Thiền sư Huyền Quang thế danh là Lý Đạo Tái, sinh vào năm Giáp Dần 1254, người hương Vạn Tải, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Nhà nghèo, nhưng từ thiếu thời Ngài đã lộ tư chất thông minh, học giỏi. Sau đỗ cả thi Hương, thi Hội, Đệ Nhất Giáp Tiến Sĩ (Trạng nguyên), Ngài được bổ làm việc trong Viện Nội Hàn (Hàn Lâm Viện) của triều đình, đón tiếp sứ giả Trung Hoa, nổi tiếng thi văn kiệt xuất.
Sau, Ngài buông bỏ hết chức tước địa vị, xem thường danh lợi phù du, từ chối cả việc làm phò mã của vua Anh Tông, quyết chí xuất gia cầu Đạo tham thiền, theo hầu Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, Đến khi Đệ Nhị Tổ là Pháp Loa truyền y bát cho Ngài, Ngài trở thành vị tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Năm 77 tuổi, Ngài truyền y bát cho Quốc Sư An Tâm, lui về thiền thất tịnh dưỡng. Ba năm sau, năm Giáp Tuất 1334, Ngài qua đời, thọ 80 tuổi, Sau khi Sư viên tịch, vua Trần Minh Tông cho xây Tháp Tổ phía sau chùa Côn Sơn, được gọi là Tháp Huyền Quang, hay “Đăng Minh Bảo Tháp”.
Không chỉ là một thiền sư, Huyền Quang Đệ Tam Tổ còn là một nghệ sĩ với tâm hồn phóng khoáng, một nhà thơ lớn với nhiều bài thơ mang đậm giáo lý nhà Phật. Cuộc đời Ngài mang nhiều màu sắc huyền bí, dị thường, với những câu chuyện ly kỳ hấp dẫn đã trở thành huyền thoại được đưa vào sử sách, truyện tích và cả sân khấu sau này, đáng kể nhất là giai thoại liên quan đến Cung phi Điểm Bích tài sắc vẹn toàn.
Tác phẩm của Ngài rất nhiều, nhưng truyền lưu đến hôm nay chỉ còn 24 bài thơ thiền trong tập “Phú Tự Vịnh Vân Yên”.
Xin mạn phép tán tụng cuộc đời và ân đức hoằng dương chánh pháp của Đệ Tam Tổ bằng bài diễn ca lục bát:
Truyền thừa Y Bát Thứ Ba
Từ tay Nhị Tổ chính là Huyền Quang
Sinh làng Vạn Tải- Lạng Giang
Thỉ tổ họ Lý làm quan nhiều đời
Mẹ là Lê Thị thương người
Ba mươi tuổi khấn xin Trời con trai
Nhân khi dịch bệnh thiên tai
Lên non hái thuốc, nghỉ ngơi tại chùa
Giấc đang thiêm thiếp gió lùa
Thấy con khỉ lớn đang đùa ngoài sân
Khư khư ôm mặt trời hồng
Thẳng tay ném thẳng vào lòng… hoài thai;
Thêm điều linh ứng thứ hai
Thiền sư Huệ Nghĩa trông coi chùa làng
Chùa mang danh tự Ngọc Hoàng
Đang khi thiền định mơ màng giấc linh
Đèn đuốc sáng rực thình lình
Long thần hộ pháp hiện hình đủ đông
Chư Phật, Bồ Tát giáng trần
Lời truyền: “Tôn Giả A Nan nhập đời
Tái sinh vào một kiếp người
Xiển dương Chánh Pháp tức thời cõi Đông!”
Giật mình lòng nhẹ lâng lâng
Thiền sư hoan hỷ, mừng thầm trông tin…
Năm ấy Lê Thị hạ sanh
Sau mười hai tháng con xinh chào đời
Quý tử dung mạo khác người
Tuổi thơ nghe một biết mười lạ thay
Chí khí của bậc sư thầy
Siêu phàm trác việt lộ đầy thiên tư
Mẫu thân chọn lấy hai từ
Đặt tên Đạo Tái nghe như thánh thần
Thuyết rằng: gia cảnh khó khăn
Gặp nhiều trắc trở hôn nhân vì nghèo
Người chê kẻ chối kỳ kèo
Mẫu thân buồn tủi mang nhiều âu lo,
Học hành bữa đói bữa no
Sôi kinh nấu sử học trò đi thi
Trạng Nguyên-Tiến Sĩ đỗ ngay
Người bu kẻ xúm bẩm thầy dạ quan
Thấy sang thiên hạ bắt quàng
Hôn nhân mai mối ngổn ngang duyên tình
“Khó khăn chẳng có ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng, tám nghìn nhân duyên!”
Anh Tông muốn kén rể hiền
Lòng ngay từ chối còn truyền sách xưa
Chẳng màng cưới vợ con Vua
Rõ ràng bậc Thánh cười đùa nhân gian
Trạng Nguyên được bổ làm quan
Đường đường vào chốn Viện Hàn Lâm cao
Từ đây phụng mệnh ra vào
Tiếp đón sứ giả chẳng nao núng lời
Sứ Trung Hoa đã gặp rồi
Thi văn ngôn ngữ bao lời chảy tuông
Giọng vang ngân vọng như chuông
Ý từ trác việt, văn chương siêu phàm
Sứ Tàu kính phục nể nang
Tiếng thơm bay khắp, danh vang đức lừng…
Nhân duyên đưa đẩy một lần
Theo Vua nghe pháp được gần Pháp Loa
Từ trong mạch đá trổ hoa
Ngộ ra duyên trước buông ra ý lòng:
“Làm quan được đến đảo Bồng
Phổ Đà đắc đạo mới mong được về…
Phú quý mây trắng mùa hè
Vinh hoa như lá thu vàng rụng rơi
Mơ màng mến luyến dừng thôi
Tây Thiên cõi Phật là nơi thường hằng!”
Trở về khắc khoải bâng khuâng
Biểu dâng từ chức mấy lần lên Vua
Xuất gia thọ giới tại chùa
Theo hầu Điều Ngự học tu pháp thiền
Trú trì sơn tự Vân Yên
Mở trường dạy học danh truyền Huyền Quang
Môn đồ tụ hội cả ngàn
Về nghe giáo lý tinh thâm của Thầy
Khoa giáo đều phải qua tay
Soạn phê chỉnh sửa đủ đầy đa văn
Vua mời giảng pháp bao lần
Vương tôn đảnh lễ, hoàng thân cúi đầu…
Về quê báo đáp ơn sâu
Đại Bi Thiền Tự dài lâu khánh thành
Trước là phụng dưỡng song thân
Sau truyền Phật pháp cho làng quê xưa…
Trải bao năm tháng nắng mưa
Thuận duyên nghịch cảnh đều chưa thoái lòng
Đá xanh hay khối vàng ròng
Minh Tông muốn thử một lần rõ hay
Chuyện xưa truyền tụng đến nay:
Cung phi Điểm Bích gần Thầy giữa khuya
Lệnh Vua mang chứng cứ về
Một là Đại Giác, hai là Phàm Phu
Điểm Bích hãm hại người tu
Dùng ngay man kế trình Vua xét người
Oan khiêng nghiệp chướng đây rồi
Gánh mang tiếng xấu với đời uế ô
Sen vàng ngoi giữa bùn nhơ
Thiền sư tự tại giữa ngờ với nghi
Đăng đàn chẩn tế một ngày
Thần thông quảng đại quét bay bụi trần
Kinh tâm vương đế quần thần
Hiểu ra kế độc phi tần hại sư
Nhiệm mầu gia hộ người tu
Gian nhân lãnh phạt quét chùa nội cung…
Mới hay Phật pháp vô cùng
Huyền Quang lưu tiếng thơm lừng liên hoa,
Tâm Bi- Trí -Dũng Phật Đà
Trang nghiêm giới tịnh Ta Bà hạo nhiên
Bao năm tâm gửi cửa Thiền
Tận tâm với Pháp, gieo duyên với Trần
“Phổ Tuệ Ngữ Lục” bao trang
“Ngọc Tiên Thi Tập”, “Công Văn” lưu đời
“Chư Phẩm Kinh” cứu độ người
Tiếc thay điên đảo mất rồi bản nguyên…
Còn “Phú Tự Vịnh Vân Yên”
Hai mươi tư áng thơ thiền chuyển trao
Côn Sơn- Tư Phúc non cao
Thanh Mai tịch mịch in sâu bóng Ngài
Liên Hoa Cửu Phẩm pháp đài
Còn lưu đạo hạnh đức tài Thiền Sư
Tâm hồn nghệ sĩ thi thư
Tự do phóng khoáng, tâm như phiêu bồng
Nhưng nào vấy bẩn bụi trần
An nhiên thanh thoát nẻo gần lối xa
Chọn ngày y bát trưng ra
Trao truyền tâm ấn Pháp Loa chọn rồi
Đệ tam Sư Tổ là Người
Kế thừa đuốc tuệ soi đời nhiễu nhương
Thiền tông Yên Tử nức hương
Lãnh đạo Giáo Hội tiếp đường độ sanh…
Tuổi già sức yếu mong manh
Bảy mươi bảy tuổi phải đành chuyển trao
Trọng trách ủy thác nơi nào
Quốc Sư có đó ra vào An Tâm…
Tháng giêng Giáp Tuất đầu năm
Xả thân ngũ uẩn, phất trần ra đi
Minh Tông phong hiệu cho Ngài
“Từ Pháp Tôn Gia” lưu hoài thiên thu…