Quán Thế Âm Bồ-tát là đại biểu cho tâm đại từ đại bi của chư Phật, Bồ-tát. Ngài hiện thân trên khắp cùng tất cả quốc độ để dẹp khổ, ban vui cho chúng sanh. Người đời thường gọi Ngài là mẹ hiền Quán Thế Âm bởi vì nhân duyên của Ngài đối với chúng sanh rất sâu đậm như sự quan hệ giữa mẹ và con. Lúc mẹ đang cưu mang con chín tháng trong bụng thì con và mẹ chỉ là một thể; mẹ chia sẻ cho con từng giọt máu, từng hơi thở và tâm tưởng của mình. Lúc con sanh ra đời, mẹ lại không rời xa con dù nữa bước, luôn ở bên cạnh nâng niu chăm sóc cho con. Mẹ lại dùng máu huyết của mình biến thành dòng sữa tươi để nuôi dưỡng cho con mau khôn lớn. Lúc con còn trẻ thơ, thân tâm của mẹ và con khác chi là một, mẹ ăn uống no đủ thì con sẽ có nhiều sữa để uống, mẹ vui vẻ thì con tươi cười, mẹ buồn đau thì con mếu khóc, mẹ cường tráng thì con khỏe mạnh, mẹ đau yếu thì con bệnh hoạn v.v... Chính vì lẽ đó, tất cả những gì mẹ làm cho mẹ như là ăn uống, ngủ nghỉ, thể dục thể thao, đọc sách, làm việc v.v... cũng đều chỉ là để làm lợi lạc cho con trẻ, để cho con trẻ được thụ hưởng tất cả những thứ tốt lành nhất trong đời ngay nơi thân tâm của mẹ. Mẹ là mảnh ruộng tốt lành, mẹ là Phật tại thế, mẹ là nơi mà con trẻ nương tựa để khôn lớn thành người hữu dụng trong gia đình, xã hội, quốc gia và nhân loại; vì thế cổ nhân có câu: “Mẹ khéo thì con ngoan.”
Chư Phật, Bồ-tát cũng thế, các Ngài tu hành thành tựu vô lượng vô biên công đức và phát đại thệ nguyện thành lập cõi Tịnh độ thù thắng cũng chỉ là để cho chúng sanh có chỗ nương vào mà thoát ra khỏi sanh tử khổ đau. Phật, Bồ-tát dùng thân tâm của chính mình làm nơi cho chúng sanh nương tựa, là chỗ để nuôi dưỡng tuệ mạng của chúng sanh, là trường học cho chúng sanh học tập để tăng trưởng Phật chủng tánh cho đến khi thành Phật. Phật, Bồ-tát là người bi tâm dẹp khổ, từ tâm ban vui cho hết thảy chúng sanh; vì vậy, Phật, Bồ-tát chính là cha mẹ muôn thuở của tất cả chúng sanh!
Trong kinh Vô Lượng Thọ, ông A Nan phát tâm từ bi, nguyện dứt khổ, ban vui cho hết thảy chúng sanh như mẹ hiền mong con trẻ thoát khổ, được vui hưởng tất cả những thứ quí báu nhất trong hết thảy thế giới, nên mới hỏi ra nghĩa lý vi diệu, phát khởi nhân duyên cho Phật nói ra kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, nên đức Phật vô cùng hoan hỷ mà khen ngợi Ngài A Nan rằng: “Lành thay! Lành thay! Ông vì thương xót, muốn làm lợi lạc cho chúng hữu tình, hay hỏi nghĩa lý vi diệu như thế!” Đức Phật khen ngợi Ngài A Nan đã hỏi ra nghĩa lý vi diệu, bởi vì câu hỏi của Ngài A Nan hàm chứa pháp thể u huyền, dứt bặt ngôn ngữ phân biệt mà chỉ có Phật cùng Phật mới biết. Pháp đó chính là pháp môn Niệm Phật, một pháp môn chỉ cần tu một đời mà bình đẳng chánh tánh thành Phật. Phật lại khen ngợi, công đức sự hỏi của Ngài A Nan vượt hơn cả công đức nhiều kiếp cúng dường cho tất cả chư vị A-la-hán và Bích-chi-Phật khắp cả trời đất, công đức này cũng vượt hơn cả nhiều kiếp bố thí cho chúng sanh trong sáu đường đến trăm ngàn vạn lần.
Vì sao câu hỏi của A Nan lại có công đức to lớn đến thế? Đó là bởi vì từ câu hỏi của Ngài A Nan mà dẫn ra pháp môn Tịnh độ, thâu trọn phàm thánh, lợi độn cùng được độ, hoành siêu tam giới, mau chóng vượt lên bốn cõi Tịnh độ. Hết thảy chúng sanh trong tương lai đều do nhờ pháp này mà được giải thoát rốt ráo tròn đầy, thành Phật trong đời vị lai. Vì Tịnh độ pháp môn là một pháp môn Nhất thừa liễu nghĩa, vạn thiện đồng quy, là pháp môn được hết thảy chư Phật cùng khen ngợi, được các kinh luận cùng nêu, nên đức Thế Tôn khen ngợi công đức của lời hỏi của Ngài A Nan là rất hay, rất hay!
Lại nữa, do kinh Vô Lượng Thọ chính là ứng hóa thân A Di Đà Phật trong thế gian này, nên lời dạy trong kinh ví như máu huyết, như sữa mẹ nuôi lớn thân tâm của con trẻ. Chúng sanh chỉ cần nhiếp giữ thọ trì một kinh này mà một đời được thành Phật đều là do công đức bố thí vô lượng vô biên, vô cùng thâm sâu của Phật A Di Đà. Phật A Di Đà chính là mẹ của chúng sanh, Phật Thích Ca chính là cha của chúng sanh. Từ bao kiếp đến nay, cha mẹ chưa hề ngừng nghỉ nuôi dưỡng, giáo dục, che chở và dẫn dắt đàn con đến chỗ Niết-bàn thường quả, nơi mà cha mẹ và hết thảy chư Phật cùng trụ; vì thế, đức Phật mới bảo: “Này ông A Nan! Như Lai đem lòng Ðại Bi vô tận, thương xót ba cõi, thị hiện ra đời, mở sáng Ðạo Giáo, muốn cứu quần sanh, ban lợi chân thật, khó gặp khó thấy, như hoa ưu đàm hy hữu xuất hiện, nay lời ông hỏi, đặng nhiều lợi ích.”
Chư Phật Như Lai lấy đại bi làm thể và dùng nước đại bi, tức là lấy Phật pháp để nhiêu ích chúng sanh, giúp chúng sanh thành tựu hoa quả trí huệ của chư Phật thì cũng giống mẹ hiền dùng sữa trong thân mình để nuôi lớn con trẻ. Đức Như Lai do tâm đại bi chẳng cùng tận, nên thương xót hết thảy chúng sanh trong tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới) mà thị hiện ra đời để mở sáng đạo giáo. Ðạo giáo của Phật là chánh đạo, là giáo pháp mà Thế Tôn đã giảng dạy trong suốt cả một cuộc đời của Ngài ở trong thế gian này. Vì vậy, “mở sáng Ðạo Giáo” có nghĩa là rộng tuyên kinh pháp của Như Lai. Tổ Thiện Đạo Đại sư bảo: “Như Lai sở dĩ xuất hiện trong đời, là chỉ để diễn nói bổn nguyện của Phật A Di Ðà.” Vì muốn cứu quần sanh nên chư Phật Như Lai dùng đại bi làm thể, làm cho kẻ chưa độ được độ, kẻ chưa an được an, còn kẻ được độ rồi thì mau chóng thành Phật, bằng cách mở sáng đạo giáo để giáo hóa chúng sanh. Vì muốn ban cho chúng sanh cái lợi chân thật phát xuất từ Đại Bi Nguyện của Phật Di Ðà, nên đức Như Lai muốn khiến hết thảy chúng sanh đều nhập vào Di Ðà Nguyện Hải.
Thuận theo lời chỉ dạy của Tổ Thiện Đạo Đại sư, Tịnh tông lấy Di Ðà Bổn Nguyện làm cái lợi chân thật, mà cái lợi chân thật này lại được gói gọn trong một câu Phật hiệu A Di Đà. Chúng sanh do nương vào Di Ðà Bổn Nguyện và câu Phật hiệu để thoát ly tam giới thì cũng giống như đứa trẻ sơ sanh nương vào tình thương yêu, sự chăm sóc, dạy dỗ và sữa mẹ để khôn lớn. Nếu không có sự chăm sóc và sữa mẹ nuôi lớn con trẻ thì con trẻ cũng chẳng thể nào sống được, huống gì là trở nên khôn lớn. Do vậy, Di Đà Bổn Nguyện và câu Phật hiệu chính là điều cần thiết, không thể thiếu được nếu chúng sanh muốn mau chóng thoát khỏi tam giới, cứu cánh Phật quả.
Pháp Tạng Tỳ-kheo, tức tiền thân của A Di Đà Phật lúc còn tu nhân, thành tựu bổn nguyện chân thật. Nếu nói rộng ra là Bốn Mươi Tám Đại Nguyện chân thật. Nếu nói gọn lại thì chỉ là một câu danh hiệu A Di Đà Phật. Bốn Mươi Tám Đại Nguyện của Phật A Di Đà ví như huyết mạch của mẹ, danh hiệu A Di Đà Phật ví như dòng sữa mẹ, mà sữa mẹ thì lại sanh ra từ máu huyết của mẹ. Do vậy, sữa mẹ cũng chính là máu huyết của mẹ, máu huyết của mẹ cũng chính là sữa mẹ, chớ chẳng phải là hai thứ khác nhau. Vậy, chúng sanh niệm một câu Phật hiệu chính là nuốt trọn Bốn Mươi Tám Đại Nguyện của Phật A Di Đà vào trong tâm mình, nguyện mình cùng Phật nguyện trở thành một thể chẳng hai.
Do vậy, Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử dạy: “Thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tiếp nối câu Phật hiêu như con nhớ mẹ, như mẹ thường luôn nhớ con trẻ, thì nhất định sẽ được vãng sanh, thấy Phật A Di Đà, chứng Vô sanh Nhẫn.” Phẩm Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng dạy rằng: “Ví như có người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như thế dù gặp cũng như không gặp, dù có thấy cũng như không thấy. Nếu hai người nhớ nhau, hai người nhớ nghĩ nhau sâu xa như thế cho đến từ đời này sang đời khác, giống như hình với bóng.” Ý là, chư Phật luôn nghĩ nhớ đến chúng sanh như mẹ luôn nghĩ nhớ con trẻ, nhưng chúng sanh trọn chẳng nghĩ nhớ đến Phật thì dù có gặp nhau cũng chẳng nhận ra. Nếu cả hai bên cùng nhớ nghĩ lẫn nhau bèn cảm ứng đạo giao giống như bóng và hình chẳng hề tách rời nhau. Cha mẹ nghĩ đến con cái thì chỉ một đời, đời sau chẳng còn gặp gỡ, dẫu có gặp nhau cũng chẳng nhận biết. Còn Phật đối với chúng sanh thì thường luôn nghĩ nhớ đời đời kiếp kiếp chẳng hề đoạn dứt, chỉ có người chứng quả mới nhận hiểu nổi. Thập Nhị tổ của Liên tông, Triệt Ngộ Đại sư do thấu rõ tâm Phật, nên mỗi khi giảng đến ân cứu khổ ban vui của Như Lai, thường lệ rơi theo tiếng giảng kinh; thính chúng ngồi nghe Ngài giảng kinh cũng đều cảm động sa nước mắt.
Hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều do tâm tưởng sanh, chúng sanh là chúng sanh trong tâm Phật, chư Phật là Phật trong tâm chúng sanh. Nếu chẳng phải là sự nhận biết ấy phát xuất từ Tự tánh, thì sẽ chẳng thể có cảm ứng đến mức vừa nghe tiếng Phật, lông tóc liền dựng đứng hoặc chảy nước mắt. Do tâm là chủ tể, nên lúc khởi tâm nghĩ nhớ đến Phật thì tâm ấy liền biến thành cái tâm có đức Phật ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Chúng ta cứ dựa vào cái tướng Phật ấy mà niệm niệm, mà nghĩ nhớ, không gián đoạn thì lâu ngày chày tháng, tâm ta tự nhiên trở thành từ bi như tâm Phật. Trong tâm luôn nhớ Phật, niệm Phật và từ bi như Phật thì tướng hảo dần dần cũng trở thành đoan trang, nghiêm chỉnh, nhu hòa giống như Phật; đấy gọi là “tướng tùy tâm chuyển.”
Trong sách chú giải Quán kinh, Thiện Đạo Đại sư viết: “Chín phẩm vãng sanh đều là do gặp duyên sai khác.” Người vừa nghe đến pháp môn Niệm Phật, bèn tin tưởng, ngay lập tức tiếp nhận, dù có phải chết bất đắc kỳ tử cũng một lòng niệm Phật, ấy chính là người thiện căn chín muồi, nên một đời niệm Phật nhất định đắc lực. Còn như người thiện căn chưa chín muồi nhưng gặp phải duyên lành, lúc lâm chung gặp được thiện tri thức khai thị pháp môn Niệm Phật vãng sanh, giúp họ lay động túc căn trong quá khứ, phát tâm chuyên trì danh hiệu Phật, cũng được thành tựu đạo vãng sanh. Do đó, khai thị hộ niệm cho người sắp lâm chung là điều vô cùng quan trọng và cần thiết, giúp người chưa có đầy đủ thiện căn cũng được vãng sanh, thoát khỏi luân hồi sanh tử.
Từ những lý lẽ trên, chúng ta biết rõ cái “nghĩa lý vi diệu” mà Ngài A Nan thưa hỏi và lời phúc đáp của đức Phật vô cùng chân thật, nó bao gồm đầy đủ Giáo, Lý, Hạnh, Quả, nêu rõ cái ích lợi lớn lao chính là danh hiệu Phật, và sự cứu cánh của cái lợi lớn lao ấy chính là Niết-bàn Vô thượng Diệu quả. Chính vì vậy mà đức Phật mới khen ngợi Ngài A Nan đã hỏi ra cái nghĩa lý vi diệu này. Sách Bình Giải so sánh ý nghĩa của lợi chân thật, bằng những so sánh các phương tiện quyền giả như sau: Nếu so sánh pháp thế gian với Tiểu thừa thì pháp Tiểu thừa là chân, pháp thế gian là giả. Nếu so sánh pháp Tiểu thừa với Quyền Ðại Thừa, Quyền Ðại Thừa là chân, Tiểu thừa là giả. Nếu đem so sánh Quyền Ðại Thừa với Thật Ðại Thừa như Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v... thì Thật Ðại Thừa là chân, Quyền Ðại Thừa là giả. Nếu đem so sánh Thật Ðại thừa Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v… với nguyện thứ 19 của Phật Di Ðà: ‘Phát tâm Bồ-đề, tu các công đức, cung kính thực hành sáu Ba-la-mật kiên cố bất thoái, lại lấy tất cả thiện căn hồi hướng, nguyện sanh nước con’ thì nguyện 19 là chân, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa... là giả. Vì cớ sao? Vì Hoa Nghiêm và Pháp Hoa lấy vãng sanh làm mặt lợi ích của kinh, nhưng các kinh ấy vẫn chưa ra khỏi nguyện 19, tức là chưa giải quyết vấn đề sanh tử đại sự cho chúng sanh ngay trong đời này. Nếu đem so sánh nguyện 19 với nguyện 20: ‘Nghe danh hiệu con, hằng nhớ nước con, phát tâm Bồ-đề, kiên cố bất thối, trồng các cội đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh Cực Lạc,’ thì nguyện 20 là chân, nguyện 19 là giả. Nếu đem so sánh nguyện 20 với nguyện 18 (Mười Niệm vãng sanh) thì nguyện 20 là giả, nguyện 18 là chân, là viên đốn nhất trong pháp viên đốn. Vì sao? Vì nguyện 18 quy kết toàn bộ Bốn Mươi Tám Đại Nguyện vào trong một danh hiệu A Di Đà Phật dẫn dắt chúng sanh vãng sanh thành Phật. Viên đốn tột bực không gì hơn kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa; thế mà nay còn bị Sách Bình Giải chê là quyền giả nếu đem so sánh với kinh Vô Lượng Thọ. Sách Bình Giải chỉ khen ngợi Nhất thừa Nguyện Hải, sáu chữ hồng danh của kinh này là viên đốn nhất trong tất cả các pháp viên đốn, chân thật nhất trong tất cả các thứ chân thật nhất!
Hiềm vì căn cơ của chúng sanh quá kém cỏi, chẳng thể tu theo các kinh Thật Đại Thừa khác mà có thể nhanh chóng thành Phật, chỉ có Nhất thừa Nguyện Hải của Tịnh tông, sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật” mới có thể giúp cho hết thảy các căn cơ một đời này thành Phật. Tại sao? Bởi vì hãy được vãng sanh ắt sẽ chứng Bồ-đề, phàm Thánh niệm Phật đều bình đẳng như nhau, mười người tu mười người được sanh, vạn người tu vạn người vãng sanh, nên kinh này vượt trổi hơn các kinh khác. Hơn nữa, kinh này có thể ban cho chúng sanh cái lợi chân thật là vì những điều được giảng trong kinh đều là Chân thật tế. Cõi mầu nhiệm Cực Lạc chính là do A Di Ðà Phật trụ vào Chân thật tế biến hiện ra. Ba thứ trang nghiêm: Cõi Phật, Phật và Bồ-tát thành tựu tất cả các nguyện tâm trang nghiêm vào trong một pháp cú, một pháp cú là thanh tịnh cú, thanh tịnh cú là Chân thật Trí huệ Vô vi Pháp thân. Vậy, Chân thật tế chính là Vô vi Pháp thân, mà Vô vi Pháp thân lại chính là Thật tướng. Bởi do y báo và chánh báo của cõi Cực Lạc đều là do chân thật trí huệ của A Di Đà Phật hiện ra; cho nên, hễ ai nhập vào được pháp môn này thì mỗi việc đều là nhập Thật tướng. Vì hết thảy các thứ trang nghiêm thù thắng trong kinh Vô Lượng Thọ đều là chân thật như vậy, nên mới có thể ban cho chúng sanh cái lợi chân thật.
Vì vậy, trong tất cả những pháp ban bố cái lợi chân thật thì không pháp nào hơn được pháp này. Vì thế, đức Phật mới bảo: “Này ông A Nan! Như Lai đem lòng Ðại Bi vô tận, thương xót ba cõi, thị hiện ra đời, mở sáng Ðạo Giáo, muốn cứu quần sanh, ban lợi chân thật, khó gặp khó thấy, như hoa Ưu đàm, hy hữu xuất hiện.” Theo các kinh, Ưu Ðàm là loại hoa khó gặp, khi nào có Phật ra đời nó mới xuất hiện. Vì vậy, hoa Ưu Đàm được dùng để ví với giáo pháp chân thật này của Phật thật là khó gặp gỡ. Nay do nhờ vào lời hỏi của Ngài A Nan mà bổn hoài của đấng Thích Tôn được mở toang ra, hoằng nguyện độ sanh của Phật Di Ðà được tỏ rõ, nên Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật bèn đem pháp chân thật này giải bày hết cả ra để lợi ích khắp quần sanh. Vì vậy, Phật khen A Nan rằng: “Nay lời ông hỏi, đặng nhiều lợi ích.”
Đức Như Lai đã triệt để giác ngộ chân tướng của vũ trụ nhân sanh, hết thảy chư đại Bồ-tát cũng khó thể đo lường nổi được trí tuệ, rốt ráo tròn đầy, không chướng ngại của Thế Tôn. Đức Thế Tôn có năng lực chỉ trong một thời gian ngắn ngủi mà kéo dài ra thành vô lượng ức kiếp, cũng như đem thời gian dài như vậy quy về trong một niệm, mà thân thể và các căn không tăng không giảm, không sanh không diệt. Vì thế, kinh Pháp Hoa mới nói, đức Thế Tôn giảng kinh Pháp Hoa suốt mười sáu kiếp, thế mà người nghe tưởng chừng như là trong khoảng một bữa ăn. Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn cũng bảo: “A Nan nên biết, Như Lai Chánh Giác, trí ấy khó lường, không có chướng ngại, trong một khoảnh niệm có thể trú vào vô lượng ức kiếp. Thân cùng các căn, không tăng không giảm, tại vì sao thế? Ðịnh huệ Như Lai, thông suốt rốt ráo, đối tất cả pháp có thể đắc được tự tại tối thắng.”
Vì sao đức Phật lại có năng lực, đạo đức, trí huệ to lớn như vậy? Bởi vì tâm của đức Như Lai thanh tịnh, bình đẳng nên Ngài mới có trí tuệ rốt ráo, thông suốt không có giới hạn. Kinh này gọi trí tuệ ấy là Như Lai Chánh Giác, với Chánh Giác này đức Như Lai có thể thường ở trong hết thảy các pháp mà đạt đến chỗ tự tại tối thắng. Trí giác chân chánh chứng ngộ hết thảy các pháp của Như Lai là Chân Trí từ Chân tâm hiển lộ ra. Chân trí ấy mầu nhiệm đến cùng tuyệt, chiếu soi tột cùng pháp giới, chẳng phải là điều mà người hạ căn phàm tình như chúng ta biết được nổi. Bởi vì Phật chứng pháp Niết-bàn sâu rộng đến cùng cực như vậy, nên kinh nói Chánh Giác của Như Lai khó thể suy lường.
Lại nữa, kinh này nêu lên sự kiện rằng, Chánh Giác của Thích Ca Như Lai là do nương theo Nhất Như thừa của Phật A Di Ðà mà thành Chánh Giác, nên Phật Thích Ca và Phật Di Ðà là cùng một Chân như, tức là cùng một Pháp thân; đấy cho ta thấy, ứng thân của Phật Thích Ca hiện tướng lành ngay trong pháp hội thật ra chính là Bổn địa Pháp thân của Thích Ca Như Lai đang ở trong Niệm Phật tam muội mà trụ vào Nhất Như thừa của Phật Di Ðà. Do Phật Thích Ca trụ vào Niệm Phật tam muội ấy mà phát sanh trí huệ thắng diệu nên trí ấy khó thể nào mà suy lường nổi, ngay cả các bậc Địa thượng và Ðẳng giác Bồ-tát cũng không thể nào tính kể, suy lường nổi, huống gì là Nhị Thừa và phàm phu chúng ta. Cũng giống như vậy, trong pháp môn Tịnh độ, người niệm Phật nương vào Nhất Như thừa của A Di Đà Phật, trụ vào trong Niệm Phật tam muội thì sẽ phát sanh trí huệ thắng diệu khó thể nghĩ lường mà thành Chánh Giác.
Đức Thế Tôn dùng chân trí thắng diệu ví như viên ngọc tròn đầy, trong sáng chiếu soi để hiểu rõ, thấu suốt Chân như và thông đạt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng có chướng ngại, và cũng từ chân trí thù thắng ấy, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi như là một khoảnh niệm, đức Như Lai có thể trú vào trong vô lượng ức kiếp mà thân cùng các căn không tăng cũng không giảm. Sự kiện này hiển thị Bổn địa Pháp thân của hết thảy chư Phật Như Lai luôn thường hiện hữu trên từng khắp các quốc độ trong tất cả thời gian không cùng tận, không có chướng ngại.
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Vô lượng kiếp là một niệm, một niệm chính là vô lượng kiếp.” Sự kéo dài hay rút ngắn thời gian chẳng có gì khác biệt, điều này chứng minh rằng kinh Vô Lượng Thọ chẳng khác gì kinh Hoa Nghiêm! Thích Ca Mâu Ni Phật chính là Tỳ Lô Giá Na Như Lai ứng thân trong thế giới của chúng ta, mà cũng chính là Bổn địa Pháp thân của A Di Đà Phật. Vậy, Thích Ca, Tỳ Lô và Di Ðà chẳng hai, chẳng khác. Do vì Thiền định và trí huệ của Thế Tôn đã được thông suốt trọn vẹn đến mức cùng cực giống như tấm gương sáng sạch chiếu soi thấu rõ hết thảy vạn vật trong vũ trụ, nên khi Ngài trụ vào trong Bổn địa Pháp thân thì liền thị hiện ứng thân tốt đẹp phi thường, với đầy đủ hết thảy các đức của viên mãn báo thân như viên ngọc châu tròn trịa, trong sáng, có đầy đủ hết thảy các đức phản chiếu muôn sắc lộng lẫy của xum la vạn tượng. Đây chẳng phải là điều mà hết thảy các vị Đại sĩ còn ở địa vị tu nhân đạt được nổi, nên kinh nói: “Thân cùng các căn không tăng không giảm. Vì sao thế? Ðịnh huệ Như Lai thông suốt rốt ráo.” Lại nữa, do tâm Phật đã thoát khỏi sự trói buộc của phiền não, nên đối với tất cả các pháp đều có thể thông đạt tự tại vô ngại một cách tối thắng, chẳng cần phải toan tính, suy nghĩ, đo lường, sắp đặt, nên ngay tiếp theo câu đó, kinh ghi: “Đối tất cả pháp có thể đắc được tự tại tối thắng.”
Cuối cùng, bởi do Ðịnh huệ của đức Di Đà Như Lai thông suốt rốt ráo, khó thể nghĩ bàn; cho nên, trước khi nói ra giáo lý và phương pháp của Phật A Di Đà, đức Thích Tôn căn dặn Ngài A Nan, hãy lắng nghe cho thật kỹ càng và hãy khéo léo suy nghĩ cho thật tường tận, thì mới có thể thấu hiểu rành rẽ nghĩa lý chân thật của Như Lai mà lãnh hội giáo pháp này một cách đúng đắn, không sai lầm. Chữ “hãy lắng nghe” ở đây có nghĩa là hãy dùng sức thiền định, tập trung rất sâu để nghe bằng tánh nghe, chữ “hãy kỹ càng suy nghĩ” ở đây có nghĩa là hãy dùng sức quán chiếu sâu xa để hiểu, chớ chẳng chẳng phải là cái nghe và cái suy nghĩ bằng các căn trần thông thường. Nói cách khác, câu “hãy lắng nghe, kỹ càng suy nghĩ” ở đây có nghĩa là nghe và hiểu bằng Bát nhã vô trí, chớ không phải bằng các thức trần của phàm phu. Có nghe và hiểu bằng Tự tánh nhận biết như vậy, thì mới có thể đạt được sự thọ dụng và lợi ích chân thật nơi giáo pháp lưu xuất từ Chánh Giác của Như Lai. Bởi do đây là pháp môn thù thắng bậc nhất lưu xuất từ Như Lai Chánh Giác, không có pháp nào có thể so sánh bằng, nên một khi hành nhân thâm nhập vào trong giáo pháp này, thì chỉ cần ở trong một đời niệm Phật, liền được vãng sanh, đắc bất thoái chuyển, bình đẳng thành Phật. Do nghĩa lợi này, nên đức Phật tuyên bố với đại chúng rằng: Ngài nhất định sẽ vì đại chúng mà giải nói bộ kinh hiếm có này một cách rõ ràng, tường tận cho đến tận cùng đời vị lại, không hề gián đoạn.
Như Lai Chánh Giác ví như máu huyết của A Di Đà Phật, còn kinh Vô Lượng Thọ thì ví như dòng sữa sanh ra từ máu huyết của A Di Đà Phật; do đó, nếu chúng sanh nương vào kinh Vô Lượng Thọ để tu hành giống như là trẻ con nương vào sữa mẹ để khôn lớn, thì quyết định sẽ ở ngay trong một đời này vãng sanh Cực Lạc, thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.