biết được nguyên nhân làm trí huệ và đức năng của chúng ta bị giới hạn đều là do từ khởi tâm động niệm! Trong Chân tâm chẳng có giới hạn, nhưng khi chúng ta khởi tâm động niệm bèn có giới hạn, chính mình là thủ phạm vạch ra cái giới hạn ấy bằng cái tâm phân biệt, chấp trước của chính mình, nên mới có biết bao nhiêu sự rắc rối xảy ra. Chúng ta hãy quán sát xem, nếu chúng ta đem cái quả địa cầu này so sánh với vũ trụ bao la không ngằn mé thì cái quả địa cầu này bao nhiêu lớn? Nó thật là quá sức nhỏ bé phải không? Thế mà, con người lại phân chia quả địa cầu này thành nhiều lãnh thổ, quốc gia, tỉnh, huyện, làng xóm v.v... nhỏ bé, riêng biệt, khác nhau. Do đâu mà con người phân chia ra những giới hạn như vậy? Đều là do từ khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, tham sân si mạn của con ngưới mà vạch ra những giới hạn này, để rồi từ đó đã có biết bao nhiêu rắc rối xảy ra, chiến tranh dấy lên khắp nơi để tranh dành đất đai, lãnh thổ v.v… Từ xưa đến nay, con người vẫn thường luôn đấu tranh chưa từng chấm dứt, để dành miếng đất riêng cho mình, cho gia đình mình, cho đồng bọn mình, cho quốc gia mình v.v.... Kết quả là mãnh đất sanh hoạt của họ càng lúc càng bị thu nhỏ lại, chớ chẳng có lớn ra bao giờ? Thí dụ: Nếu quốc gia của mình có mâu thuẩn xung đột với các quốc gia khác thì mình chẳng được tự do qua lại với những quốc gia đó. Nếu bản thân của mình gây mâu thuẩn xung đột với mọi người xung quanh thì chính mình sẽ không thể tự do qua lại giao tiếp với họ, tự mình cô lập mình, tự mình giới hạn không gian sinh hoạt của chính mình; rốt cuộc chính mình chẳng được tự do tự tại. Vì lẽ đó, ngày nay người dân trong một số quốc gia trên thế giới vẫn còn bị giam hãm trong quốc gia của họ, họ bị kiểm soát chặc chẽ, chẳng được tự do du lịch sang các nước khác. Vì sao khi chúng ta muốn du lịch sang một quốc gia khác thì phải trải qua quá trình xin phép rờm rà, vất vả để có được một tờ giấy phép thông hành (passport, visa)? Vì các nước khác sợ mình vào quốc gia của họ để phá hoại sự thanh bình của họ, nên họ kiểm soát mình rất chặc chẽ. Như vậy, có phải là con người đã tự vạch ra sự giới hạn này rồi hay sao?
Nếu con người chúng ta không vạch ra giới hạn thì sẽ chẳng có rắc rối và chiến tranh xung đột giữa các quốc gia với nhau. Nước này với nước kia đều là một nước, tỉnh này tỉnh kia đều là một tỉnh, huyện này huyện kia đều là một huyện, nhà này nhà kia đều là một nhà v.v... cho đến ta, người và chúng sanh đều là một, tất cả những sự giới hạn trên thế giới này đều bị xóa bỏ, không còn ranh giới nữa. Lúc ấy chúng ta có thể tự do tự tại đi khắp địa cầu, nhẫn đến có thể dạo khắp mười phương thế giới một cách tự do tự tại, chẳng có rắc rối, không có chướng ngại chi cả. Thể tánh của Chân Không vốn chẳng có giới hạn, nhưng do chúng sanh có quan niệm sai lầm, phân biệt, chấp trước mà tự đặt ra giới hạn, nên mới tạo ra chiến tranh, động loạn khắp nơi. Bao nhiêu phiền não khổ đau, bao nhiêu tranh chấp, chết chóc, đói khổ, bao nhiêu tội nghiệp đều sanh ra từ quan niệm hư vọng, sai lầm này. Vì thế, Đức Phật dạy chúng ta hãy buông bỏ hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước để cho tâm mình được mở rộng bao trùm cả tận hư không khắp pháp giới. Tâm lượng càng mở rộng bao nhiêu thì không gian sinh hoạt của mình càng to lớn bấy nhiêu! Tâm của thánh chúng nơi cõi Cực Lạc bao dung rộng lớn như thái hư, trang nghiêm thanh tịnh tợ lưu ly, nên đất đai nơi cõi ấy làm bằng vàng ròng, rộng rãi bằng phẳng, không có thể hạn lượng; thế mới biết, pháp giới là Chân tâm, Chân tâm là pháp giới. Trong hết thảy các pháp đều không chấp trước, chẳng chấp trước pháp thế gian, cũng chẳng chấp trước Phật pháp, cũng chẳng chấp trước đối với các tướng ta, người, chúng sanh và thọ giả, thì không gian hoạt động của mình sẽ là tận hư không biến pháp giới, chẳng có chỗ nào mà chẳng có Pháp thân của ta hiện hữu.
Nếu chúng ta học Phật mà lại nhất định chấp trước đối với Tây Phương A Di Đà Phật, Đông Phương Dược Sư Phật, Sa-bà Thích Ca Mâu Ni Phật v.v... thì vẫn là còn có chấp trước, phân chia, nên cảnh giới của chúng ta vẫn còn có giới hạn! Nếu chúng ta chú tâm phản tỉnh, suy nghĩ lời Phật dạy thì sẽ thấy Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di Đà Phật, Dược Sư Như Lai cho đến hết thảy chư Phật có chỗ nào khác nhau đâu? Chúng ta có thể nói rõ ràng cái khác nhau giữa chư Phật hay không mà lại phân chia, giới hạn? Dù chúng ta có suy nghĩ đến cùng đời, tận kiếp cũng chẳng thể nói ra một mảy khác biệt giữa chư Phật. Vì sao? Vì tâm của các Ngài đều là nhất, chẳng phải nhị thì làm gì có khác nhau chứ! Nhất là thật, nhị là giả! Chúng sanh do có nhị tâm, tam tâm, tứ tâm cho đến vô lượng tâm nên cảnh giới mới có giới hạn. Tâm của chư Phật chỉ là nhất nên cõi nước Phật rộng lớn đồng với tánh của Chân Không, đất bằng vàng ròng, rộng rãi bằng phẳng, không thể hạn lượng. Chúng ta học Phật chỉ là để hiểu rõ điều này, chẳng có lời nào khác để nói nữa; thật sự có muốn nói cũng chẳng thể nói nên lời.
Người có tâm phân biệt thì thấy sự giới hạn giữa Tây Phương Cực Lạc thế giới và thế giới Sa-bà. Người không có tâm phân biệt thì Tây Phương Cực Lạc và Sa-bà chỉ là một. Vì sao? Vì tâm tánh chỉ là một thể, trong một thể thì làm sao có thể vạch ra giới hạn cho được? Không chỉ thế giới Tây Phương của A Di Đà Phật và thế giới Sa-bà của Thích Ca Mâu Ni chẳng có giới hạn, sai biệt mà hết thảy cõi nước của mười phương chư Phật cũng đều chẳng có giới hạn, chẳng có sai biệt. Cho nên mới nói, Nhất Tâm chính là Nhất chân Pháp giới; tất nhiên trong Nhất chân Pháp giới, mười phương pháp giới không còn nữa. Nói vậy, các cõi nước có tồn tại và có giới hạn hay không? Nếu xét theo tướng thì có, quyết định là có các cõi nước khác nhau; nhưng nếu xét theo thể tánh của Chân Không thì chẳng thể tìm thấy giới hạn của các cõi. Giống như trong một căn phòng được thắp sáng bởi nhiều ngọn đèn; nếu xét về tướng thì chúng ta thấy và xác định được có nhiều ngọn đèn được đặt ở vị trí khác nhau, nhưng nếu xét về tánh thì chúng ta không thể tìm được giới hạn giữa ánh sáng của ngọn đèn này và ngọn đèn kia. Chúng ta chẳng thể tìm thấy sự giới hạn của ánh sáng bởi vì chúng hòa lẫn với nhau thành một. Cõi nước của chư Phật cũng giống như những ngọn đèn được đặt ở vị trí khác nhau, nhưng tâm địa quang minh của chư Phật và tất cả chúng sanh đều chẳng có giới hạn, chẳng thể tách rời. Quang minh nơi tâm địa của từng mỗi chúng sanh và chư Phật chính là trí huệ và đức năng trong Bản tánh. Do vì tâm địa quang minh của tất cả chư Phật, Bồ-tát và hết thảy chúng sanh trong mười phương cõi Phật vốn chẳng có giới hạn, chẳng có sai khác, nên kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác mới nói: ”Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật.”
Phật đã nói ra chân tướng của sự thật là như vậy, thế mà con người chúng ta lại tự mình vạch ra giới hạn; đấy là một sai lầm lớn lao và cũng là lý do vì sao chúng ta mê hoặc, điên đảo, hằng ngày suy tưởng loạn xạ và bị gọi là vô minh. Đức Phật nói lời thật thà với chúng ta nghe rằng: “Vô minh là vô thủy;” nghĩa là vô minh chẳng có khởi đầu. Nói cách khác cho dễ hiểu, vô minh khởi lên là do chúng ta suy nghĩ lung tung mà có, khi chúng ta dấy lên vọng tưởng bèn có vô minh, nhưng khi chúng ta chẳng dấy lên vọng tưởng bèn chẳng có vô minh. Do vô minh chẳng có chỗ khởi đầu nên cũng chẳng có kết thúc! Không khởi đầu cũng không kết thúc chính là Nhất Tâm! Nhất Tâm là như Bát-nhã Tâm kinh nói: “Không có vô minh cũng không có hết vô minh.” Nhất Tâm sẽ không loạn, không loạn sẽ thấu hiểu rõ ràng, rành rẽ chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sanh, tất cả nghi lự đều tiêu tan; đây là tầm trọng yếu của việc tu Nhất Tâm. Nhất Tâm là bản thể thường hằng bất biến của Tự tánh, chẳng phải do tu mà có, cũng chẳng hề mất đi, mà Tự tánh của chư Phật và hết thảy các loài chúng sanh đều giống hệt như nhau, nên Đức Phật mới tuyên bố: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật.”