Kính thưa chư vị Pháp sư, chư vị đồng học.
Xin chào tất cả mọi người, một buổi chiều an lành.
Hôm nay chúng ta tụ hội nơi đây, nhìn thấy trong toàn xã hội trên thế giới hiện nay, lòng người bồn chồn bất an, nơi ăn chốn ở cũng thường gặp rất nhiều tai nạn. Có người nói rằng, những tai nạn ở Trung quốc so với các nước khác nhẹ hơn rất nhiều. Tai nạn ở các nước khác, so với Trung quốc nặng nề hơn.
Tôi nghĩ, tổ tông người Trung quốc từ mấy ngàn năm qua tu thiện tích đức, lại còn có Phật giáo Đại thừa tại Trung quốc. Về mặt Phật pháp mà suy xét thì đích thực là có thánh nhân ở tại Trung quốc, như là Tứ đại danh sơn: núi Ngũ Đài có Bồ Tát Văn Thù, núi Phổ Đà có Bồ Tát Quán Thế Âm, núi Cửu Hoa có Bồ Tát Địa Tạng Vương, núi Nga Mi có Bồ Tát Phổ Hiền. Các vị Đại Bồ Tát ấy quả thật có hiện hữu. Núi Kê Túc ở Vân Nam có Tôn giả Đại Ca-diếp, người hữu duyên có thể được gặp. Quả thật là đã có người gặp rồi, tuyệt đối không phải lời nói dối. Các vị Bồ Tát ấy ở tại Trung quốc, cho nên tai nạn ở Trung quốc ít đi. Chúng ta phải biết ơn các ngài.
Hy vọng duy nhất của người niệm Phật là trong một đời này có thể vãng sinh Tịnh độ. Cho nên, mấy năm gần đây Tịnh độ tông hết sức hưng vượng, người niệm Phật rất nhiều. Chúng ta đích thực là vô cùng may mắn, sinh ra ở thế gian này, có thể được sinh tại Trung quốc, được gặp Phật pháp Đại thừa, đặc biệt là được gặp Tịnh độ tông. Tịnh độ tông trong thời đại của chúng ta có duyên phần đặc biệt thù thắng, có Lão cư sĩ Hạ Liên Cư đã vì chúng ta hội tập bản kinh Vô Lượng Thọ rất hay.
Kinh Vô Lượng Thọ là bộ kinh điển sớm nhất của Tịnh độ tông, đã có từ thời Đông Tấn (317 – 420). Vào thời ấy, kinh điển Phật giáo được liên tục truyền đến Trung quốc. Tổ sư đời thứ nhất của Tịnh độ tông là Đại sư Viễn Công, tức Đại sư Tuệ Viễn, đã tu tập y theo kinh Vô Lượng Thọ. Vì sao vậy? Vì thời ấy các kinh A-di-đà, Quán Vô Lượng Thọ đều chưa được phiên dịch. Có khả năng là đã truyền đến Trung quốc nhưng chưa được phiên dịch. Cho nên, Niệm Phật Đường Đông Lâm của Viễn Công có hơn trăm người, tất cả đều được đều vãng sinh, không một người nào không thành tựu. Chúng ta suy ngẫm xem đó là nhờ nguyên nhân gì? Là vì chỉ có một bản kinh, chỉ có một bản duy nhất nên không bị xen tạp.
Chúng ta hiện tại có rất nhiều kinh, quả thật là rất nhiều kinh. Kinh Vô Lượng Thọ có chín bản in khác nhau, chúng ta biết y theo bản nào? Quán kinh, kinh A-di-đà cũng đều có hai bản in khác nhau, lại còn có Đại Thế Chí Viên Thông chương, Phổ Hiền Hạnh Nguyện phẩm, Vãng Sinh luận. Cả thảy là năm kinh, một luận. Như vậy là tốt hay không tốt? Tốt thôi, đều tốt cả, không có gì là không tốt. Chỉ có điều, sự học tập của chúng ta cần phải chuyên nhất, cần phải luôn ghi nhớ phương pháp, cách nhận thức mà chư tổ đã dạy. Bất kể là trong học thuật thế gian hay xuất thế gian, đều phải “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu” (vào sâu một pháp, huân tu lâu dài). Không được tu hành xen tạp, không được hành trì rối loạn. Một khi có sự xen tạp, rối loạn thì tâm ý liền phân tán, tinh thần chúng ta không thể tập trung, thời gian cũng không thể tập trung, cho nên không thể vãng sinh, chỉ có thể kết mối duyên lành với Tịnh độ tông mà thôi.
Điều kiện vãng sinh của Tịnh độ tông, trong kinh giảng giải rất rõ ràng. Hạt nhân chủ đạo trong giáo pháp Tịnh độ tông chính là bốn mươi tám đại nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ. Bốn mươi tám đại nguyện này là tinh túy học tập của Tịnh độ tông, tuy không nhiều nhưng nhất định phải học hiểu thật rõ ràng, thật sáng tỏ. Nếu thực sự tụng niệm bốn mươi tám đại nguyện này thật thuần thục, thật thông suốt, đối với đức Phật A-di-đà ở thế giới Tây phương Cực Lạc có lòng tin kiên định, có nguyện vọng mãnh liệt được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, thì đó là những điều kiện cần thiết để được vãng sinh về thế giới Cực Lạc.
Đại sư Ngẫu Ích trong A-di-đà kinh yếu giải nói rằng, có thể vãng sinh hay không là quyết định ở chỗ có tín nguyện hay không, còn phẩm vị [vãng sinh cao hay thấp] là do công phu niệm Phật sâu hay cạn. Quý vị xem, nói như vậy rất rõ ràng, rất sáng tỏ.
Người xưa tu Tịnh độ vãng sinh rất nhiều. Hiện nay người niệm Phật rất nhiều, người vãng sinh rất ít. Nguyên nhân là gì? Là vì không thực sự tin nhận, không thực sự có tâm nguyện, đối với thế gian này vẫn còn lưu luyến, vẫn còn chưa thể buông bỏ hết. Đối với đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc vẫn còn hoài nghi. Chỉ cần một mảy may hoài nghi là đã tạo thành chướng ngại cho sự vãng sinh của chúng ta.
Làm sao để dứt sạch hoài nghi, khởi sinh lòng tin chân chánh, tâm nguyện thiết tha? Muốn vậy thì nhất định phải từ nơi kinh Vô Lượng Thọ mà khởi sự công phu tu tập. Từ nhiều năm qua, chúng ta thật may mắn vô cùng khi có được bản kinh hội tập của Lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Bản kinh này sau Thế chiến thứ hai mới được lưu thông, cho nên các vị pháp sư thế hệ trước chúng ta rất nhiều người không gặp được bản kinh này. Đến như bản Tập chú của Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ thì càng muộn hơn, phải đến khoảng các thập niên 1980, 1990.
Vào thập niên 1980, tôi với Niệm lão cư sĩ quen nhau tại Hoa Kỳ. Tôi đến Hoa Kỳ hoằng pháp, lão cư sĩ cũng đến Hoa Kỳ nên gặp nhau tại đó. Sau khi biết nhau, tôi hết sức ủng hộ, hoằng dương bản Tập chú này, y theo sách này mà học tập. Khi ấy ở nước ngoài có tôi, ở trong nước có Niệm lão cư sĩ, cho nên chúng tôi từ sau khi gặp nhau hết sức vui mừng hoan hỷ, đích thực là cùng chí hướng, hợp đạo tâm. Khi bản Tập chú của Niệm lão cư sĩ vừa hoàn tất, vẫn còn chưa in ấn phát hành, ông mang theo một bản in ronéo đến Hoa Kỳ, gặp tôi liền trao tặng. Tôi xem qua rồi hết sức vui mừng, liền thưa hỏi Lão cư sĩ: “Cư sĩ có giữ bản quyền sách này hay không?” Lão cư sĩ hỏi lại tôi: “Thầy hỏi như thế là có ý gì?” Tôi nói: “Tôi tôn trọng cư sĩ. Nếu như cư sĩ giữ bản quyền, tôi sẽ tùy theo ý cư sĩ. Bằng như cư sĩ không giữ bản quyền, tôi muốn mang sách này về Đài Loan in ấn lưu hành.” Lão cư sĩ nói: “Không giữ bản quyền.” Ông lại đề nghị tôi thay ông viết một bài tựa, thay ông viết lời đầu sách. Những việc ấy tôi đều thay ông làm. Sau đó tôi dùng bản thảo đầu tiên này in ra 10.000 quyển, là 10.000 bản in bìa cứng. Lão cư sĩ thấy vậy hết sức hoan hỷ.
Bản in lần đầu này in xong tại Đài Loan, đưa ra lưu hành ở nước ngoài. Hiện tại sách này đã in ấn rất nhiều lần, hơn nữa còn được Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ tu đính nhiều lần. Bản in chúng ta nhìn thấy hiện nay so với bản in lần đầu tiên có tăng thêm số trang, có nhiều chỗ chỉnh sửa.
Sách này cũng khiến nhiều người hoài nghi, phê bình, thậm chí hủy báng, làm cho rất nhiều vị đồng học mới phát tâm nghe qua những lời lẽ ấy đều phải thối tâm, không dám học theo. Thời gian dài như thế, nhiều người như thế, thật không dễ dàng chút nào.
Bộ kinh Hội tập này sau khi Lão cư sĩ Hạ Liên Cư vãng sinh cũng có người phê bình, khi ấy Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ vẫn còn. Sau khi bản chú giải hoàn tất rồi thì Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng vãng sinh. Bộ sách sau cùng của ông để lại là Tịnh tu tiệp yếu báo ân đàm. Sách này không phải do ông viết ra, mà là những lời ông nói. Một số học trò của ông, cũng không nhiều lắm, khoảng chừng năm, sáu người, dùng phương thức đàm thoại, đem sách “Tịnh tu tiệp yếu” [của Lão cư sĩ Hạ Liên Cư] diễn giải tỉ mỉ qua một lượt từ đầu đến cuối. Thời ấy tuy cũng đã có ghi âm, ghi hình, nhưng chất lượng ghi âm, ghi hình đều rất kém. Cho nên, sau khi Lão cư sĩ vãng sinh rồi, phải mất rất nhiều năm, đến mười mấy năm, chúng tôi tốn rất nhiều nhân lực, thời gian, mới có thể chỉnh lý xong và xuất bản. Đều là nhờ sự gia trì của Tam bảo, đức độ của tổ tông, nên bản sách này mới hoàn tất in ra được, là nỗ lực hết sức bảo tồn những lời trước đây của Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Nội dung này tôi đã xem đi xem lại đến mấy mươi lần, đều là ghi lại những điều tâm đắc cuối cùng của Hoàng lão cư sĩ trong suốt một đời học Phật.
Tuy là trong sách hoàn toàn hướng về Cực Lạc, khuyên chúng ta tín nguyện trì danh, một lòng chuyên niệm, cầu sinh Tịnh độ, thế nhưng Lão cư sĩ trong lúc giảng giải trao đổi cũng đề cập đến Hiển giáo, Mật giáo, Đại thừa, Tiểu thừa, Thiền tông, Giáo tông... Hết thảy các giáo pháp mà đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết dạy trong suốt bốn mươi chín năm, ông đều mang ra giảng rõ. Nếu chúng ta muốn tìm hiểu Phật giáo thì đây là một quyển sách rất hay, số trang không nhiều nhưng giảng giải được rất rõ ràng, sáng tỏ, rất thấu triệt. Nếu chúng ta có sự hoài nghi đối với Tịnh độ tông, sau khi đọc xong sách này thì những hoài nghi ấy có thể được hóa giải. Thật rất khó tìm được một quyển sách hay như vậy.
Hiện nay tôi vẫn thường khuyên mọi người, Tịnh độ tông chúng ta hiện tại dựa vào ba bộ kinh sách. Bộ thứ nhất là kinh Vô Lượng Thọ, là bộ kinh chủ yếu nhất của chúng ta. Đây là bộ kinh giảng rõ về thế giới Cực Lạc, là bộ sách hay dẫn đường chúng ta về thế giới Cực Lạc. Chúng ta nhất định phải nỗ lực đọc qua, đọc qua càng nhiều lần càng tốt.
Trong quá khứ tôi thường khuyên mọi người, bản kinh này không dài lắm, nếu như tụng niệm thuần thục rồi thì mỗi lượt tụng qua hết khoảng chừng một giờ, hoặc năm mươi phút. Cũng có người tụng rất thuần thục thì mỗi lượt tụng chỉ còn khoảng nửa giờ. Chúng ta là những người mới học thì mỗi lượt tụng qua khoảng chừng hai giờ. Tụng niệm trong nửa năm, mỗi ngày tụng qua mười lượt, qua nửa năm như vậy thì mỗi lần tụng có thể còn khoảng một giờ.
Tụng niệm nhiều lượt thì không cần thiết suy ngẫm đến ý nghĩa trong kinh. Việc nghe giảng kinh thì tôi đã giảng qua kinh này rất nhiều lần, mỗi lần đều có lưu giữ bản ghi âm, trên mạng Internet hoặc truyền hình vệ tinh, mọi người đều có thể xem được, nghe được, giúp cho mọi người có thể nhận hiểu, lý giải được ý nghĩa. Đó là những duyên phần rất khó có được, hết sức hy hữu.
Thầy tôi là Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam có đọc qua bản Hội tập của Lão cư sĩ Hạ Liên Cư, còn bản chú giải của Hoàng Niệm Tổ ông chưa từng thấy qua. Khi quyển chú giải này được in ra thì Lý lão sư đã vãng sinh trước đó rồi, chưa nhìn thấy. Cho nên, chúng ta sinh vào thế hệ này là vô cùng may mắn.
Bản sách này [lại có nhân duyên] với Lão hòa thượng Hải Hiền (là một vị lão hòa thượng gần đây). Ngài chuyên tu Tịnh độ, về cuộc đời ngài tôi đã có giới thiệu trong một tập sách nhỏ là Lai Phật Tam Thánh Vĩnh Tư Tập. Chuyện về ngài có một đĩa VCD, một quyển sách, chúng ta cũng có thể xem qua để tăng trưởng tín tâm, ngài vì chúng ta mà chứng minh. Ngài vãng sinh năm 112 tuổi, tấm ảnh này của ngài được chụp trước khi vãng sinh ba ngày, là tấm ảnh được chụp sau cùng, trên tay cầm quyển sách, chính là quyển “Nhược yếu Phật pháp hưng, duy hữu tăng tán tăng”.
Nội dung sách này nói gì? Nội dung sách này thay chúng ta biện bác [những sai lầm]. Vì có những người khác phê bình [sai trái về] Tịnh độ tông, sách này ra đời để ứng đáp. Trong sách nêu rất nhiều ví dụ điển hình, chứng minh rằng phương thức hội tập [kinh điển] không phải bắt đầu từ Hạ Liên Cư, cũng không phải bắt đầu từ Vương Long Thư, mà đã có từ thời điểm kinh Phật vừa truyền đến Trung quốc. Việc phiên dịch kinh điển ngay từ những ngày đầu tiên đã sử dụng phương thức này, bằng cách đem nhiều bộ kinh hợp lại cùng phiên dịch một lần. Cách phiên dịch như vậy thời ấy gọi là “hợp kinh”. Hợp nhiều bản để tạo thành một bản, đó chính là bản hội tập. Cho nên, không có lý gì lại cho rằng không thể hội tập, hội tập là không đúng pháp. Ngoài ra, hầu hết những tư liệu mà nhiều năm qua chúng ta sử dụng để hoằng dương Tịnh độ tông là dựa vào [bản hội tập] kinh Vô Lượng Thọ [của Hạ Liên Cư], dựa vào bản tập chú của Hoàng Niệm Tổ, đều chính xác không sai lệch.
Phương thức hội tập, kể từ khi có lịch sử ghi chép đến nay đã qua hai ngàn năm, trải qua nhiều đời phiên dịch, hoặc do người đời sau hội tập, cũng đều làm như vậy. Bản hội tập của Lão cư sĩ Hạ Liên Cư là hoàn hảo nhất. Vì sao vậy? Vì mỗi chữ, mỗi câu được ông đưa vào đều có nguồn gốc xuất xứ, không dùng ý riêng của mình, không hề thay đổi bất cứ chữ nào trong kinh văn. Nói cách khác, trong bản Hội tập của Hạ Liên Cư, mỗi câu mỗi chữ đều là do chính đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết dạy, là kinh điển chân thật, so với các bản phiên dịch còn chân thật hơn, chính xác hơn. Điều này rất khó đạt được. Lão hòa thượng Hải Hiền đã vì chúng ta mà ấn chứng, mà chứng minh [cho bản Hội tập này].
Điểm thứ hai là ngài vì chúng ta chứng minh cho bản chú giải của Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Chúng ta thấy, Hoàng lão cư sĩ đã trích dẫn 83 bản kinh luận, 110 bản chú sớ, giải thích của các bậc tổ sư, đại đức. Cho nên đây cũng là một bản hội tập, một bản hội tập các chú giải. Bản chú giải này chính là dùng phương thức hội tập. Kinh [Vô Lượng Thọ] là hội tập, chú giải là hội tập, bản chú giải này toàn là chánh tri chánh kiến, không có vấn đề bất ổn nào.
Điểm thứ ba là [Lão hòa thượng Hải Hiền] vì chúng ta chứng minh việc những năm qua chúng ta y chiếu theo bản kinh [Hội tập] này, bản chú giải này để tu hành, quyết định là chính xác, không có sai lầm.
Lão hòa thượng Hải Hiển vì chúng ta ấn chứng như vậy, chúng ta không còn nghi ngại, hoàn toàn yên tâm, vào sâu một pháp, huân tu lâu dài, đọc kinh sách ngàn lượt, ý nghĩa trong đó tự thấy được.
Chúng ta có được vãng sinh hay không tùy thuộc vào bốn chữ. Đại sư Ngẫu Ích đã dạy, đại sư Ấn Quang cũng dạy như vậy. Bốn chữ đó là: “chân tín thiết nguyện” (tin chân thật, nguyện thiết tha). Không một mảy may hoài nghi. Người khác nói gì đều là chuyện của họ, không liên can gì đến ta. Chúng ta chuyên tâm y theo bản kinh này, bản chú giải này, nhận hiểu về thế giới Tây phương Cực Lạc, không một chút hoài nghi.
Chúng ta hướng về thế giới Tây phương Cực Lạc, chúng ta hướng về đức Phật A-di-đà, chúng ta đến thế giới Cực Lạc thân cận với đức Phật A-di-đà, làm đệ tử Phật A-di-đà, phải phát khởi tâm nguyện như vậy. Tâm nguyện như vậy là tâm nguyện chân thật, niềm tin như vậy là niềm tin chân thật. Có đầy đủ tâm nguyện và niềm tin chân thật, như vậy là có đủ điều kiện được vãng sinh.
Một khi chúng ta vừa phát tâm, đức Phật A-di-đà liền rõ biết. Đức Phật A-di-đà sẽ đến với quý vị, hoặc trong khi thiền định, hoặc trong giấc mộng, quý vị sẽ được gặp đức Phật A-di-đà. Đức Phật A-di-đà sẽ báo cho quý vị biết rằng tuổi thọ của quý vị còn bao nhiêu năm nữa. Đợi đến khi tuổi thọ đã hết, đức Phật A-di-đà sẽ đến tiếp dẫn quý vị. Báo trước cho quý vị biết như vậy.
Nói để quý vị biết, tại thế giới Cực Lạc đã có ghi chép về quý vị, tại đó có tên họ quý vị rồi. Trên tòa sen cũng có tên quý vị, tòa ngồi trong giảng đường của đức Phật A-di-đà cũng có tên của quý vị rồi. Quý vị có thể kiên tâm chuyên ý niệm Phật cầu vãng sinh.
Cũng có những người căn tánh hết sức lanh lợi, sau khi được gặp Phật A-di-đà liền hướng Phật thỉnh cầu, không còn quan tâm đến tuổi thọ ở đời, chỉ muốn ngay lập tức vãng sinh theo Phật. Có trường hợp như vậy hay không? Có, mà rất nhiều chứ không phải ít. Chúng ta xem trong Vãng sinh truyện, Tịnh độ thánh hiền lục, có rất nhiều người, niệm Phật qua ba năm liền vãng sinh. Có phải sau ba năm tuổi thọ của họ đã hết? Không phải. Đó là sau ba năm, đức Phật A-di-đà hiện đến báo tin cho họ, họ không còn quan tâm đến tuổi thọ nữa, liền cùng đi với đức Phật A-di-đà. Đức Phật A-di-đà tiếp dẫn họ đi ngay. Ý nghĩa này, sự thật này chúng ta cần phải hiểu rõ.
Cho nên, có thể được vãng sinh hay không là tùy thuộc vào bốn chữ: “chân tín thiết nguyện” (tin chân thật, nguyện thiết tha). Chúng ta hiện nay có rất nhiều người niệm Phật, nhưng người vãng sinh không được bao nhiêu. Nguyên nhân là gì? Vì niềm tin không chân thật. Khi thời điểm đến, quý vị xem, ví như có bệnh, người niệm Phật không cầu vãng sinh mà cầu thầy thuốc. Cầu thầy thuốc đến trị bệnh, người như vậy không có tín tâm. Điều quan trọng thiết yếu nhất là phải nắm chắc việc vãng sinh. Chúng ta nắm chắc việc vãng sinh, đó là “chân tín thiết nguyện” (tin chân thật, nguyện thiết tha).
Còn niệm Phật thì sao? Niệm Phật là một chuyện khác nữa. Phẩm vị [vãng sinh] cao hay thấp là do công phu niệm Phật sâu hay cạn, không phải do niệm ít hay niệm nhiều. Niệm ít hay nhiều đều không quan hệ. Trong bốn mươi tám nguyện, nguyện thứ mười tám nói rất rõ ràng. Vào lúc lâm chung có đủ niềm tin chân chánh, nguyện lực thiết tha, niệm Phật mười câu hay một câu cũng đều được vãng sinh.
Điều này quan hệ đến phẩm vị cao hay thấp khi vãng sinh về thế giới Cực Lạc. Cho nên đây là hai việc khác nhau, niệm Phật là vấn đề phẩm vị cao hay thấp. Nếu chúng ta muốn được vãng sinh về thế giới Cực Lạc với phẩm vị cao hơn một chút, vậy phải tu theo cách nào? Công phu niệm Phật phải sâu. Không phải là việc niệm nhiều hay ít, niệm nhiều hay ít không quan hệ. Việc nhiều niệm hay ít niệm đều không quan hệ.
Những gì gọi là công phu niệm Phật? Tiêu đề kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ ràng. Nếu quý vị dùng tâm thanh tịnh niệm Phật có công phu, phẩm vị vãng sinh rất cao, là thượng phẩm thượng sinh, [cao nhất] ở cõi Phàm thánh đồng cư. Nếu dùng tâm bình đẳng niệm Phật, ít nhất cũng được sinh về cõi Phương tiện hữu dư, tức là cao hơn nữa. Nếu quý vị dùng tâm giác ngộ niệm Phật, tâm giác ngộ đó không còn mê muội. Giác ngộ đó là gì? Giác đó là khai ngộ, là tâm ý sáng suốt, thấy được tự tánh. Niệm Phật đạt đến giác ngộ như vậy, quý vị được vãng sinh về cõi Thật báo trang nghiêm. Những điều đó là công phu.
Công phu nói cho đến chỗ rốt cùng chỉ là một câu, buông xả được hết. Những gì gọi là công phu? Nhìn thấu suốt, buông xả hết, đó là công phu. Nhìn thấu suốt, là hiểu rõ được chân tướng sự thật. Buông xả hết, là không ôm giữ bất cứ điều gì trong lòng. Trong lòng chỉ có duy nhất đức Phật A-di-đà, ngoài Phật A-di-đà ra không còn gì khác, hết thảy mọi thứ đều buông xả. Công phu như vậy, người như vậy thì vãng sinh phẩm vị cao.
Trong lòng nếu có sự hoài nghi thì không thể vãng sinh, chuyện công phu đương nhiên không cần nói đến. Niệm Phật dù niệm rất tốt, cũng không nhất định được vãng sinh. Vì sao vậy? Vì điều đó không quan hệ đến chuyện quý vị được vãng sinh hay không vãng sinh. Vãng sinh là do lòng tin và nguyện lực. Điều này phải ghi nhớ. Nhất định phải tin nhận, không thể có sự hoài nghi. Có lòng tin, có tâm nguyện, quý vị nhất định sẽ được vãng sinh.
Công phu [niệm Phật] cạn cợt, hoặc không có công phu, nhưng lúc lâm chung niệm một câu Phật liền được vãng sinh. Chỉ có điều phẩm vị vãng sinh thấp. Dù thấp cũng không quan trọng. Đại sư Ngẫu Ích năm xưa khi còn tại thế, có người thưa hỏi, Đại sư niệm Phật cầu sinh thế giới Cực Lạc, được vãng sinh ở phẩm vị nào thì thỏa nguyện? Đại sư trả lời rất hay: “Tôi chỉ cần được hạ phẩm hạ sinh là đủ mãn nguyện rồi.” Chỉ cần được vãng sinh là mãn nguyện rồi, như vậy là được rồi, đích thực được về thế giới Tây phương Cực Lạc, quá tốt! Không quan trọng phải là phẩm vị nào.
Chúng ta hiện tại xem kinh, trong bốn mươi tám nguyện thì nguyện thứ hai mươi là gì? Là được làm Bồ Tát A-duy-việt trí, Bồ Tát bất thối chuyển. Nguyện thứ mười chín là phát tâm Bồ-đề. Nguyện thứ mười tám là mười niệm ắt được vãng sinh, nhưng mười niệm ấy phải có niềm tin chân thật, nguyện lực thiết tha. Không có niềm tin chân thật và nguyện lực thiết tha thì không thể vãng sinh. Điều này chúng ta nhất định phải rõ biết, phải thường xuyên ghi nhớ trong lòng.
Khi gặp tai nạn, tai nạn của mỗi cá nhân là bệnh khổ, lúc có bệnh không cầu khỏi bệnh. Vậy cầu điều gì? Cầu được vãng sinh. Đem tâm chân thật mà cầu, Phật liền có sự cảm ứng chân thật. Quý vị xem trong quá khứ, vào triều Tống có pháp sư Oánh Kha, là một tỳ-kheo phá giới. Ông tin vào lẽ nhân quả báo ứng, xem kinh Nhân quả rồi đối chiếu, so sánh những việc mình làm, ông tin chắc mình nhất định sẽ phải đọa vào địa ngục. Nghĩ đến chuyện phải vào địa ngục thì ông vô cùng sợ hãi, cho nên có vị đồng tu liền dạy ông niệm Phật cầu vãng sinh. Ông thực sự nỗ lực niệm Phật. Ông đóng cửa phòng, chuyên tâm niệm Phật trong ba ngày ba đêm không hề ngủ nghỉ, cho đến kiệt sức tàn hơi thì đức Phật A-di-đà hiện đến. Ngài nói, tuổi thọ của con hãy còn mười năm nữa, đợi sau mười năm ta sẽ đến tiếp dẫn con. Oánh Kha là người hết sức thông minh, ngay lúc ấy tâm ý sáng suốt nhanh nhạy, lập tức hướng về đức Phật khẩn cầu: “Tuổi thọ mười năm con không cần nữa. Vì sao vậy? Còn sống tiếp mười năm, con không biết được rồi sẽ tạo thêm bao nhiêu là tội nghiệp.”
Ông tự biết mình căn tánh kém cỏi, không chống lại nổi những điều dẫn dụ mê hoặc, ngoại cảnh có bao nhiêu thứ như tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, ăn ngủ... lúc nào cũng dụ dỗ mê hoặc, không biết rồi sẽ tạo ra bao nhiêu tội nghiệp nữa, rất có khả năng do đó sẽ không được vãng sinh. Vì thế, mười năm tuổi thọ ông không cần nữa, hiện tại lập tức muốn theo Phật vãng sinh. Đức Phật A-di-đà đáp ứng thỉnh cầu của ông, nói rằng: “Sau ba ngày nữa ta sẽ đến tiếp dẫn con.” Ba ngày sau quả thật Phật đến tiếp dẫn ông, ông thực sự được vãng sinh. Câu chuyện này được ghi chép trong Vãng sinh truyện, trong Tịnh độ thánh hiền lục, quả nhiên chân thật, không phải giả dối.
Cho nên, chúng ta nếu gặp phải tai nạn, bất kể là những tai nạn tự nhiên hay bản thân gặp lúc đau bệnh khổ sở, phải một lòng cầu sinh Tịnh độ, không mong cầu, không tham luyến thế gian này nữa thì mới được.
Nhưng ở thế gian này còn rất nhiều việc phải làm thì sao? Tự nhiên sẽ có người làm. Chúng ta không làm, tự nhiên sẽ có người khác làm. Không được cho rằng nếu ta không làm sẽ không có ai làm. Không thể như vậy. Còn có chư Phật, Bồ Tát thị hiện, chư Phật, Bồ Tát ra đời. Chúng ta không cần quan tâm đến những việc khác, trước tiên phải được sinh về thế giới Cực Lạc, sinh về thế giới Cực Lạc thành Phật. Sinh về thế giới Cực Lạc rồi làm gì? Là sinh về để thành Phật, tự mình đã thực sự thành Phật rồi thì quay mũi thuyền từ về lại Ta-bà, hỗ trợ giúp đỡ những chúng sinh khổ nạn trong thế gian này, thật tốt biết bao! Như vậy mới là thực sự có thể vãng sinh.
Chúng ta lại phải nói đến việc nhìn thấu suốt và buông bỏ hết. Nhìn thấu và buông bỏ là những điều Đại sư Chương Gia đã dạy tôi. Nhìn thấu suốt, hiểu rõ được chân tướng sự thật, trong kinh gọi là “thật tướng của các pháp”. Các pháp là chỉ hết thảy muôn pháp. Hết thảy muôn pháp trong cả vũ trụ này, [nhìn thấu suốt] chân tướng của hết thảy muôn pháp.
Hết thảy pháp đó từ đâu mà đến? Một số tôn giáo cho rằng thần tạo ra, thượng đế tạo ra, rằng vũ trụ này do thượng đế tạo ra, hết thảy muôn vật cũng do thượng đế tạo ra. Phật pháp không nói như vậy. Vậy Phật pháp nói các pháp từ đâu đến? Là từ tâm niệm của quý vị mà sinh ra. “Hết thảy các pháp từ tâm tưởng sinh.” Đó là lời Phật thuyết. Trong giáo pháp Đại thừa thường nói: “Hình sắc từ tâm sinh.” Hình sắc ở đây chỉ cho hết thảy các hiện tượng vật chất, chỉ chung hết thảy hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm, các pháp. [Trong năm uẩn,] dùng sắc để biểu trưng cho hết thảy các hiện tượng vật chất, còn thụ, tưởng, hành, thức là các hiện tượng tâm lý. Thêm một phần nữa là các hiện tượng tự nhiên. Ba hiện tượng [vật chất, tâm lý và tự nhiên] này là bí ẩn sâu xa của vũ trụ. Những nghiên cứu mọi mặt của các khoa học gia trong hơn bốn trăm năm qua là ba điều bí mật này, là bí mật của vũ trụ.
Hiện nay, khoảng hơn hai mươi năm gần đây nhất, các nhà Lượng tử lực học khám phá ra được những bí mật trong hiện tượng vật chất, thật rất khó đạt được. Các khoa học gia cho chúng ta biết hiện tượng vật chất là gì? Thân thể này của chúng ta là hiện tượng vật chất, căn nhà ta đang ở là hiện tượng vật chất, quả địa cầu này là hiện tượng vật chất. Những hiện tượng vật chất này từ đâu đến? Là từ những ý niệm của chúng ta biến hóa mà ra, là những sản phẩm phụ trong hiện tượng được sinh ra từ các bước sóng tần suất cao, chúng không phải thật. Về căn bản chúng không hề tồn tại.
Trong mỗi một ý niệm đều có một hiện tượng vật chất, hiện tượng vật chất đó là một vũ trụ hoàn chỉnh. Giống như khi chúng ta xem phim ảnh, một sát-na trước không có gì cả, sát-na tiếp theo liền xuất hiện hình ảnh. Giống hệt như một cuốn phim, hiện tượng vật chất là như vậy. Tần suất của nó nhanh đến mức nào? Tôi xin đưa ra một ví dụ. Điện ảnh trong quá khứ, nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ, khi còn nhỏ chúng ta đi xem phim ở các rạp chiếu phim, loại phim ảnh thời ấy là phim hoạt hình. Mỗi giây có bao nhiêu hình chiếu? Là hai mươi bốn hình chiếu liên tục. Mỗi giây có hai mươi bốn hình, chúng ta xem phim ảnh như thế thì bị lừa cả, vì thấy giống hệt như chuyển động thật. Hiện nay chúng ta nói đến truyền hình. Truyền hình so với điện ảnh ngày xưa tiến bộ hơn nhiều. Truyền hình trước đây là truyền hình đen trắng, đại khái vào khoảng 60 năm trước đây, lúc đó chưa có truyền hình màu, chỉ có truyền hình đen trắng, mỗi giây trình chiếu năm mươi hình ảnh. Cho nên, so với điện ảnh cũ thì có vẻ thật hơn.
Truyền hình màu hiện nay thì mỗi giây trình chiếu một trăm hình ảnh. Nói cách khác, thời gian tồn tại của mỗi một hình ảnh là một phần trăm giây. Một phần trăm giây thì chúng ta không nắm bắt được. Chúng ta nhìn thấy, trong mắt ta cảm nhận được, ý thức được, những hình ảnh đó hệt như là một hình ảnh chuyển động liên tục. Quý vị xem trong một giây có một trăm hình ảnh được dồn chứa, không phải một hình. Một hình chúng ta không nhìn thấy được, tốc độ hiển thị nhanh quá, chúng ta không nhìn thấy được. Một hình ảnh thì chỉ một loáng qua đã thành quá khứ, không cách gì nhìn thấy được. Cảm giác kéo dài tối đa của chúng ta là ánh sáng, một tia chớp sáng, không biết được gì trong đó. Chúng ta dùng điều này để làm ví dụ. Đức Phật dạy chúng ta, trong hoàn cảnh hiện thực quanh ta, hoàn cảnh đời sống của ta, mỗi giây có bao nhiêu hình ảnh? So với điện đã là nhanh, nhưng còn nhanh hơn nhiều. Chúng ta không cách gì tưởng tượng nổi. Mỗi giây có 2.240 triệu. Đơn vị ở đây là triệu, có 2.240 triệu hình ảnh trong một giây. Đó là gì vậy? Đó là tướng thật của các pháp.
Cho nên, kinh Kim Cang dạy rằng: “Hết thảy các pháp không thật có, rốt cùng là không, không thể nắm bắt.” Câu này hết sức quan trọng thiết yếu, chúng ta phải thường xuyên ghi nhớ trong tâm. Nhìn thấy các hiện tượng vật chất, vừa khởi tâm động niệm liền ngay lập tức nghĩ rằng: “Hết thảy các pháp không thật có, rốt cùng là không, không thể nắm bắt.” Như vậy thì những bám chấp phân biệt của quý vị đối với hết thảy các pháp đều sẽ ngay lập tức nguội lạnh, quý vị sẽ buông xả hết được. Vì thế, do đâu có thể buông xả được? Là do nhìn thấu suốt, biết được đó là giả tướng.
Phần cuối kinh Kim Cang có một bài kệ rất hay: “Nhất thiết hữu vi pháp” (Hết thảy các pháp hữu vi), hữu vi là có sinh có diệt, toàn bộ các hiện tượng trong vũ trụ đều là có sinh có diệt. Có sinh có diệt gọi là pháp hữu vi. Hết thảy các pháp hữu vi như thế đều: “Như mộng ảo bào ảnh, như lộ diệc như điển. Ưng tác như thị quán.” (Như mộng ảo, bọt nước, như sương, như điện chớp. Nên quán sát như vậy.)
Những điều này đều là dạy chúng ta nhận thức chân tướng [của thực tại]. Thân xác thịt này của chúng ta, cái nhục thể vật chất này, phải biết được hiện tượng hiển hiện này do đâu hình thành? Chính là do 2.240 triệu hiện tượng xung động trong một giây của quý vị sản sinh ra. Phật dạy chúng ta như vậy. Chân tướng này ai có thể thấy được? Các khoa học gia ngày nay đã thấy được. Trong kinh Phật không nói đến các khoa học gia, trong kinh Phật nói là người có công phu định lực có thể thấy được.
Cần phải có công phu định lực như thế nào? Phải là Bồ Tát từ địa vị thứ tám [trong Thập địa] trở lên. Bồ Tát Bát địa có công phu định lực đủ sâu [để thấy được]. Kinh Hoa Nghiêm nói về các địa vị của Bồ Tát, từng bậc từng bậc lên cao, có 52 địa vị. Trong năm địa vị cao nhất bao gồm: Bát địa, Cửu địa, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác thì Bát địa là thấp nhất. Bồ Tát ở năm địa vị này đều có thể thấy được [chân tướng thực tại], không cần dùng đến khí cụ. Các vị tự có khả năng nhìn thấy. Các khoa học gia nhìn thấy được, đó là dùng máy móc, khí cụ để thấy, dùng kính phóng đại để thấy. Họ không tự có khả năng. Người tu tập định lực đạt đến năm địa vị trên thì được thần thông tự tại, các vị tự có khả năng.
Cho nên, chúng ta sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, vẫn là phàm phu sinh về đó, chẳng phải thánh nhân, nhưng lại có được những thuận lợi lớn nhất, đó là nhờ có bốn mươi tám đại nguyện của đức Phật A-di-đà gia trì chúng ta. Quý vị nói xem, sinh về thế giới Cực Lạc là người như thế nào? Quý vị đã thuộc lòng bốn mươi tám nguyện thì phải biết rõ, tuyệt vời biết bao! Thân thể không còn là nhục thân, không phải thân hình thành từ máu thịt, mà là thân kim cương không hư hoại. Tuổi thọ là vô lượng, đích thực là vô lượng, không phải giả. Về tướng hảo, không phải là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Đó là đức Thế Tôn năm xưa tùy thuận người Ấn Độ vào thời điểm đó mà giảng nói như vậy. Mô tả thực sự thì chúng ta phải xem trong Quán Kinh.
Quý vị xem trong Quán Kinh, đức Phật dạy ta quán báo thân của đức Phật A-di-đà, thân Phật có tám muôn bốn ngàn tướng, mỗi một tướng ấy đều có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp, mỗi một vẻ đẹp ấy đều phóng chiếu tám muôn bốn ngàn đạo hào quang, trong mỗi đạo hào quang ấy đều thấy được toàn bộ vũ trụ có chư Phật, Bồ Tát khắp nơi đang giảng kinh thuyết pháp hóa độ chúng sinh. Những tướng hảo như thế, chúng ta không cách gì tưởng tượng ra được. Cho nên, chúng ta sinh về thế giới Cực Lạc rồi thì hết sức kinh ngạc, mọi thứ hầu như đều ngoài sức tưởng tượng, bản thân được tướng hảo quang minh hầu như bình đẳng với đức Phật A-di-đà. Điều này chúng ta nhất định phải rõ biết.
Vì thế, nếu quý vị thực sự tụng niệm thông suốt bốn mươi tám nguyện, tụng niệm thông suốt kinh Vô Lượng Thọ, tôi cho rằng mỗi ngày tụng niệm mười lượt không khó. Tụng niệm như vậy qua một năm, cứ mỗi ngày mười lượt, trọn một năm là hơn ba ngàn lượt. Người xưa nói: “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến.” (Đọc sách qua ngàn lượt, ý nghĩa tự thấy được.) Vì sao vậy? Vì quý vị đạt được sự định tâm. Tâm thanh tịnh hiện tiền, đó là công phu. Dùng tâm thanh tịnh mà niệm Phật thì vãng sinh được phẩm vị cao. Đó là điều có thể mang theo được, cần phải nỗ lực làm. Những thứ trong thế gian này như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, lợi dưỡng đều không mang theo được. Không mang theo được tức là giả, chúng ta phải xem nhẹ hết thảy, phải buông xả hết, không để trong lòng. Những gì có thể mang theo được, phải thực sự nỗ lực, như vậy mới được.
Sinh về thế giới Cực Lạc rồi thì người người đều có trí tuệ, thần thông, đạo lực không khác với đức Phật A-di-đà. Điều này rất khó được. Chúng ta trong một đời này gặp được nhân duyên thù thắng như thế này, tất cả chúng ta đều có thể làm được. Kinh Vô Lượng Thọ là nói về ai? Chính là nói về bản thân chúng ta. Thế giới Cực Lạc là quê nhà của ta. Đức Phật A-di-đà là thầy của ta. Ngài quan tâm đến chúng ta, dạy dỗ chúng ta, chu toàn đến cả những điều nhỏ nhặt nhất. Cho nên, chúng ta phải buông xả thân xác thịt, vật chất này, buông xả tâm thức đầy vọng niệm này. Tâm vọng niệm là giả. Quý vị xem, ý niệm trước vừa diệt mất thì ý niệm sau liền sinh ra, chúng đều là tướng sinh diệt. Những gì là tướng sinh diệt thì không phải chân thật, đều là giả. Cho nên ý niệm là giả, đừng cho là thật.
Về thân tâm, thế giới, thế giới này chẳng phải gì ngoài các hiện tượng tự nhiên, hiện tượng vật chất, hiện tượng vọng niệm của chúng ta. Đó là chỗ Bồ Tát tu tập bố thí ba-la-mật trong sáu ba-la-mật. Bố thí phải tu [buông xả] như vậy, mục đích của bố thí là dạy chúng ta buông xả. Những thứ giả đều buông xả hết, phải học cách không sinh khởi tham lam, sân hận, si mê. Đó là trì giới. Lão hòa thượng Hải Hiền ngài đã làm được, một đời ngài không bao giờ nóng giận, chưa từng tranh chấp với người khác. Điều này chúng ta xem trong Vĩnh Tư Tập có thể thấy được. Những người thường ở bên Lão hòa thượng đều biết, ngài gặp bất cứ ai cũng tươi cười hoan hỷ, hòa hợp vui vẻ, chúng ta phải học tập theo ngài.
Không khởi tâm tham lam, trong lòng hoan hỷ không khởi tâm tham. Bị bức bách, áp chế không khởi tâm sân hận. Tâm địa trong sạch vắng lặng, ít phiền ít não, mọi thứ đều rõ biết, không mờ mịt mơ hồ, đó là không si mê.
Ngày nay thế giới hỗn loạn đến mức như thế này. Tôi có lần tham gia Hội nghị Hòa bình Liên Hiệp Quốc của Tổ chức UNESCO tại Paris. Vì tôi rất quen thuộc với tổ chức này, đã đến đó rất nhiều lần, quen biết với nhiều người trong đó, nên họ nhờ tôi sắp xếp một buổi tọa đàm. Tham gia tọa đàm là những người nào? Là nhân sĩ của các tôn giáo, có đến mười mấy tôn giáo. Những vị này đều là đại sứ thường trú tại Liên Hiệp Quốc. Hôm đó, trong buổi tọa đàm do tôi sắp xếp, ngồi kế bên tôi là một người của Tòa thánh, cũng là đại sứ thường trú của Vatican tại UNESCO. Chúng tôi mỗi người đều có ý kiến trao đổi trong buổi tọa đàm. Ông [đại sứ này] nói với chúng tôi, thế giới ngày nay hỗn loạn, địa cầu phát sinh nhiều tai biến, chỉ có một nguyên nhân. Nguyên nhân đó là gì? Là do không hiểu biết.
Không hiểu biết, Phật giáo chúng ta gọi là si mê. Quả đúng vậy, là do không hiểu biết mới tạo thành những việc như vậy. Nếu như mọi người đều hiểu biết rõ ràng, ắt sẽ không tạo nghiệp. Ông này nói rất đúng, tôi hết sức khen ngợi ông ấy, quả thật nói rất hay.
Cho nên, mục đích của nền giáo dục Phật giáo là khiến cho những người không hiểu biết trở thành hiểu biết. Giáo dục Phật-đà giúp đỡ hỗ trợ chúng sinh phá trừ si mê, mở ra giác ngộ. Si mê là thiếu hiểu biết. Phá trừ sự thiếu hiểu biết đó, giúp cho mọi người đều giác ngộ, giúp cho mọi người đều nhận thức được chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Sau khi nhận thức được rồi thì khéo léo vận dụng tốt những hình tướng giả hợp để tu tập chân thật, đó là mượn giả tu chân, chúng ta phải làm như vậy.
Hình tướng giả hợp cũng có chỗ dùng được, không thể hủy hoại nó. Chỗ dùng được đó là dùng tướng giả để tu chân thật. Đó cũng là trì giới, là trì giới theo Phật pháp. Không so đo tính toán thị phi nhân ngã, đó là nhẫn nhục.
Về nhẫn nhục, công phu của Hòa thượng Hải Hiền đã đạt được trọn vẹn. Người khác hủy báng ngài, gây tổn hại cho ngài, gây khó khăn cho ngài, làm hại ngài, xưa nay ngài chưa từng nói ra, cũng không nói đến sự oan ức của bản thân mình. Trải qua thời gian lâu ngày chầy tháng, mọi người biết được sự thật, mới thấy rằng lão hòa thượng đối với những người hủy nhục ngài, làm tổn hại cho ngài, gây chướng ngại cho ngài, xưa nay ngài không hề để bụng, đều không bao giờ nhắc đến. Công phu nhẫn nhục đã thành tựu trọn vẹn như thế.
Không xen tạp, không gián đoạn, đó là thực sự tinh tấn. Chúng ta tu học, vào sâu một pháp môn, không được theo hai pháp. Một pháp môn, đó là mỗi ngày đều phải đọc kinh Vô Lượng Thọ, mỗi ngày mười lượt. Tụng kinh mười lượt, lúc mới bắt đầu phải tụng trong khoảng mười mấy giờ. Thời điểm mới bắt đầu, mọi người có thể tụng niệm trong mười giờ [mỗi ngày], không cần tính bao nhiêu lượt, tụng đủ mười giờ thôi. Đại khái lúc ban đầu thì trong mười giờ đó tụng được khoảng sáu, bảy lượt [bản kinh Vô Lượng Thọ]. Tụng niệm thuần thục rồi, qua khoảng nửa năm thì mỗi lượt có thể vào khoảng 50 phút hoặc một giờ. Lại tiếp tục tụng niệm qua một năm thì mỗi lượt có thể vào khoảng 40 phút. Khi ấy nên làm thế nào? Khi ấy nên thực hành tụng niệm mỗi ngày mười giờ, không cần nói là tụng qua mười lượt, chỉ tụng niệm trong mười giờ mỗi ngày. Duy trì cách tụng niệm mỗi ngày mười giờ, hoặc là mười lượt tụng, nguyên tắc này chính mình sẽ tự điều chỉnh [thích hợp].
Vì sao vậy? Vì tu tập định, tu tập Niệm Phật Tam-muội. Tu Niệm Phật Tam-muội có thể giúp quý vị khai ngộ. Như vậy rất tốt, như vậy là tu hành chân chánh, là tận dụng việc đọc kinh. Vì sao vậy? Thực sự làm được rõ ràng, tụng niệm rõ ràng, tụng niệm sáng tỏ, liền có được niềm tin chân thật, có được tâm nguyện chân thật. Nói cách khác, quý vị có thể nắm chắc việc vãng sinh về thế giới Cực Lạc, quý vị đã cầm được trong tay thị thực để sang thế giới Tây phương Cực Lạc, điều này rất trọng yếu.
Tôi tụng kinh rất nhanh, trong nửa giờ có thể tụng xong một lượt [bản kinh Vô Lượng Thọ]. Vậy mỗi ngày tôi tụng bao nhiêu lượt? Tụng trong mười giờ, cả thảy hai mươi lượt. Hồi mới bắt đầu, tôi tụng rất chậm rãi, hai giờ mới tụng xong một lượt kinh. Trong mười giờ tụng khoảng năm, sáu lượt. Có thể thử dùng số lượt tụng kinh, rồi lại dùng thời gian tụng kinh để tính, sau đó tự mình điều chỉnh cho thích hợp.
Mỗi ngày duy trì được mười giờ tụng kinh, quý vị mới có thể đạt được Tam-muội. Nếu không có mười giờ tụng kinh đó, những vọng niệm của quý vị không thể dứt trừ, những ý niệm xen tạp sẽ quấy nhiễu quý vị. Tụng niệm như vậy qua được một năm, vọng tưởng, tạp niệm không còn nữa thì đạt được Niệm Phật Tam-muội. Không những là nắm chắc được việc vãng sinh, mà phẩm vị vãng sinh cũng được nâng cao, cũng được cao hơn nữa, lợi ích công đức là không thể nghĩ bàn.
Buông xả được vọng tưởng, bám chấp, đó là thiền định. Trong thực tế, chúng ta sử dụng việc tụng kinh Vô Lượng Thọ làm một phương pháp để tu thiền định. Trong lúc tụng kinh, chúng ta không thể khởi lên vọng tưởng, vì tâm có vọng tưởng liền tụng đọc sai, nên không có vọng tưởng. Không được suy nghĩ đến ý nghĩa của kinh, chỉ tụng theo kinh văn, bởi vì khi quý vị nghĩ đến ý nghĩa của kinh, đó cũng là khởi sinh vọng tưởng. Chỉ khi nghiên cứu kinh luận mới kết hợp với suy nghĩ, còn khi tụng kinh thì không dùng [suy nghĩ]. Không cần hiểu nghĩa kinh, chỉ cần tụng theo chữ không sai, câu kinh không bỏ sót, như vậy là được, như vậy là tốt. Cứ tụng qua từng lượt từng lượt, mỗi ngày tụng mười lượt, không có người nào là không vãng sinh. Điều này rất quan trọng thiết yếu.
Đại sư Ấn Quang dạy chúng ta cứ một đường tụng niệm, so ra cũng giống như Lão hòa thượng Truyền Giới (sư phụ của Hòa thượng Hải Hiền). Hòa thượng Hải Hiền hai mươi tuổi xuất gia, Hòa thượng Truyền Giới vì ngài làm lễ xuống tóc. Sau khi xuống tóc rồi, dạy ngài một câu “Nam-mô A-di-đà Phật”, bảo cứ thẳng một đường tụng niệm như vậy. Ngài chơn chất thật thà, nghe lời dạy, nỗ lực làm theo. Điều này chúng ta thật không so sánh nổi, chúng ta học theo không kịp.
Cho nên, Ngài Hải Hiền không biết chữ, chưa từng đọc sách, một đời cũng không nghe kinh, không tụng kinh, chỉ một câu Phật hiệu niệm đến cùng, niệm qua chín mươi hai năm. Sư phụ lúc dạy ngài niệm Phật còn nói thêm một câu: “Ngày sau sáng suốt rõ ràng rồi không được nói lung tung, không được nói!” Câu này ý nghĩa thế nào ngài cũng không biết, chỉ ghi nhớ trong lòng.
Một câu Phật hiệu của ngài, theo tôi suy đoán thì hai mươi tuổi bắt đầu niệm, là người chơn chất, trong lòng không có tạp niệm, không có vọng tưởng, như vậy là rất thuận lợi, sau ba năm ngài hẳn phải nắm chắc được công phu thành khối. Khẳng định là vào trước năm hai mươi lăm tuổi, không thể sau đó, ngài phải đạt công phu thành khối, nắm chắc được tư cách vãng sinh thế giới Cực Lạc. Tiếp tục trải qua năm năm, sáu năm, ngài lại tăng tiến cao hơn nữa, cho đến khi đạt được sự nhất tâm bất loạn. Từ sự nhất tâm bất loạn lại tiếp tục tăng tiến đến lý nhất tâm bất loạn. Lý nhất tâm bất loạn chính là đại triệt đại ngộ, nên biết được rằng vào lúc đó ngài đã hiểu biết, đã sáng suốt rõ ràng.
Mọi thứ đều rõ biết rồi, nhưng sư phụ ngày trước dặn ngài không được nói ra, không thể nói ra lung tung. Cho nên, đôi khi ngài cũng ngẫu nhiên nói ra với người khác rằng việc gì ngài cũng rõ biết, nhưng người khác hỏi lại thì ngài không nói. Việc gì cũng rõ biết, đó là đại triệt đại ngộ, tâm ý sáng rõ, thấy được bản tánh. Đó là cảnh giới nào? Là cảnh giới bình đẳng so với cảnh giới của Thiền tông Đại sư Lục tổ Huệ Năng, bình đẳng so với cảnh giới của đức Phật Thích-ca Mâu-ni trong đêm thành đạo dưới cội Bồ-đề. Đại triệt đại ngộ là bình đẳng đạt đến cảnh giới như thế.
Đường triều có một vị Tổ sư Thiền tông không biết chữ, là Đại sư Lục tổ Huệ Năng. Chúng ta ngày nay là Hòa thượng Hải Hiền, vãng sinh năm 2013. Tịnh độ tông hiện đại có một bậc Tổ sư không biết chữ, suy tôn ngài làm Tổ sư Tịnh độ tông đời thứ 14 là lẽ đương nhiên.
Ngài vì sao không thể nói ra, không từng nói ra? Vì sư phụ dạy ngài như vậy, do hoàn cảnh không cho phép. Nếu ngài giảng kinh thuyết pháp rất hay, cũng không có ai theo học. Không có thầy mà tự thông hiểu, mọi người sẽ cho đó là tà thuyết, tà giáo, không thừa nhận ngài, như vậy thì phiền toái biết bao. Cho nên ngài chỉ làm một người chơn chất thật thà, suốt đời không nói ra. Ngài thực sự có thần thông, thật sự có trí tuệ, ngài thực sự là việc gì cũng rõ biết. Thế nhưng hoàn cảnh không giống nhau. Nếu ngài sinh vào thời đại với đức Phật Thích-ca Mâu-ni, ngài sẽ là một vị Phật. Nếu ngài xuất hiện vào đời Đường, ngài sẽ là một vị Tổ sư. Ngài xuất sinh trong thời hiện đại này nên ngài chỉ là một người xuất gia bình thường. Thật không dễ dàng, rất khó hiểu được. Cho nên chúng ta cần phải nhận hiểu rõ ràng.
Có người hỏi tôi, Hòa thượng Hải Hiền có thể đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh vào thời điểm nào? Đại sư Huệ Năng là đốn ngộ, Hòa thượng Hải Hiền là tiệm ngộ, từng bậc từng bậc tăng tiến lên cao, tôi tin rằng ngài vào khoảng năm 40 tuổi thì đại triệt đại ngộ. Nói cách khác, ngài niệm Phật qua hai mươi năm thì đại triệt đại ngộ, nêu một tấm gương cho chúng ta noi theo.
Ngài cũng vì chúng ta làm một sự chứng minh. Ngài không học nơi thầy mà tự thông hiểu, không cần người dạy bảo, chứng minh điều các bậc thánh hiền xưa dạy rằng: “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến.” (Đọc sách qua ngàn lượt, ý nghĩa tự thấy được.) Tự thấy được nghĩa là thông suốt, tự mình thông suốt, không cần có thầy dạy bảo, tự mình thông hiểu. Cho nên chúng ta hiểu rõ được, các bậc hiền thánh xưa, chúng ta từ nơi trường hợp điển hình của ngài Hải Hiền mà suy ngẫm không thể sai được. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là không thầy mà tự thông hiểu. Những kinh điển giáo pháp ngài thuyết giảng suốt một đời là ai dạy cho ngài? Không có thầy nào dạy cả. Hết thảy đều là từ trong tâm tánh của ngài tự nhiên lưu xuất hiển lộ. Kinh điển Đại thừa như các bộ kinh lớn Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, kinh điển Hiển giáo, Mật giáo, hết thảy đều do chính đức Phật Thích-ca Mâu-ni truyền dạy, hết thảy đều là từ nơi tự tánh lưu xuất hiển lộ, không có ai dạy cho ngài, chứng minh rõ ràng là thật có trường hợp không thầy mà tự thông hiểu.
Tại Trung quốc, các vị Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn vương, Vũ vương, Chu công, Khổng tử, Mạnh tử, các bậc thánh nhân như vậy đều là không thầy mà tự thông hiểu. Làm sao thông hiểu? Vì các vị đạt được định, tâm các vị thanh tịnh, không có ham muốn, dục vọng, không khác gì các vị Bồ Tát Đại thừa. Các ngài có sự tu tập, cho dù Phật giáo chưa truyền đến Trung quốc, nhưng các ngài đích thực là có buông xả, các ngài tu bố thí, các ngài tu nhẫn nhục, các ngài tu thiền định, giới luật tinh nghiêm, không có thầy dạy, đều tự thông hiểu. Các ngài đều là thánh hiền tái sinh, Hòa thượng Hải Hiền cũng không ngoại lệ. Một câu Phật hiệu thẳng đường trì niệm, suốt một đời không hề thay đổi, quyết định được vãng sinh, vĩnh viễn không còn thối chuyển. Hết thảy các pháp môn đều có thể hiển lộ hiện tiền, đó là không thầy mà tự thông hiểu, không một pháp môn nào không rõ biết, hoàn toàn thông đạt.
Nếu theo Phật pháp mà nói thì Tam tạng, Mười hai phần giáo của Đại thừa, hiện nay gọi là Đại Tạng Kinh, một ngàn bảy trăm công án của Thiền tông trong sách Ngũ Đăng Hội Nguyên, ba ngàn oai nghi của vị A-la-hán, tám muôn tế hạnh của Bồ Tát, Tam tụ tịnh giới, hết thảy đều có đủ trong một câu Phật hiệu. Đây là Lão hòa thượng Hải Hiền vì chúng ta chứng minh.
Chúng ta xem tư liệu biết được rằng, mẫu thân của Hòa thượng Hải Hiền từ nhỏ đã ăn chay, niệm Phật, 86 tuổi tự tại vãng sinh, không có bệnh khổ, nói đi là ra đi, cho chúng ta [một tấm gương để] nhìn vào. Khi ấy tại đó có mặt con gái, cháu gái của bà. Người con gái thấy mẹ mình tự tại nói đi là đi thì rất cảm động, liền dắt theo cả đứa con trai cùng đi xuất gia. Lại còn có người sự đệ của Hòa thượng là Pháp sư Hải Khánh, ngoài ra cũng đồng thời với ngài có Hòa thượng Lão Đức, đều là những trường hợp không thể nghĩ bàn. Sau khi Hòa thượng Lão Đức vãng sinh được hai năm, có người tại Vũ Xương nhìn thấy ngài nơi ngã tư đường mang một cái túi vải đứng hóa duyên. Người ấy quay về nói với mọi người rằng, “tôi vừa nhìn thấy Hòa thượng Lão Đức”. “Hòa thượng Lão Đức qua đời đã hai năm rồi!” Điều này thật không thể nghĩ bàn.
Những vị nói trên đều không hề đọc sách, đều không biết chữ, đều chỉ dùng một câu Phật hiệu trì niệm đến cùng. Cho nên, hôm nay chúng ta nhắc chuyện này, khuyến khích quý đồng học, chúng ta phải có lòng tin chân thật, phải có tâm nguyện chân thật. Chúng ta không sợ bệnh khổ, ta không sợ tai nạn. Chúng ta gặp tai nạn thì niệm Phật cầu vãng sinh. Chúng ta tin chắc, ta khởi tâm động niệm thì đức Phật A-di-đà đều rõ biết. Vì sao ngài không có phản ứng gì? Vì tâm chúng ta không chân thành. Trong niềm tin của chúng ta vẫn còn sự hoài nghi. Nếu như quả thật hoàn toàn tin tưởng chân thành, không một chút hoài nghi, đức Phật A-di-đà sẽ có tin tức cho ta biết, giúp chúng ta yên tâm. Điều đó là chân thật, không phải giả.
Chúng ta cần phải có đủ ba môn học Giới, Định và Tuệ, phải có đủ sáu ba-la-mật, muôn công hạnh của hàng Bồ Tát.
Tốt rồi, hôm nay chúng ta giảng đến đây thôi. Hy vọng quý vị đồng học, hôm nay cùng tụ hội tại đây, tương lai sẽ cùng tụ hội trong đại giảng đường của đức Phật A-di-đà nơi thế giới Tây phương Cực Lạc. Chúng ta cùng nghe đức Phật A-di-đà giảng kinh. Tốt lắm, xin cảm ơn mọi người.