“Bồ-đề” là tiếng Phạn, dịch nghĩa là Chánh giác. “Bồ-đề tâm” là cái tâm cầu đạo chân thật, tức là cái tâm cầu Chánh giác. Chánh giác bao gồm ba thứ giác, đó là: tự giác, giác tha và giác mãn. Vậy, “phát tâm Bồ-đề” là phát cái tâm cầu sự giác ngộ viên mãn thành Phật để hành hạnh giác tha, cứu độ hết thảy chúng sanh cũng đều thành Phật. Vì Bồ-đề tâm là nguồn cội của chư Phật, là huệ mạng của chúng sanh, nên “phát Bồ-đề tâm” là vua trong các điều lành. Hành nhân vừa phát được tâm này thì đã viên thành Phật đạo, vì sao? Bởi vì người phát được Bồ-đề tâm thì tâm tâm của họ đều tương ứng với trí Phật, trí không nghĩ bàn, trí không xưng lường, trí rộng đại thừa, trí vô đẳng vô luân, trí thù thắng tối thượng. Vậy, phát nguyện niệm Phật, vãng sanh về Cực Lạc để được tiếp nhận sự giáo hóa của Phật A Di Đà mà khai ngộ thành Phật chính là “phát tâm Bồ-đề.”
Nguyện thứ 19 “Nghe Danh Phát Tâm” của Đức Phật A Di Đà ghi rằng: Khi con thành Phật, chúng sanh nào trong mười phương nghe đến danh hiệu của con đều phát khởi tâm Bồ-đề thù thắng, lấy tâm thanh tịnh tu các hạnh lành, phụng hành Sáu Ba-la-mật của chư Bồ-tát, gìn giữ niềm tin kiên cố không thối thất, rồi lại lấy tất cả căn lành đã tu tập hồi hướng phát nguyện cầu sanh về Thế giới Cực Lạc. Nguyện này phải nên được hiểu là do vì nghe được danh hiệu của Phật A Di Đà mà phát được cái tâm tin ưa niệm Phật, được Phật gia bị, nên có thể phát được tâm Bồ-đề. Nếu chúng ta hiểu được như vậy thì liền thấy rõ công đức của danh hiệu Phật chẳng thể nghĩ bàn, sức hoằng thệ nguyện của đấng Nguyện Vương A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn.
Pháp môn Niệm Phật còn gọi là Tha Lực môn, tức là người niệm Phật phải hoàn toàn chỉ nương vào sức hoằng thệ nguyện của Phật A Di Đà để thành tựu nguyện vãng sanh Cực Lạc, liễu sanh thoát tử. Vì lẽ đó, người niệm Phật chẳng được tu các pháp môn khác để cầu sự khai ngộ, bởi vì xen tạp, tham cứu các pháp môn khác là chẳng chú trọng nơi Tín, Nguyện cầu sanh Tịnh độ; cho nên dẫu có niệm Phật cũng chẳng thể tiếp nhận được Phật lực gia trì để vãng sanh Cực Lạc. Chúng ta cũng nên biết, dù một người đã khai ngộ trong các pháp môn tự lực, nhưng nếu chưa đoạn được hoặc nghiệp cũng khó hòng tự mình vượt qua biển khổ sanh tử. Ngay cả Pháp thân Bồ-tát lúc chưa thành Phật cũng đều phải cậy vào oai lực của Phật, huống chi là một phàm phu nghiệp chướng sâu nặng như chúng ta mà lại bàn bạc về pháp môn tự lực, chẳng muốn cậy nhờ Phật lực gia trì. Lại nữa, nếu chúng ta đem so sánh Phật lực gia trì to lớn vô biên với tự lực nhỏ nhoi của mình thì sự khác biệt giống như trời với vực! Chúng ta cũng nên biết, ngay cả Phật A Di Đà lúc còn tu nhân địa cũng phải hoàn toàn nương vào Phật lực gia trì của Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai để thành Chánh giác.
Người tu hành phải lấy bốn chữ “chân thành cung kính” làm căn bản để học đạo thế gian lẫn xuất thế gian, tức là phải y theo giáo pháp mà Phật dạy để thực hành thì mới thật sự có lợi ích. Nếu một người chẳng giữ lòng thành kính Phật, trọng pháp thì dù cho trí huệ và sở ngộ của họ có cao siêu, sâu rộng đến đâu đi nữa, cũng chỉ là cuồng huệ, chắc chắn họ khó thể đạt được sự lý viên dung. Lại nữa, người thiên chấp lý tánh mà coi nhẹ việc tu trì, thì tuy hiểu biết đạo lý chẳng sai lầm, nhưng vẫn chẳng thể thành tựu; giống như người nặn đất mà chẳng nắn được tượng thì có lợi ích gì đâu? Do vậy, khi đã chấp lý phế sự thì cái lý được ngộ đó cũng khó thể thích đáng. Người thật sự tu hành thì chẳng nên chấp cứ vào chỗ kiến thức mà coi nhẹ chỗ thực hành. Bởi vì kiến thức có thể trở thành cái bẫy sập lớn cho người thông minh trong cõi đời. Người chẳng mắc phải cái bệnh này mới đáng gọi là người thật sự thông minh. Do đó, người niệm Phật phải hoàn toàn nương vào Phật A Di Đà, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật thì mới mong được vãng sanh Cực Lạc, liễu sanh thoát tử.
Kinh Hoa nghiêm dạy: “Vong thất Bồ-đề tâm, tu chư thiện pháp thị danh ma nghiệp.” Hơn nữa, phẩm Ba Bậc Vãng Sanh của kinh Vô Lượng Thọ cũng dạy: “Ba bậc vãng sanh đều phải phát Bồ-đề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật.” Đấy đủ thấy “phát Bồ-đề tâm” thật là điều quan trọng hàng đầu, được đặt ngay trước cả “một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật.” Có hai cách để phát Bồ-đề tâm: Tùy sự phát Bồ-đề tâm và Thuận lý phát Bồ-đề tâm:
“Tùy sự phát Bồ-đề tâm” là phát tâm Tứ Hoằng Thệ Nguyện: Tâm thứ nhất, hành nhân lấy nguyện “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” làm chánh nhân để rốt ráo giải thoát sanh tử khổ đau, thành tựu Ðoạn Ðức của Như Lai. Tâm thứ hai, hành nhân lấy nguyện “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” làm chánh nhân để rốt ráo dứt sạch kiến tư, trần-sa và vô minh hoặc, thành tựu Trí Ðức của Như Lai. Tâm thứ ba, hành nhân lấy nguyện “Thiện pháp vô lượng thệ nguyện tu” làm chánh nhân để thành tựu Ân Ðức của Như Lai. Trải qua vô lượng số kiếp, chúng ta thường luôn thọ nhận Ân Ðức của Phật và chúng sanh, nên nay chúng ta phát tâm tu học vô lượng thiện pháp để thành tựu quả giác của Như Lai, mục đích là thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam tam đồ khổ. Ba đức đã kể trên: Ðoạn Ðức, Trí Ðức và Ân Ðức hợp lại thành cái nhân sanh ra quả Bồ-đề Vô thượng. Nói cách khác, Ðoạn Ðức, Trí Ðức và Ân Ðức là nhân, Vô thượng Bồ-đề là quả. Nhân và quả tuy có khác nhau, nhưng rất rộng lớn, bình đẳng không thiếu sót, không có thứ gì mà nó không bao gồm cả hai thứ phát tâm và rốt ráo.
Trong hai thứ “phát tâm” và “rốt ráo” thì việc phát tâm là khó hơn cả; vì sao? Bởi do phàm phu chúng ta chưa tự mình được đắc độ mà phải phát tâm độ người khác thì việc làm này dĩ nhiên là vô cùng khó khăn, nên trong lúc hành đạo Bồ-tát ắt không thể nào tránh khỏi những sai lầm và chướng ngại. Chư Phật, Bồ-tát đều biết rõ điều này, nên các Ngài rất khâm ngưỡng các bậc sơ phát tâm Bồ-đề và luôn quan tâm gia bị, thân cận giúp đỡ cho họ luôn gặp những thắng duyên để thành tựu rốt ráo quả Bồ-đề. Bởi vì hoa báo của “phát Bồ-đề tâm” là vãng sanh Tịnh độ và quả báo của “phát Bồ-đề tâm” là thành Phật; cho nên các kinh Tịnh độ đều bảo: “Bồ-đề tâm là chánh nhân cho vãng sanh Cực Lạc và cũng là chánh nhân để thành Phật.” Nghĩa ấy là như thế nào? Bởi do Bồ-đề tâm lượng rộng lớn vô biên và dài lâu vô hạn, nên cảm được hai thứ y báo và chánh báo trang nghiêm. Y báo là Tịnh độ rộng lớn không ngằn mé và chánh báo là thọ mạng dài lâu vô lượng. Ngoại trừ Bồ-đề tâm, không có thứ gì khác có khả năng thành tựu được hai thứ hoa báo này. Người có tâm bất định có thể tùy sự phát Bồ-đề tâm. Thế nhưng, tâm Bồ-đề của họ vẫn còn có thể bị thoái chuyển, nên gọi là Bất Định Tụ.
“Thuận lý phát Bồ-đề tâm” là dùng lòng tin hiểu sâu xa rằng: “Tất cả các pháp đều là như huyễn mộng, chẳng có cũng chẳng không, chẳng thể lấy cũng chẳng thể bỏ, dứt nói năng, bặt suy lường” để phát tâm Bồ-đề rộng lớn, nên tuy rằng Bồ-tát chẳng còn thấy có ác pháp hay thiện pháp, nhưng họ vẫn không bác bỏ các pháp đoạn ác, tu thiện của thế gian và các pháp Vô vi Vô tướng của xuất thế gian. Vì vậy, tuy họ nguyện đoạn tất cả ác pháp, tu tất cả thiện pháp, nhưng tâm của họ lại thường luôn như như bất động, chẳng có tác ý, tùy ý tự tại, chẳng hề sanh tâm chấp trước đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Nói cách khác, tuy rằng, nguyện nguyện của Bồ-tát đều là để độ vô lượng hữu tình, nhưng trong tâm lại chẳng sanh ý niệm “có người độ và có kẻ được độ,” tức là dứt đoạn ngã tướng “ta, người và chúng sanh.” Dựa trên Căn Bản trí này, Bồ-tát có thể tùy thuận theo pháp Ba Không “Không, Vô tướng, Vô tác” mà phát Bồ-đề tâm đúng như lời Phật dạy trong kinh Kim Cang: “Diệt độ vô lượng chúng sanh như vậy, nhưng thật không có chúng sanh nào được diệt độ.” Phát tâm như thế thì sẽ được quả báo vô lậu chẳng thể nghĩ bàn; đấy mới thật sự là thuận hợp với “Thuận lý phát Bồ-đề tâm.” Người phát được Thuận lý phát Bồ-đề tâm như trên đã nói, thì không còn bị thoái chuyển nữa, nên kinh bảo người này trụ trong Chánh Định Tụ, đắc Bất Thoái Chuyển hay đắc quả vị A-Bệ-Bạt-Trí Bồ-tát. Người phát được “Thuận lý phát Bồ-đề tâm” sẽ thành tựu được chân thật công đức vô lượng vô biên; giả sử chư Phật trong suốt kiếp nói các công đức ấy của họ, cũng chẳng thể nào thuật hết được cho đầy đủ. Vì vậy, chỉ có các bậc với căn tánh Bồ-tát mới có thể phát nổi Thuận lý phát Bồ-đề tâm.
Sau khi hành nhân phát được Bồ-đề tâm rồi, A Di Đà Phật lại dạy bảo hành nhân phải dùng cái tâm này để tu các công đức, cung kính thực hành Sáu Ba-la-mật kiên cố bất thoái, lại lấy tất cả thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi nước của Ngài, nhất tâm niệm danh hiệu của Ngài ngày đêm không dứt. Đó là những đại hạnh mà hành nhân sẽ phải làm để thành tựu Bồ-đề tâm sau khi đã phát được cái tâm ấy. Nói cách khác, do nghe được danh hiệu của Phật Di Ðà nên có thể phát được Bồ-đề tâm, và cũng do nhờ phát được Bồ-đề tâm nên mới có thể viên tu được các đại hạnh như là: “tu các công đức, cung kính thực hành Sáu Ba-la-mật, kiên cố bất thoái.”
“Tu các công đức, cung kính thực hành Sáu Ba-la-mật, kiên cố bất thoái” nghĩa là tâm tâm quyết định chẳng thể bị lay động, vĩnh viễn chẳng bị lui sụt đối với công việc thực hiện Sáu Ba-la-mật. Do vì Sáu Ba-la-mật bao trùm vạn hạnh tốt lành, nên Tỳ-kheo Pháp Tạng nói rằng: “Hạnh của con quyết định vững bền, duy trí huệ Phật hay chứng tri, ví dù thân đoạn lìa chư khổ, tâm nguyện con hằng chẳng thối lui.” Đấy đã nói lên trọn vẹn ý nghĩa của cái tâm kiên cố bất thoái thực hành Sáu Ba-la-mật của Tỳ-kheo Pháp Tạng. Nói theo pháp môn Tịnh độ, cái tâm kiên cố bất thoái chính là Nhất Tâm, cũng tức là cái tâm không có vọng niệm, tín tâm chân thật, kiên định, chẳng bị các tâm khác làm não loạn. Hành nhân tu pháp môn Niệm Phật, một lòng một dạ chuyên chí, tâm chẳng duyên theo điều gì khác, tức là trong tâm chỉ nghĩ đến A Di Đà Phật và cõi nước Cực Lạc mà thôi, chẳng nghĩ đến sự vật nào khác, thì mới đúng với ý nghĩa của câu “Nhất Tâm niệm con” trong kinh này. Hơn nữa, Nhất Tâm lại có hai thứ; đó là Sự Nhất Tâm và Lý Nhất Tâm:
· Sự Nhất Tâm là tín sâu, nguyện thiết, một dạ chuyên niệm câu Phật hiệu, không xen lẫn với bất cứ một niệm nào khác. Nếu chúng ta thực hành được như lời Đại sư Thiện Ðạo dạy bảo: “Nhất Tâm chuyên niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, chẳng luận thời tiết, xa gần, niệm niệm chẳng bỏ,” thì đấy chính là ý nghĩa của câu “Nhất Tâm niệm con” của A Di Đà Phật. Do niệm Phật như thế mà từ nơi Sự Nhất Tâm nhập vào Lý Nhất Tâm; thế mà toàn thể của Sự lại chính là Lý, đạt đến chỗ Lý Sự vô ngại, hay sâu hơn nữa là Sự Sự vô ngại. “Sự Sự vô ngại” có nghĩa là trong mội câu niệm Phật đều là niệm Thật tướng, mỗi niệm đều tương ứng với Chân như Phật tánh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, chẳng còn đối đãi phân biệt đối với hết thảy các pháp tướng.
· Lý Nhất Tâm có nghĩa là tâm tâm nhập vào Thật tướng; đây chính là pháp rốt ráo thành Phật của tam thế chư Phật. Bồ-tát muốn nhập vào Thật tướng để cứu cánh Phật quả thì phải có trí tuệ Bát-nhã để quán chiếu sâu xa rằng: Bản thể của hết thảy các pháp đều là Không. Vì sao? Bởi vì trong tướng Không của tất các pháp hoàn toàn chẳng thật sự có các pháp thánh-phàm hay Phật-chúng sanh gì cả. Cho nên từ phàm phu cho đến các bậc thượng thánh, ai ai cũng có thể tu nhân, chứng quả một cách trọn vẹn; nếu các pháp “chẳng Không” thì sẽ chẳng có tác dụng này. Do hành nhân dùng trí tuệ Bát-nhã để quán chiếu sâu xa mà chẳng còn thấy các tướng của vọng kiến là thật có, tất cả đều là hư vọng, nên được cái gọi là “vô tâm sở trụ” hay gọi tắc là “vô tâm” đối với vạn sự vật.