Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Những khách hàng khó tính nhất là người dạy cho bạn nhiều điều nhất. (Your most unhappy customers are your greatest source of learning.)Bill Gates
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Hãy tin rằng bạn có thể làm được, đó là bạn đã đi được một nửa chặng đường. (Believe you can and you're halfway there.)Theodore Roosevelt
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Sự giúp đỡ tốt nhất bạn có thể mang đến cho người khác là nâng đỡ tinh thần của họ. (The best kind of help you can give another person is to uplift their spirit.)Rubyanne
Cuộc sống xem như chấm dứt vào ngày mà chúng ta bắt đầu im lặng trước những điều đáng nói. (Our lives begin to end the day we become silent about things that matter. )Martin Luther King Jr.

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Tu học Phật pháp »» Hiểu rõ Phật trí »»

Tu học Phật pháp
»» Hiểu rõ Phật trí

Donate

(Lượt xem: 5.304)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       

Văn học Phật giáo - Hiểu rõ Phật trí

Font chữ:

Có lần Pháp sư Định Hoằng hỏi Lão Hòa Thượng Tịnh Không: “Sư phụ niệm Phật như thế nào?” Sư phụ Thượng Nhân trả lời: “Tôi niệm Phật như thế nào? Tôi thấy cái bàn này là A Di Đà Phật; cái ghế này là A Di Đà Phật; có người đi tới, người đó cũng là A Di Đà Phật. Tất cả người, tất cả việc, tất cả vật đều toàn là A Di Đà Phật, không có gì không là A Di Đà Phật, thuận cảnh và nghịch cảnh toàn là A Di Đà Phật do Ngài biến hiện ra.”

Từ nơi y báo của cõi Cực Lạc được diễn tả trong kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Phật, chúng ta thấy, tại Cực Lạc Thế giới khi sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần đều toàn là Tam Bảo, đều toàn là A Di Đà Phật. Ở cõi ấy, cảnh giới sáu trần cũng là A Di Đà Phật, ngay cả con chim nhỏ bé, cành cây, cọng cỏ cũng đều là A Di Đà Phật biến hóa ra, chẳng có gì chẳng phải là A Di Đà Phật. Như vậy, chúng ta có thể thấy, tuy thân Hòa Thượng đang ở cõi Sa-bà, nhưng tâm cảnh của Ngài hoàn toàn trụ trong cõi Cực Lạc.

Vì sao Phật A Di Đà phải biến hoá ra muôn sự vật và hiện tượng như vậy? Đấy là để cho pháp âm thường được tuyên dương lưu truyền rộng khắp mười phương, như lời Ngài đã đại âm tuyên bố giáo hóa hết thảy chúng sanh trong tất cả thế giới. Cảnh giới của Tây Phương Cực Lạc không gì mà không phải là A Di Đà Phật, nên Thế Giới ấy gọi là Thân Độ Bất Nhị. Thân chính là Trí huệ Vô vi Pháp thân, tức là chánh báo. Độ là Tịnh độ, thuộc về thế giới vật chất, tức là y báo. Từ chánh báo biến hiện ra y báo, rồi lại từ y báo hiển hiện chánh báo của A Di Đà Phật; cho nên tất cả những thứ gì người niệm Phật bằng trí huệ thấy đều là từ chánh báo của A Di Đà Phật biến hiện ra. Vì thế, Hòa Thượng Tịnh Không mới nói: “Tất cả người, tất cả việc, tất cả vật đều toàn là A Di Đà Phật, không có gì không là A Di Đà Phật.” Phật A Di Đà biến ra một người tốt đến để nhắc nhở ta phải học tập cho tốt. Ngài biến ra một người xấu đến mắng chửi ta, hãm hại ta, chướng ngại ta, hủy báng ta, cũng chính là giúp đỡ ta mau chóng tiêu trừ nghiệp chướng, đề thăng công phu nhẫn nhục, thật sự nhìn thấu, buông xuống. Vậy, đó không phải là A Di Đà Phật vì pháp âm tuyên dương lưu truyền mà biến hoá ra hay sao? Lão Hòa Thượng Tịnh Không niệm Phật như thế đấy! Niệm niệm của Ngài đều là A Di Đà Phật, tình lẫn vô tình đồng viên chủng trí. Đấy gọi là Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội! Ta luôn niệm Phật thì Phật luôn niệm ta, cảm ứng đạo giao khó thể nghĩ bàn.

Nếu ta niệm Phật bằng tâm này là tâm Phật, liền thấy cảnh giới bên ngoài toàn là A Di Đà Phật, tâm và cảnh không hai, cảnh tùy tâm chuyển, cảnh do tâm tạo, thì cõi Sa-bà cũng chính là Cực Lạc Thế giới. Nếu tâm ta là tâm Phật, tất nhiên tạo ra cảnh giới Phật, chắc chắn vãng sanh Tịnh độ. Ngay lúc tâm ta quy về nhất niệm A Di Đà Phật, thì cũng chính là lúc ta không còn là người của cõi Sa-bà nữa, mà là người của Cực Lạc thế giới rồi. Còn nếu như tâm ta là phàm phu, lúc nào cũng niệm tham, sân, si, mạn, nghi, ganh ghét, hơn thua, chấp trước v.v..., thì tâm ta không thể nào nhập vào A Di Đà Phật và cảnh giới Cực Lạc được, lúc lâm phải trở lại luân chuyển trong sáu nẻo luân hồi.

Kinh Kim Cang có câu: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.” Nghĩa của câu kinh văn này là gì? Thật tướng thì không có tướng, hết thảy cái gì có tướng đều là hư vọng. Cõi Tịnh độ thuộc lãnh vực nội tâm, không phải thuộc về ngoại giới. Ngoại giới là cõi Tịnh độ của loài trời người, không phải là các cõi Phật siêu việt ngoài tam giới. Từ xưa tới nay, có các bậc đại-đức cho rằng cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà là cõi phương tiện, là nơi phàm thánh cùng ở, không phải là cõi Phật thực sự. Nhưng vào đời nhà Đường có Đại sư Thiện Đạo là Nhị Tổ của Tịnh Độ Tông cho rằng cõi Cực Lạc Phương Tây hình thành trên cơ sở lời nguyện của Phật A Di Đà, là cõi nước Thật Báo Trang Nghiêm của Phật. Người phàm phu nếu không tu hành chứng được Thật tướng Vô tướng để vào cõi nước Thật Báo Vô Tướng của Phật, vẫn có thể dựa vào sức mạnh của lời nguyện của Phật A Di Đà, mang theo nghiệp vãng sanh đến cõi ấy, nhưng không thấy được báo thân Phật mà chỉ thấy được hóa thân của Phật mà thôi, tức là ngay trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư vẫn có tướng hóa thân của Phật. Như vậy, tất cả sự tướng do Phật A Di Đà biến hóa ra ở cõi Cực Lạc nói riêng và trong mười phương cõi khác nói chung chẳng phải là A Di Đà Phật hay sao? Còn về vấn đề Phật và Bồ-tát tiếp dẫn người vãng sanh, đó cũng là tướng, mà đã có tướng thì là hư vọng, và đã là hư vọng thì chúng ta cầu vãng sanh để làm gì? Nếu chúng ta dụng tâm vô phân biệt, xa lìa tứ cú “có, không, chẳng có, chẳng không” mà quán sát Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật, sẽ nhận biết tất cả sự tướng do Phật A Di Đà biến hóa ra cũng chính là A Di Đà Phật!

Trong thời Mạt pháp, nếu phàm phu chúng ta không vãng sanh Cực Lạc, thì phải ở lại mãi trong cõi đời ô trược, không sao tránh khỏi tiếp tục tạo nghiệp, làm ác, chẳng lúc nào ngừng nghĩ, vì sao? Vì hoàn cảnh ở cõi Sa-bà rất ác liệt, lành ít, dữ nhiều, uống khổ ăn độc chưa từng ngừng nghĩ, thật khó mà thoát ra. Chỉ có vãng sanh Tịnh độ của Phật A Di Đà mới là con đường duy nhất để một phàm phu với căn tánh hạ liệt, đầy dẫy nghiệp chướng như chúng ta, tuy không thể chứng được Thật tướng Vô tướng nhưng vẫn có thể mang nghiệp đi vãng sanh. Cực Lạc thế giới có hai loại hóa sanh và thai sanh. Ở trong hoa sen tự nhiên hóa sanh, hoa nở liền được thấy Phật, nghe pháp thì đó gọi là hóa sanh. Lại có chúng sanh dùng tâm ngờ vực, chẳng tin ngũ trí của Phật, nhưng tin vào tội phước, tu tập cội lành, nguyện sanh Cực Lạc, những hạng người này cũng được sanh về Cực Lạc; nhưng do lòng nghi hoặc chưa hết, ám chướng vẫn còn, nên tuy sanh vào nước kia nhưng trong năm trăm năm, hoa sen chẳng nở, ở mãi trong hoa thai, chẳng được gặp Phật, nghe pháp, nên gọi là thai sanh hay sanh trong Biên Địa Nghi Thành. Như vậy, tất cả những người vãng sanh đều là hóa sanh từ trong hoa sen nơi ao thất bảo, chớ không thật sự có thai sanh! Biên Địa Nghi Thành chỉ là cái hoa sen chưa nở trong ao thất bảo. Tuy gọi là thai sanh, nhưng chẳng hề chịu các thứ khổ ở trong thai. Trong hoa sen chưa nở ấy, họ đều ngự trong cung điện, thụ hưởng khoái lạc như trong cõi trời Dạ Ma. Dạ Ma thiên là tầng trời thứ ba trong Dục giới, nằm trên hai tầng trời Tứ Thiên Vương và trời Ðao Lợi. Chư thiên trong cõi trời ấy hưởng khoái lạc tột bực!

Mặc dù Ngài Di Lặc Bồ-tát thấu rõ hoàn cảnh nhân duy-ên quả báo của người thai sanh, nhưng vì muốn chỉ cho đại chúng biết: Thấy quả thì phải biết nhân! Nên Ngài hỏi Phật: “Do nhân duyên gì mà có hai loại hóa sanh và thai sanh như thế?” Chúng ta đều biết, yếu tố chính để phát sanh ra quả là nhân, yếu tố trợ giúp cho nhân trở thành quả là duyên. Thai sanh hay hóa sanh đều dựa vào nhân duyên của người niệm Phật. Ngài Di Lặc Bồ-tát đối chiếu theo cái quả hiện tiền mà hỏi Phật đến nguyên do, mục đích là muốn khiến cho chúng sanh được tỏ tường lý nhân duyên quả báo. Phật dạy chúng sanh phải lấy nhân duyên làm tông chỉ tu hành, thánh giáo của Phật từ cạn tới sâu, hết thảy các pháp đều không ngoài hai chữ “nhân duyên.” Trong kinh này, Phật giảng về cái nhân của thai sanh là để khuyên chúng sanh nên sanh lòng tin sâu xa Phật trí, hầu khỏi bị đọa vào nghi thành. Pháp môn Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi Phật trí của A Di Đà Phật mà chúng sanh lại nghi ngờ trí ấy, nên Đức Bổn Sư Thích Ca mới bảo là “không hiểu rõ Phật trí.” “Không hiểu rõ Phật trí” là chẳng thể tin trọn vẹn vào Nhất Thiết Chủng Trí của Phật. Do chẳng hiểu nổi Phật trí nên khởi tâm nghi ngờ tánh đức bất khả tư nghì của A Di Đà Phật, chẳng ngộ được vì sao đức Di Đà Như Lai là vĩ đại nhất? Cũng chẳng biết vì sao A Di Đà Phật được chư Phật mười phương xưng tụng là Quang Trung Cực Tôn Phật Trung Chi Vương?

Phật trí là tổng thể của hết thảy các trí, bao gồm bốn biệt trí, gộp thành Ngũ Trí. Theo kinh Vô Lượng Thọ, không hiểu rõ Phật trí là chẳng hiểu rõ bốn biệt trí dưới đây:

• Trí Không Nghĩ Bàn còn gọi là Bất Tư Nghị Trí, là Phật trí uyên thâm, sâu rộng chẳng thể nghĩ bàn của Phật. Niệm Phật vãng sanh được kiến lập bởi trí này mà chúng sanh lại nghi ngờ trí ấy, nên kinh bảo là “chẳng hiểu rõ Phật trí.”

Trí Không Nghĩ Bàn chính là Thành Sở Tác Trí. Trí này có thể làm được những việc chẳng thể nghĩ bàn, chẳng hạn trong một niệm xưng danh hiệu Phật mà có thể diệt được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, công đức của mười niệm phát sanh ra quả báo vượt ra khỏi tam giới v.v... Người niệm Phật do chẳng tin vào Trí Không Nghĩ Bàn, chẳng biết rằng trí này có đại oai lực, chẳng thể suy lường được nổi, nên sanh lòng nghi ngờ nếu chỉ niệm A Di Ðà Phật chưa chắc được vãng sanh. Chúng ta nên biết, hết thảy muôn pháp, không pháp nào chẳng phải là tự lực, tha lực, tự nhiếp, tha nhiếp, thiên biến vạn hóa vô lượng vô biên. Chúng ta không thể dùng tình thức ngăn ngại của phàm phu mà ngờ vực diệu pháp vô ngại của Phật A Di Đà.

• Trí Không Xưng Lường còn gọi là Bất Khả Xưng Trí, là trí huệ của Phật nhiều đến vô lượng chẳng thể nói kể cho hết được. Niệm Phật vãng sanh là do trí này của A Di Đà Phật thành tựu mà chúng sanh lại nghi ngờ trí ấy, nên kinh bảo là “chẳng hiểu rõ Phật trí.”

Trí Không Xưng Lường chính là Diệu Quán Sát Trí. Ngài Ðàm Loan nói: “Bất Khả Xưng Trí là tin Phật trí chẳng thể diễn bày, mô tả nổi, chẳng thể đối đãi. Pháp nếu là có thì ắt phải có cái trí biết có. Pháp nếu là không thì ắt phải có cái trí biết không. Các pháp rời ngoài có không mà Phật thấu hiểu sâu xa các pháp, nên trí này vượt khỏi mọi đối đãi. Dùng cái biết để hiểu Phật thì chẳng gọi là biết Phật. Dùng cái chẳng biết để hiểu Phật thì cũng chẳng gọi là biết Phật. Dùng cái bất tri, phi bất tri để hiểu Phật thì cũng chẳng phải là biết Phật. Dùng cái phi phi tri, phi phi bất tri để hiểu Phật thì cũng chẳng phải là biết Phật. Phật trí rời ngoài cả bốn câu ấy.” Hết thảy pháp như huyễn, như mộng, chẳng phải có, chẳng phải không, lìa ngôn ngữ, dứt bặt suy nghĩ, chẳng thể dùng ngôn ngữ để suy lường, diễn tả nổi. Thế mà Trí Không Xưng Lường của Phật có thể quán sát vô lượng cảnh giới chẳng thể nói nổi ấy một cách vi diệu. Chúng sanh do chẳng tin vào trí này, nên chẳng hiểu được rằng thể tánh của Phật trí là dứt mọi đối đãi, lìa mọi lỗi lầm, tuyệt mọi sai trái. Do trí này chẳng thể diễn tả nổi nên công đức niệm Phật cũng chẳng thể diễn tả nổi.

· Trí Rộng Đại Thừa còn gọi là Đại thừa Quảng Trí, là trí biết đến cùng tột các pháp môn. Niệm Phật vãng sanh là do trí này của A Di Đà Phật cảm thành mà chúng sanh lại nghi ngờ trí ấy nên kinh gọi là “chẳng hiểu rõ Phật trí.”

Trí Rộng Đại Thừa chính là Bình Đẳng Tánh Trí. Trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa có nói: Ai đáng được thân Phật thì hiện thân Phật để thuyết pháp, ai đáng được thân quỷ thì hiện thân quỷ để thuyết pháp v.v…; đấy đã nêu rõ tánh vô ngã của Trí Rộng Đại Thừa. Trí này dung hội vô ngã, có thể bình đẳng rộng độ khắp chúng sanh, chẳng giống với Tiểu thừa chỉ có thể tự độ, chẳng thể độ tất cả chúng sanh. Do tánh vô ngã của Trí Rộng Đại Thừa, nên không có pháp nào là pháp không bình đẳng có thể dùng để nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Phật dùng trí lực đồng thể này độ khắp vô biên hữu tình với vô lượng căn tánh khác nhau, khiến tất cả chúng sanh đều chứng Vô thượng Bồ-đề. Chúng sanh do chẳng hiểu rõ Trí Rộng Đại Thừa, nghi Phật chẳng thể thật sự độ hết thảy chúng sanh, lại ngờ hết thảy chúng sanh niệm Phật chẳng phải đều được vãng sanh Tịnh Ðộ, nên đối với A Di Ðà Phật bèn sanh ý tưởng suy lường, nghi ngờ. Ðể đối trị mối nghi hoặc này, Phật nói đến Trí Rộng Đại Thừa không pháp gì chẳng biết, không phiền não nào chẳng đoạn, không điều thiện gì chẳng thành tựu trọn vẹn, không chúng sanh nào chẳng độ được. Tóm lại, do trí này có thể đưa hết thảy chúng sanh cùng vào Vô-dư Niết-bàn nên gọi là Đại Thừa; do trí này độ thoát vô hạn vô ngằn chúng sanh nên gọi là Trí Rộng; do trí này biết rõ cùng tột các pháp môn và có thể khế hợp rộng rãi mọi căn cơ cùng được độ thoát nên gọi là Trí Rộng Đại Thừa.

Đức Như Lai đại bi đại trí, đối với những kẻ hữu duyên thì không một ai mà Ngài chẳng độ thoát cho được nhập Niết-bàn. Ngài khai diễn diệu nghĩa “tâm này làm Phật, tâm này là Phật,” khiến các hữu tình do niệm Phật chứng nhập vô niệm, do vãng sanh chứng được vô sanh. Hơn nữa, thế giới chẳng phải là hữu biên, chẳng phải là vô biên, cũng tuyệt hẳn tứ cú (không, có, chẳng không, chẳng có). Phật làm cho chúng sanh lìa được tứ cú, chứng nhập Trung đạo Thật tướng thì gọi là độ, nhưng thật ra Phật chẳng độ mà cũng chẳng phải là chẳng độ, chẳng phải tận cũng chẳng phải là chẳng tận, nên mới có thể khế hợp rộng rãi và bình đẳng độ thoát mọi căn cơ.

• Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng còn gọi là Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng Trí, là trí ở địa vị cao trỗi hơn hết. Niệm Phật vãng sanh là do trí này của A Di Đà Phật phát khởi mà chúng sanh lại nghi ngờ trí ấy, nên kinh bảo là “chẳng hiểu rõ Phật trí.”

Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng chính là Như Lai Ðại Viên Minh Kính Trí. Khi nào thỷ giác chuyển thành bổn thức mới có thể quy về nguồn tâm; lúc ấy, không cảnh giới nào chẳng thấu suốt, chiếu soi trọn vẹn. Vì lẽ đó, trí này được gọi là Ðại Viên Minh Kính Trí. Lại nữa, trí này còn được gọi là Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng bởi vì trong một trí này lại bao trọn cả năm điều thù thắng:- Ðiều thù thắng thứ nhất, Ðại Viên Minh Kính Trí chính là Pháp thân Phật, Nhị thừa tuy chứng đắc giải thoát thân, nhưng do chưa đắc trí này nên chẳng chứng được Pháp thân; do vậy, trí này được gọi là Vô Đẳng (không ai bằng). Ðiều thù thắng thứ hai, Bồ-tát cũng dần dần đạt được ba trí trước, nhưng chỉ có Phật mới đốn chứng Ðại Viên Minh Kính Trí, không ai khác chứng nổi trí này, nên trí này được gọi là Vô Luân (không ai sánh nổi). Ðiều thù thắng thứ ba, Ðại Viên Minh Kính Trí hơn cả Trí Không Nghĩ Bàn nên được gọi là Tối (tối cao, cao nhất). Ðiều thù thắng thứ tư, Ðại Viên Minh Kính Trí vượt xa Trí Không Xưng Lường nên được gọi là Thượng. Ðiều thù thắng thứ năm, Ðại Viên Minh Kính Trí rộng hơn cả Trí Rộng Đại Thừa nên được gọi là Thắng. Đối với Phật như thế mà chúng sanh chỉ có thể ngưỡng mộ, kính tin, chứ chẳng thể so lường, nên kinh bảo là “chẳng hiểu rõ Phật trí.” Chúng sanh do chẳng hiểu rõ Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng, nên sanh lòng nghi ngờ Phật chẳng đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Do nghi Phật trí nên đối với pháp môn Niệm Phật chẳng thể chánh tín, dù niệm Phật rất chuyên, cũng được vãng sanh, nhưng phải bị thai sanh trong hoa sen chưa nở, suốt năm trăm năm không được thấy Phật, không được nghe pháp, cũng không được gần gũi chư vị Bồ-tát tu tập công đức lớn.

Hết thảy cảnh giới vốn chỉ là nhất tâm, lìa khỏi tưởng niệm. Do chúng sanh vọng tưởng khi thấy cảnh giới, tâm có phân chia, chẳng xứng hợp với pháp tánh, nên chẳng thể hiểu rạch ròi. Chư Phật Như Lai lìa khỏi các tướng thấy, nên không gì mà chẳng hiểu trọn vẹn. Tâm chân thật, không dính vào cảnh giới tướng, chính là tánh của chư pháp. Tự thể soi chiếu, hiểu rõ hết thảy vọng pháp, có đại trí dụng, vô lượng phương tiện, tùy theo chúng sanh hiểu được pháp nào, bèn khai thị pháp nghĩa đó, thì gọi là Nhất Thiết Chủng Trí hay Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng! Để đối trị mối nghi Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng của Phật, chúng ta có thể hiểu: “Do không có cái bị thấy, nên không gì là chẳng thấy.” Nếu như tin hiểu được các trí của Như Lai thì là bậc thượng căn lợi trí rồi, còn nếu như chẳng thể tin hiểu nổi Phật trí, thì cứ giữ lòng rỗng rang, khiêm nhường, tin tưởng, cung kính, ngưỡng mộ các trí ấy, cũng được vãng sanh, chẳng bị đọa vào Nghi Thành; đấy gọi là “hư tâm ngưỡng tín.”

Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Thế Tôn giảng: Có những chúng sanh tuy chẳng kính tin nổi Phật trí, nhưng vẫn tin vào tội phước, nhân quả, thường tu lễ Phật, niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Người như vậy, tin phước nhưng chẳng tin trí, tin sự nhưng lại mê nơi lý, nhưng do lấy công phu niệm Phật làm căn bản tu tập các điều thiện nên cũng được vãng sanh, nhưng bị đọa vào Biên Địa Nghi Thành, tức là thai sanh trong hoa sen nơi ao thất bảo, suốt năm trăm năm hoa sen không nở, chẳng được thấy Phật, nghe pháp, dạo khắp mười phương cúng dường chư Phật, tu tập các pháp công đức lớn v.v.... Họ lấy đó làm khổ, chẳng sanh lòng vui thích. Trong tác phẩm Tông Yếu, Đại sư Nguyên Hiểu (617-686) là một vị sư người Triều Tiên thời Tân La (tức đời Đường bên Trung Hoa), có viết: “Nếu người chẳng đoạn nổi bốn mối nghi đó thì dẫu sanh vào nước kia, vẫn ở biên địa. Nếu như có kẻ tuy chẳng thể hiểu nổi cảnh giới của bốn trí nhưng tự khiêm, tuy tâm nhãn chưa mở nhưng ngưỡng mộ Như Lai, một bề tin phục; những người như vậy sẽ tùy theo hạnh phẩm vãng sanh về cõi ấy, chẳng lạc vào biên địa. Sanh vào biên địa là một loại riêng chẳng thuộc vào chín phẩm. Vì thế, chẳng nên vọng sanh nghi hoặc.”

Cõi nước An Lạc thuần một bề chỉ là hóa sanh, chẳng thật sự có thai sanh. Biên địa và thai sanh là đồng thể nhưng khác tên. Tên gọi “biên địa” có ý nói người sanh vào cõi kia ở trong hoa sen chưa nở, suốt năm trăm năm chẳng được nghe đến Tam Bảo, giống như cái nạn sanh ở tuốt ngoài bìa biên giới của cõi Cực Lạc. Thai sanh là ví như người sanh trong bào thai, lúc còn sơ sanh nhân pháp chưa thành. Chữ “Biên” chỉ cho nạn, chữ “thai” chỉ cho sự tối tăm. Hai danh từ này đều chỉ là thí dụ, mượn tình huống nơi đây để ví cho tình trạng bên kia, chứ thật ra đó chẳng phải là biên địa trong tám nạn, cũng chẳng phải là kiểu thai sanh bằng thai bào. “Nghi thành” có nghĩa là nếu ai niệm Phật với lòng nghi ngờ, thì sẽ sanh trong cung điện bảy báu nơi biên địa cõi Cực Lạc, trong năm trăm năm chẳng được nghe đến danh hiệu Tam Bảo, nhưng nếu trong lòng dứt tận hồ nghi thì hoa sen liền nở, cũng được thấy Phật, nghe pháp, dạo khắp cúng dường chư Phật và tu tập các công đức lớn v.v...

Trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật cũng nói: “Lại có chúng sanh, chứa nhóm căn lành, mong cầu trí Phật, trí phổ biến, trí vô đẳng, oai đức rộng lớn, trí không nghĩ bàn. Nơi thiện căn mình, không thể sinh tin, nên việc vãng sanh, nước Phật thanh tịnh, ý chí do dự, không được chuyên tâm, song do tương tục, niệm Phật không dừng, đem nguyện lành mình, kết làm nguyện gốc, tiếp đặng vãng sanh.” Ðoạn kinh văn này nói đến một loại hành nhân khác cũng bị sanh về Biên Địa Nghi Thành. Loại hành nhân này tuy tin Tha Phật, biết cầu trí Phật: Trí Phổ Biến, Trí Vô Đẳng, Oai Đức Rộng Lớn Trí Không Nghĩ Bàn, nhưng chẳng tin nổi Tự Phật. Do chẳng tin nổi ý chỉ “tâm này là Phật,” nên trong lòng còn nghi ngờ nơi chính mình. Đây là lỗi lầm rất lớn bởi vì có đến sáu thứ tin: tin lý, tin sự, tin tự, tin tha, tin nhân, tin quả. Hành nhân phải hội đủ cả sáu niềm tin này mới gọi là có lòng tin đầy đủ.

Trí Phổ Biến tương đương với Trí Rộng Đại Thừa hay Bình Đẳng Tánh Trí, là trí bình đẳng phổ biến độ thoát hết thảy hữu tình cho đều đạt đến Vô thượng Bồ-đề. Trí Vô Đẳng tương ứng với Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng hay Đại Viên Minh Cảnh trí. Oai Đức Rộng Lớn Trí Không Nghĩ Bàn tương đương với Trí Không Nghĩ Bàn và Trí Không Xưng Lường (cũng chính là Thành Sở Tác Trí và Diệu Quán Sát Trí.) Người niệm Phật cần phải thấu rõ Phật trí cho đến Thắng trí, thì mới gọi là có lòng tin chân thật, vì sao? Vì hết thảy các trí chẳng lìa tự tâm, vô ngã, vô ngã sở, phàm thánh giống như nhau đều cùng có chung những trí này. Nếu hành nhân hoàn toàn tin rằng tâm mình vốn đầy đủ hết thảy các trí, vốn sẵn thành Phật, chẳng hề ở ngoài tâm lại có một cái tâm tin Phật riêng biệt, người niệm Phật tin được những điều như thế thì gọi là duy tâm Tịnh Ðộ, sẽ mau được gặp Phật. Nếu đối với các trí trong Tự tâm mà còn vướng mắc mối nghi ngờ, thì chẳng tránh khỏi chuyện thấy có Phật ngoài tâm, nên dẫu tu các điều lành, nương theo nguyện mà được vãng sanh, nhưng chẳng thấy được Phật vì chẳng khế hợp Phật trí. Do vậy, kinh Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới mới nói: “Tam thế hết thảy chư Phật đều vô sở hữu, chỉ nương vào Tự tâm. Bồ-tát nếu có thể biết rõ chư Phật và hết thảy pháp đều chỉ là tâm lượng thì sẽ đắc Tùy Thuận Nhẫn, hoặc chứng bậc Sơ-địa, bỏ thân mau sanh vào thế giới Diệu Hỷ, hoặc sanh trong Phật Tịnh Ðộ Cực Lạc.” Như vậy, một khi biết rõ tâm lượng của mình, thì chẳng cần khổ nhọc công phu tu hành mà hết thảy công đức đều thành tựu đầy đủ. Do đó, hành nhân phải có trí quyết định mới có thể sanh được lòng tin quyết định, và phải có lòng tin quyết định mới vãng sanh nổi.

Phật răn dạy, người niệm Phật cầu sanh Cực Lạc phải luôn dè dặt, chớ nên sanh lòng nghi hoặc nơi Tha Phật lẫn Tự Phật mà mất điều lợi lớn. Tin Tha Phật mà chẳng tin Tự Phật chính là trí tuệ còn kém cỏi. Tự mình không có trí quyết định nên chẳng thể phát sanh nổi lòng tin quyết định, lúc nghe người khác nói thế này, thế kia trong tâm thường sanh ngờ vực. Do tín nguyện chẳng vững vàng, nên ý chí tu hành vẫn còn do dự, dễ bị thoái chuyển, chẳng thể chuyên nhất nổi pháp môn mình tu, khiến việc niệm Phật không được nhất tâm. Tuy vậy, do hành nhân nương theo sức niệm Phật và sức phát nguyện, niệm Phật liên tục, cũng được vãng sanh, nhưng chỉ được sanh nơi Biên Địa Nghi Thành.

Người niệm Phật không rõ tin Phật trí tức là không tin Tha Phật, hoặc không tin Tự Phật, tức là không tin chính mình; nhưng do cái nhân tu thiện niệm Phật, phát nguyện cầu sanh Cực Lạc, cảm được chốn Biên Ðịa nơi cõi Cực Lạc, sống trong cung điện bảy báu trong hoa sen chưa nở nơi ao báu, hưởng thụ mọi sự vui thú như ở trên cõi trời Ðao Lợi và được cái quả Bất Thoái. Thế nhưng, do phạm lỗi nghi hoặc nên phải cảm lấy cái quả bị ngăn nơi Biên Địa Phật. Những điều như thế đều do tự tâm của họ tạo thành nghiệp lực dẫn dắt tới nơi ấy, chớ Phật chẳng hề làm thế. Ðây chính là điều mà kinh Hoa Nghiêm đã dạy: “Nên quán pháp giới tánh, hết thảy chỉ là do tâm tạo.” Nghiệp là do tâm sanh, tâm sanh thì các pháp sanh; địa ngục, thiên đường hay Tịnh Ðộ đều chỉ do tâm của chính mình biến hiện ra; thân mình hướng đến đâu đều do nghiệp lực của chính mình lôi kéo. Sanh trong Biên Địa cũng có hoa sen ao báu, tự nhiên thọ thân, chớ chẳng phải là kiểu thai sanh như trong thế gian, nên trên lẽ thật cũng là liên hoa hóa sanh, nhưng phải ở miết trong ấy suốt năm trăm năm chẳng ra được bên ngoài. Chốn họ cư ngụ là ngay trong hoa sen chưa nở, chẳng thể thăng lên hư không, nhà cửa cũng chẳng thể tùy theo ý muốn biến hóa ra cao hay thấp, to hay nhỏ, rộng hay hẹp v.v… Ðiều tệ nhất trong cõi ấy là trong suốt cả năm trăm năm chẳng được thấy Phật, nghe pháp và cũng không được gần gũi chư vị Bồ-tát để cùng với các Ngài tu tập công đức lớn.

Phẩm Hết Lầm Thấy Phật trong kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu chúng sanh đó biết gốc tội mình... mới được thoát khỏi.” Vào đời nhà Minh, có một vị tiến sĩ, tên Viên Hoằng Đạo, tức Cư sĩ Thạch Đầu rất nổi tiếng. Tiên sinh có một người anh và một người em đều là tiến sĩ và cũng là văn nhân siêu xuất đương thời. Dù thế, cả ba ông đều không màng tới bả lợi danh, đều quy hướng về Phật pháp, rồi trở thành người hữu danh trong Phật pháp và đều Nhất tâm quy hướng về Lạc Bang. Sau khi tiên sinh Hoằng Đạo vãng sanh, ông tìm phương tiện làm cho em mình là Trung Đạo được thần du cõi An Dưỡng để nương nhờ đó mà thăng tiến sự tu trì. Sau khi thần du An Dưỡng quốc, Trung Đạo thuật lại việc mình thấy nơi cõi Cực Lạc, chẳng khác những điều được ghi chép trong kinh Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ. Ông Trung đạo thuật lại sự vãng sanh của Viên Hoằng Đạo và cho biết rằng tiên sinh Viên Hoằng Đạo đã bị rơi vào Biên Địa bởi do chấp vào công đức viết bộ sách Tây Phương Hiệp Luận mà sanh lòng tự mãn. Nhưng do nhờ có trí huệ thù thắng, chẳng lâu sau tiên sinh liền thức tỉnh, nhận ra lỗi lầm của mình, mau mau sám hối, đoạn trừ lưới nghi, tức thời thoát khỏi Biên Địa, liền được thấy Phật, nghe Pháp, đúng như lời kinh Phật nói: “Nếu chúng sanh đó, biết gốc tội mình ... mới được thoát khỏi.” Do vậy, sám hối đoạn nghi mới chính là mấu chốt để thoát khỏi Biên Địa, còn thời gian năm trăm năm chỉ là con số tiêu biểu, chẳng phải là nhất định.

Người vãng sanh với đầy đủ lòng tin và trí huệ, thì chẳng những phải tin vào Phật trí mà còn phải tin vào thiện căn của chính mình, ngoài thì kính mộ chư hiền thánh, trong lại tôn trọng linh giác của chính mình, nương vào thiện căn đó mà tu các công đức, chí tâm hồi hướng, đều được hóa sanh trong hoa sen nơi ao thất bảo. Trong khoảng khắc ngắn ngủi như khảy ngón tay, người ấy lập tức được thấy Phật A Di Đà, được nghe Ngài giảng pháp, liền thành tựu quang minh trí huệ và công đức đầy đủ như các vị đại Bồ-tát. Ngược lại, kẻ si mê vô trí do chẳng biết nhiều về kinh điển Ðại Thừa, tâm ngờ vực chập chồng, cấu nhiễm sâu nặng, lại chẳng tôn thánh kính thiện, tâm chẳng khai ngộ, ý chẳng hiểu biết, nên trong lòng không vui vẻ, pháp hỷ không sung mãn; những người như vậy dù tinh chuyên niệm Phật nhưng vẫn phải bị đọa vào thai sanh, trong năm trăm năm chẳng được nghe thấy Tam Bảo, không biết được pháp thức tu hành của Bồ-tát, không được duyên cùng với các Bồ-tát tu tập công đức lớn, và cũng không được gần gũi Phật Vô Lượng Thọ. Đấy đều do người ấy thiếu trí huệ, ngờ vực Tự Phật và Tha Phật, mà phải chịu nông nỗi này. Bởi vậy, đoạn nghi sanh tín là điều cực kỳ quan trọng. Muốn đoạn nghi sanh chánh tín, thì việc thọ trì, đọc tụng và nghe giảng kinh Vô Lượng thọ là việc thiết yếu nhất.

Hiện nay chúng ta may mắn gặp được quyển kinh Vô Lượng Thọ hoàn chỉnh nhất từ xưa đến nay do lão Cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập, lại được lão Cư sĩ Hoàng Niệm Tổ (là đệ tử chân truyền của cụ Hạ) trải qua hơn mười năm chú giảng tường tận nghĩa lý thâm sâu của kinh này. Hòa thượng Tịnh Không nói: Tổ sư Ấn Quang chính là của Bồ-tát Đại Thế Chí hiện thân để xiểng dương pháp môn Niệm Phật; Cụ Hạ Liên Cư là Phổ Hiền Bồ-tát hiện thân để kết tập và hoàn chỉnh lại toàn bộ kinh Vô Lượng Thọ; Cụ Hoàng Niệm Tổ là Quán Thế Âm Bồ-tát hiện thân để chú giải kinh này. Ngày nay, chúng ta lại may mắn có Lão Hòa Thượng Tịnh Không thuyết giảng kinh điển này một cách tường tận, rành rõ và thứ tự từ cạn đến sâu, cốt hầu giáo hóa mọi căn cơ từ hạ căn đến thượng căn, khiến mọi người đều được lợi ích chân thật. Gần đây Lão Hòa Thượng Tịnh Không lại tiết lộ cho chúng ta biết, Hòa Thượng Hải Hiền cũng chính là ứng thân của Phổ Hiền Bồ-tát thị hiện ở thế gian để biểu diễn pháp tướng. Phàm phu chúng ta tuy sanh ra trong thời Mạt pháp, nhưng do phước đức tích lũy từ vô số đời trước, nên đời này được các vị đại Bồ-tát Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí v.v... hiện thân làm Thầy, Tổ dẫn dắt về Tây Phương Cực Lạc, xin đồng tu chớ nên bỏ lỡ cơ hội này.

Kinh Vô Lượng Thọ chính là hóa thân của A Di Đà Phật, là con thuyền Bát-nhã đưa chúng sanh đến An Dưỡng Quốc; thế mà lại có những người không tin. Vì sao họ không thể tin? Kinh này nói, vì do họ từ trong ba đường dữ mà tới cõi này, tai ương trong đời trước chưa dứt, đời này chưa được giải thoát, nên tâm sanh hồ nghi, chẳng tin kinh này. Chẳng tin kinh này cũng chính là chẳng tin Phật Trí, Trí Không Nghĩ Bàn, Trí Không Xưng Lường, Trí Rộng Đại Thừa, Trí Vô Đẳng Vô Luân Thù Thắng Tối Thượng vậy!


    « Xem chương trước «      « Sách này có 1496 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.226.186.225 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (273 lượt xem) - Hoa Kỳ (16 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Saudi Arabia (4 lượt xem) - Đức quốc (3 lượt xem) - Nga (2 lượt xem) - Hungary (1 lượt xem) - ... ...