Trong Phẩm Bồ Tát Vãng Sanh của Kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật bảo Di Lặc: “Ở thế giới này có bảy trăm hai mươi ức Bồ tát, đã từng cúng dường vô số chư Phật, trồng các cội đức, sẽ sinh nước đó. Bồ tát hạnh nhỏ, tu tập công đức, sẽ được vãng sanh không thể tính kể.” Vì sao đức Phật lại giảng về việc vãng sanh của thập phương Bồ tát, số đến vô lượng? Phật nói điều này nhằm mục đích chỉ rõ diệu pháp Tịnh Ðộ thâu nhiếp cả phàm lẫn thánh, độ cả lợi căn lẫn độn căn. Cho nên Phật khuyên khắp chúng sanh cầu sanh Tịnh Ðộ.
Đức Phật nói rằng, có đến bảy trăm hai mươi ức đại hạnh Bồ tát trong cõi Sa bà này vãng sanh Cực Lạc, còn Bồ tát hạnh nhỏ thì chẳng thể nào tính kể nổi số lượng. Đại hạnh Bồ tát nói gọn là Đại Bồ tát, cũng chính là Bất Thoái Bồ tát. Tiểu hạnh Bồ tát là hàng Thập Tín Bồ tát, tính từ Sơ địa cho đến Thất địa, tức là mười ngôi vị ban đầu trong năm mươi ngôi vị của Bồ tát. Vì sao Kinh lại gọi hàng Thập Tín Bồ tát là Tiểu hạnh Bồ tát? Bởi vì các Bồ tát này tín tâm đối với Phật pháp chưa vững chắc, còn thăng trầm bất tịnh, chưa chứng được Tịnh tâm. Vì thế, Tiểu hạnh Bồ tát vẫn còn phải tu tập công đức để chứng tịnh tâm. Các pháp tu tập công đức này chính là rèn luyện mười đức tin của một vị Bồ tát mà trong đó Tín Tâm đứng đầu. Thập Tín còn gọi là Thập Tín Vị hay Thập Tín Tâm. Theo Kinh Bồ tát Anh Lạc Bổn Nghiệp quyển thượng, Thập Tín Tâm gồm có: Tín, Niệm, Tinh Tấn, Định, Huệ, Giới, Hồi Hướng, Hộ Pháp, Xả và Nguyện Tâm. Năm thứ tâm đầu (Tín, Niệm, Tinh Tấn, Định, Huệ) còn gọi là ngũ lực.
Rồi Phật lạ nói tiếp: “Chẳng những cõi ta, các vị Bồ tát, vãng sanh nước đó, cõi Phật phương khác, cũng đặng như thế. Từ cõi Phật Viễn Chiếu, có đến mười tám câu chi na do tha đại Bồ tát, sinh về nước đó. Về hướng Ðông Bắc, cõi Phật Bảo Tạng, có chín mươi ức, Bồ tát bất thối, sinh về nước đó. Từ ở cõi nước Phật Vô Lượng Âm, cõi Phật Quang Minh, cõi Phật Long Thiên, cõi Phật Thắng Lực, cõi Phật Sư Tử, cõi Phật Ly Trần, cõi Phật Ðức Thủ, cõi Phật Nhân Vương, cõi Phật Hoa Tràng, Bồ tát bất thối, vãng sanh về đó, hoặc mười trăm ức, hoặc một trăm ngàn, đến một vạn ức.” Đấy đã nói rõ, chư vị Bồ tát trong mười phương cõi Phật đều quy hướng Tịnh độ Di Đà.
Trong phẩm Kinh này, chúng ta thấy: Ngay cả các vị Bất Thoái Chuyển Bồ tát cũng vãng sanh Cực Lạc, nghĩa ấy là như thế nào? Bồ tát có hai loại: Một là hạng Bồ tát có tâm từ bi thường vì chúng sanh mà vào các cõi sanh tử, không có Phật pháp để giáo hóa chúng sanh. Hai là hạng Bồ tát thích tu tập nhiều các công đức của Phật. Hạng thích tu tập nhiều các công đức của chư Phật thì nguyện sanh trong thế giới Nhất Thừa thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọ để mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ Đề.
Các vị Bồ tát từ Sơ Ðịa trở lên, Thất Ðịa trở xuống cần phải vận tâm nhập tam muội mới có thể hiện thân trong trăm, ngàn, ức, hoặc trăm ngàn vạn ức cõi không có Phật để làm Phật sự. Do các Ngài vẫn còn phải vận tâm để nhập tam muội nên chẳng thể đắc tịnh tâm. Bởi do vấn nạn này nên các Ngài phải nguyện sanh trong Tịnh Ðộ An Lạc để thấy Phật A Di Ðà mà được thân rốt ráo, đắc pháp bình đẳng với các bậc địa thượng Bồ tát. Long Thọ Bồ tát, Thế Thân Bồ tát nguyện sanh về cõi ấy cũng chính vì điều này. Lại nữa, còn có nhiều Bồ tát trong Thất Ðịa tuy đã đắc đại tịch tĩnh, nhưng trên chẳng thấy chư Phật để cầu quả vị Phật, dưới chẳng thấy chúng sanh để độ. Lúc bấy giờ, họ chẳng được thần lực của thập phương chư Phật hỗ trợ khuyến khích, nên liền diệt độ, chẳng khác gì Nhị Thừa. Còn các Bồ tát vãng sanh cõi An Lạc thì do thấy A Di Ðà Phật nên không mắc vào cái nạn này.
Ðoạn Kinh trên nói rõ Bồ tát vãng sanh chẳng thể tính nổi số, họ đều là những vị được nguyện lực của Như Lai gia trì, quang minh của Phật nhiếp thọ, nên họ có thể hiện thân trong vô lượng cõi Phật, thấy hết tất cả chư Phật trong mười phương, mà chẳng cần phải vận tâm nhập tam muội. Bởi thế, Trí Giả Đại sư khi lâm chung sai môn đồ xướng tụng đề mục các Kinh Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, rồi Ngài chắp tay khen rằng: “Bốn mươi tám nguyện trang nghiêm Tịnh Ðộ, ao hoa, cây báu, dễ đi mà chẳng có người. Dẫu tướng xe bốc lửa hiện, nhất niệm cải hối còn được vãng sanh, huống hồ giới, định huân tu. Thánh hạnh đạo lực thật chẳng luống uổng.” Nói xong, Ngài xưng danh hiệu Tam Bảo, nghiễm nhiên mà tịch.
Vào đời Ðường, Tịnh Tông Tứ Tổ Pháp Chiếu Đại sư lên núi Ngũ Ðài, vào chùa Trúc Lâm Ðại Thánh, gặp hai vị Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền liền thưa hỏi pháp yếu tu hành. Ðức Văn Thù liền dạy: “Các môn tu hành chẳng môn nào bằng pháp Niệm Phật. Trong kiếp quá khứ, ta do niệm Phật, nên đắc Nhất Thiết Chủng Trí. Vì thế, hết thảy các pháp: Bát Nhã Ba La Mật Ða, thiền định rất sâu cho đến biển Chánh Biến Tri của chư Phật, đều từ pháp Niệm Phật sanh ra.”
Trong Kinh Hoa Nghiêm cũng nói rõ, hai vị thượng thủ của Kinh Hoa Nghiêm là Văn Thù và Phổ Hiền Bồ tát và các đại Bồ tát khác trong cõi Hoa Tạng Thế Giới của Tỳ Lô Xá Na Phật vì muốn mau chóng chứng quả Nhất Thừa, nên đồng phát tâm niệm Phật, cầu sanh Cực Lạc Thế Giới.
Khi xưa, Ngài Huệ Nhật cưỡi thuyền vượt biển đến Thiên Trúc, nước Kiện Ðà La, nơi có thờ tượng Quán Âm. Ngài Huệ Nhật dập đầu lễ bái tượng Quán Âm suốt bảy ngày, lại nhịn ăn. Ðến đêm hôm thứ bảy, chợt thấy Quán Âm hiện tử kim thân, ngồi tòa sen báu, đưa tay xoa đầu Ngài bảo: “Ông muốn truyền pháp tự lợi, lợi tha thì chỉ cần niệm đức A Di Ðà Phật ở Tây Phương Cực Lạc thế giới.”
Rõ ràng là pháp môn Tịnh Ðộ vượt hẳn các hạnh. Ngoài ra, các tác phẩm Vãng Sanh Luận của Thiên Thân đại sĩ, Khởi Tín Luận của Mã Minh đại sĩ, Thập Nghi Luận của Trí Giả Đại sư và bao nhiêu trước tác của các vị đại đức Vĩnh Minh, Thiên Như, Sở Thạch, Liên Trì v.v... không tác phẩm nào lại chẳng ân cần khen ngợi, dẫn dắt về việc vãng sanh Tây Phương, quyết chẳng phải là việc lừa dối người đời. Huống hồ chúng ta sanh nhằm đời mạt vận, pháp nhược ma cường, người tu hành như chúng ta không có đủ sức định huệ để nhìn thấu chân tướng sự thật của cảnh giới hiện ra ở trước mắt, lại thường gặp phải những độc lực phiền não khó xả bỏ, nếu không biết nương vào từ lực gia bị của Phật A Di Đà thì há chẳng phải là đi lầm đường rồi hay sao? Người chân thành cung kính, tín nguyện sâu thiết, một dạ chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Cực Lạc, ở nơi họ tự đã chứng thực được sự gia trì, khuyến khích, cỗ vũ của Phật A Di Đà trong những lúc gặp khó khăn, hoạn nạn trong cái ngục tù tam giới này. Phật A Di Đà luôn gia hộ cho những người này, khiến cho tâm họ thường luôn an lạc, luôn nhớ niệm đức Phật Di Đà phương Tây và quốc độ của Ngài, để lúc lâm chung có thể tự tại vãng sanh, mau được nghe pháp và chứng bất thoái chuyển. Nếu chúng ta vẫn bồi hồi chẳng tin, tham đắm trần lao, thì có khác gì như con thiêu thân tự mình đâm đầu vào lửa lớn, như con cá bị mắc cạn, thì biết đến bao giờ mới thoát ra khỏi ngục ba cõi, hết tận đại khổ? Chúng ta phải nên dũng mãnh phản tỉnh, đừng cầu pháp nào khác nữa! Phải nên vâng lời Phật khuyên dạy: “Phát Bồ đề tâm, một bề chuyên niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Cực Lạc.” Tín, nguyện là “phát Bồ Ðề tâm,” trì danh là “một bề chuyên niệm A Di Đà Phật.” Ðấy chính là tông chỉ của toàn bộ Kinh này.