Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó.
Kinh Pháp cú
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm 50: NHÂN DUYÊN NĂM TRĂM TỲ-KHEO
Bấy giờ các Tỳ-kheo bạch Phật:
-Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, tại sao Xá-lợi-phất có được năm trăm đệ tử của ngoại đạo San-xà-da Ba-ly-bà-xà-ca. Họ đã rơi vào con đường tà kiến đầy nguy hiểm, tu hành điên đảo mà Xá-lợi-phất lại có thể giáo hóa, đem họ quy y Phật, lại được Đức Phật dạy bảo bỏ con đường tà kiến đầy nguy hiểm, đang ở trong các khổ mà được giải thoát?
Nghe các Tỳ-kheo thưa như vậy, Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
-Này các thầy, Xá-lợi-phất chẳng những chỉ ngày nay giáo hóa, đem năm trăm ngoại đạo San-xà-da Ba-ly-bà-xà-ca đã rơi vào con đường tà kiến nguy hiểm, tu hành hư vọng, trở về nương tựa Phật và được thoát khỏi tà kiến hư vọng điên đảo, ở trong khổ não mà được giải thoát. Thuở xưa năm trăm người này đang bị rơi trong ách nạn, khi đó Xá-lợi-phất cũng hướng dẫn đến với Ta, lúc đó Ta cũng cứu họ khỏi các khổ não.
Các Tỳ-kheo thưa:
-Cúi xin Thế Tôn vì chúng con nói rõ việc này.
Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Ta nhớ đời quá khứ có một Mã vương tên là Kê-thi, hình dạng uy phong, thân thể trắng sạch như ngọc kha tuyết hay như bạch ngân, như trăng rằm hay hoa quân trà, lông đầu xanh biếc, phi nhanh như gió, hí như tiếng trông rền. Thuở ấy, tại cõi Diêm-phù-đề có năm trăm thương nhân sắp vào biển cả, nên sắm đủ lương thực, hành trang, mang theo đến ba ngàn vạn thứ hàng hóa và mười vạn lương thực, dự định trên đường đi đổi lấy lãi. Lại có tiền riêng, thuê người lái thuyền.
Sau khi sắm sửa đầy đủ, đi đến bờ đại dương, họ thiết lễ tế Thần biển. Ngoài thuyền bè và mọi dụng cụ đã được đầy đủ, lại phải thuê năm người: người thứ nhất lái thuyền, người thứ hai chèo, người thứ ba vá thuyền, người thứ tư giỏi nghề lặn, người thứ năm là thuyền trưởng. Các người này lại nói với nhau: “Ai có tội lỗi cần phải sám hối cho được thanh tịnh.”
Họ lại dạy nguyên tắc đi biển, rồi sau đó mới nhổ neo đi vào biển tìm châu báu. Bấy giờ đoàn thương nhân đang ở giữa biển, bỗng nhiên có trận gió dữ dội thổi thuyền bè trôi vào nước La-sát. Nước này có nhiều nữ La-sát. Khi sắp đến bờ có trận cuồng phong làm tàu bè hư nát. Lúc ấy các thương nhân dùng tay chân bơi vào bờ.
Nói về các quỷ nữ La-sát, trước đây nghe trong biển có tàu vỡ chìm, họ liền đến tiếp cứu, vớt được thương chủ và năm trăm thương nhân, vui mừng khôn xiết, đem về cùng nhau vui thú ngũ dục, sinh ra con trai, con gái. Đến khi các nữ La-sát nghe tin có tàu chìm trong biển thì họ đem đoàn thương nhân trước nhốt vào trong thành sắt.
Sau khi nhốt họ xong, chúng giấu hình dạng thật, hiện thành những đồng nữ, hoặc hiện những nàng dâu mới về nhà chồng, hình dung đẹp đẽ, dễ thương hơn loài người, nào khác chư Thiên. Hóa thân như vậy rồi, chúng dùng nước thơm tắm gội, dùng hương thơm thoa vào người, mặc đủ thứ y phục, thân trang sức bằng những chuỗi anh lạc, đầu đội mũ kết bằng hoa tuyệt đẹp, khắp thân đeo những tua anh lạc, lại dùng các hoa đẹp trang điểm trên thân với những chuỗi hoa, nơi các tràng hoa có gắn linh quý. Chúng vội vã đi đến chỗ tàu chìm. Đến nơi nói với các thương nhân: “Này các Thánh tử, chớ nên sợ hãi! Các Thánh tử chớ nên ưu sầu! Các Thánh tử đưa bàn tay, khuỷu tay hay cánh tay, chúng tôi sẽ nắm lấy vớt ra khỏi nước.”
Bấy giờ các thương nhân chỉ còn bảo vệ mạng sông, lo sợ bị chết, tưởng các nữ La-sát là người thật nên đưa cánh tay cho họ. Các nữ La-sát dìu các thương nhân ra khỏi biển cả. Sau khi ra khỏi biển, các nữ La-sát dùng lời ngọt ngào tình cảm nói với các thương nhân: “Lành thay! Này các Thánh tử, hãy đến đây! Quý vị từ phương xa nào đến? Các Thánh tử có thể cùng chúng em kết nghĩa trăm năm?
Xin thương xót làm chồng, làm chủ chúng em. Ngày nay chúng em không người yêu thương, để chúng em khỏi khổ não ưu sầu, vì chúng em làm người gia trưởng, chúng em sẽ đúng phép hầu hạ, không để thiếu sót. Mời các Thánh tử về nhà chúng em, hoan hỷ thọ hưỏng thú vui ngũ dục. Các Thánh tử chớ lo sợ, tất cả việc nhà chúng em sẽ đảm đang hoàn bị, bao nhiêu nhu cầu chúng em đều có. Vị thần lớn trong biển cả vì rất thương mến chúng em nên đã đưa các Thánh tử đến đây.”
Bấy giờ tất cả thương nhân đồng nói với nữ La-sát: “Lành thay! Này các chị em, các chị em nên yến tâm, có thể đợi chúng tôi trong thời gian ngắn, đến chừng nào hết ưu sầu.” Rồi sau đó, họ sống chung một căn phòng, buồn bã cất tiếng kêu khóc. Hoặc có người kêu lên: “Ôi thôi cha mẹ ơi!” Hoặc có người kêu lên: “Ôi thôi anh em ơi!” Hoặc có người than: “Ôi thôi chị em ơi!” Hoặc lại than: “Ôi thôi dòng họ quyến thuộc ơi!” Hoặc lại than: “Ôi thôi tôn tộc ơi! Chúng tôi ngày nay đã xa lìa thân thích!” Hoặc lại than: “Nay chúng tôi đã xa lìa kẻ thân yêu!” Hoặc lại than: “Ôi thôi cảnh giới Diêm-phù, mánh đất tuyệt đẹp!”
Họ buồn rầu cất tiếng khóc than như vậy, rồi lại cùng nhau nói: “Ôi thôi chúng ta phải chịu đựng!” Nói lời này xong, họ đều thở ra hơi nóng và cùng nhau an ủi, dần dần được an tâm. Sau đó họ hướng lần về thành La-sát. Trên đường đi chưa đến thành, thấy một vùng đất bằng phẳng rộng rãi, không có gai góc, sỏi đá, bụi bặm, chỉ thấy những đồng cỏ xanh rợp mênh mông, bát ngát trông thật hữu tình.
Lại có những rừng cây xinh xắn, cành lá hoa quả sum suê, giống như đám mây xanh là là trên mặt đất. Khu rừng rộng rãi vô biên, đủ các loại cây như cây Na-ca-đa-ma-la, cây Ca-ni-ca-la, cây A-thấp-ba-tha, cây Ni-câu-đà, cây Ô-đồ-bà-la, cây Ba-la-xoa, cây A- xà-ra, cây Ca-ly-ra...
Lại có những loài hoa thơm mọc khắp cả rừng, những loài hoa đó là hoa A-đề-mục-đa-la, hoa Chiêm-ba-ca, hoa A-du-ca, hoa Ba-đa-la, hoa Ba-lợi-sư-ca, hoa Câu-lan-trà, hoa Câu-tỳ-đà-la, hoa Đàn-nô-sa-ca-lê-ca, hoa Mục-chân-lân-đa, hoa Tô-ba-na... Những loài hoa này có thứ mới tượng búp, hoặc có thứ đã thành búp hoa, hoặc có thứ hé nở, hoặc có thứ nở tròn đầy, hoặc có thứ sắp héo rụng...
Lại có những loại trái cây như quả Am-ba-la, hoặc quả Diêm-phù, hoặc quả Câu-xà, hoặc quả Phá-na-ba, hoặc quả Chân-đầu-ca, hoặc quả Ha-lê-lặc, hoặc quả Am-bà-lặc... Những loại trái cây này, hoặc có thứ còn xanh, hoặc có thứ đã chín, hoặc có thứ vừa chín có thể ăn được, hoặc có thứ chín mùi rụng xuống đất. Hoặc có những loại cây ăn trái vừa ra hoa...
Lại có vô sô những loài chim bay đậu trên các cây như là chim Anh võ, chim Cù dục, chim Câu-si-la, chim Khổng tước cồ, chim Ca-lăng-tần-già, chim Mạng mạng...
Trong hồ tràn ngập các loài hoa như là hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen vàng, hoa sen trắng...
Trong ao lại có các loài chim như Hồng hộc, Phù, Nhạn, Côn lôn, Oan ương...dạo chơi trong đó, làm tăng vẻ đẹp hồ ao, làm cho du khách thích thú, tiêu tan nỗi ưu phiền.
Bốn bức tường thành La-sát trắng sạch như ngọc kha tuyết hay như núi băng. Thành này nằm trên mặt đất, từ xa trông thấy giống như dải mây trắng từ dưới đất nổi lên. Lại trên các tường thành có các lầu gác để đẩy lui quân địch. Lầu gác này bao quanh như tường. Chung quanh bốn mặt thành có các hào lũy, trên mỗi hào lũy lại có các lan can bao quanh, hoặc có các lầu gác, trong mỗi lầu gác lại có những cửa sổ chắn song. Lại có các cung điện như chư Thiên được hành lang bao bọc tề chỉnh. Các lối đi ngay thẳng đẹp đẽ, có bảo trướng giăng che ở trên. Chung quanh thành có dựng các cờ lọng và trưng bày các bảo án với những chiếc lư xông đủ thứ những hương thơm tuyệt hảo.
Bấy giờ các nữ La-sát đưa các thương nhân đến thành này rồi, bảo thay y phục cũ, dùng nước nóng thơm tắm gội thân thể và mời ngồi trên các tòa hết sức sang trọng, rồi bày đủ trò ngũ dục mà vui chơi. Ở trước mặt trổi lên những tiếng nhạc ngũ âm. Sống với những hình thức như vậy trải qua một thời gian khá lâu, sảng khoái thích thú, cùng nhau khoái lạc vô cùng.
Sau đó các nữ La-sát nói với các thương nhân: “Lành thay! Thưa các Thánh tử, phía Nam thành này có một chỗ mà các Thánh tử không được đến.’
Khi ấy trong số thương nhân có thương chủ là người thông minh lanh lợi, sâu xa vi tế, liền nghi nên suy nghĩ: “Vì những lý do gì các nàng này cấm đoán bọn chúng ta không được phép đi đến địa điểm phía Nam thành? Ta đợi các nàng này ngủ say, lúc ấy ta tìm đường đi đến chỗ cấm. Đến nơi ta sẽ quán sát xem thử việc lành hay dữ. Nếu biết được rồi, tùy theo sự việc, ta sẽ dùng phương tiện đốì phó.”
Suy nghĩ như vậy rồi, thương chủ theo dõi khi thấy các nữ La-sát nằm ngủ say, liền lén rời khỏi giường không gây một tiếng động, rồi cầm lấy con dao bén đi ra khỏi nhà, chăm chú tìm đường tiến tới, lần hồi đã đến một khu đất nhỏ, thây một vùng kín đáo rợn người, vì nơi đây không có thảo mộc, thật đáng sợ hãi. Lại vọng nghe có tiếng người kêu la lớn tiếng, giông như tiếng kêu rên trong đại địa ngục. Nghe vậy, anh ta rất hoảng sợ, toàn thân lông dựng ngược, nên đứng yên giây lâu, lấy lại hơi thở, lần lần thân tâm bình tĩnh, ý chí phục hồi, rồi tiếp tục tiến lần trên con đường nọ.
Đi chưa được bao xa, anh ta thấy một tòa thành bằng sắt. Thành này cao ngất, chính là chỗ phát ra tiếng rên la. Thương chủ đến nơi, đi giáp vòng bốn phía thành mà không thấy cửa vào, chỉ có mặt Bắc thành có một cây tên là Hiệp hoan, mọc gần bờ thành, cây này cao lớn vượt lên tường thành. Thương chủ thấy vậy liền leo lên cây để quan sát nội thành, thấy xác chết số trên trăm người, hoặc có người đã bị ăn hết nửa thân, hoặc có người bị cắt phân nửa thân mà chưa chết, hoặc có người ngồi bị đói khát bức xúc, hoặc có người gầy ốm chỉ còn gân với xương, đôi mắt sâu hoắm như hai ngôi sao đặt dưới đáy giếng, hoặc có người mê muội nằm trên đất, đầu tóc bù xù, thân đầy đất bụi, hết sức ốm gầy, cùng nhau cắt thịt mà ăn. Do vì nguyên nhân đó nên họ rên la, giống như tội nhân thọ đại khổ não nơi cảnh giới Diêm-la vương.
Thương chủ thấy cảnh tượng như vậy thật là hãi hùng, toàn thân lông dựng ngược. Thương chủ hồi lâu mới lấy lại bình tĩnh, không còn sợ sệt, khí lực phục hồi, liền dùng tay lay động cành cây Hiệp hoan. Khi một cành lay động thì tất cả cành lá toàn cây phát ra tiếng động. Lúc ấy những người khổ não ngước mặt nhìn lên thành, thấy thương chủ trên cây Hiệp hoan. Thấy rồi, họ buồn rầu kêu hỏi:
-Người là ai? Là chư Thiên hay là Rồng? Là Dạ-xoa hay Càn-thát-bà? Là A-tu-la hay Ca-lâu-la? Là Khẩn-na-la hay Ma-hầu-la- già? Là Đế Thích hay Kiều-thi-ca? Hay là Thiên tôn Đại Phạm vương? Phải chăng thấy chúng tôi đang lâm ách nạn mà đến đây cứu vớt đau khổ?
Khi ấy họ chắp tay cúi đầu từ xa đảnh lễ, buồn khóc lớn tiếng, ngửa mặt thưa:
-Lành thay! Thưa Nhân giả, xin ngài vì thương xót chúng tôi, sinh lòng đại từ bi cứu chúng tôi khỏi tai nạn này. Chúng tôi đều là những người xa cách người thân yêu. Ngày nay xin ngài cứu vớt chúng tôi, dùng mọi phương tiện đưa chủng tôi trở về nơi thân ái.
Khi ấy thương chủ nghe lời van xin cầu cứu của những người này như vậy, thân tâm buồn bã âu sầu, nói:
-Này các người phải biết, ngày nay ta chẳng phải là chư Thiên, cũng không phải Rồng..., chẳng phải Đại Phạm thiên, chỉ là người cõi Diêm-phù, vì kinh doanh sự nghiệp mà vào biển cả tìm tài sản nên mới đến đây. Khi chúng tôi sắp trở lại đất liền, bỗng gặp một cơn gió mạnh làm thuyền bè vỡ nát, gặp các phụ nữ đến cứu vớt. Rồi từ đó đến nay, chúng tôi cùng với các nàng ấy vui chơi, thọ hưởng dục lạcệ.Tôi làm sao cứu được nỗi khổ của các người!
Rồi thương chủ hỏi lại:
-Tại sao các người ở đây chịu khổ như vậy?
Các người bị khổ nạn đáp:
-Lành thay! Thưa Thiện nhân, chúng tôi cũng vậy, từ cõi Diêm- phù-đề kinh doanh buôn bán, do vì ham tài sản nên vào đại dương. Sắp đến bờ, bỗng nhiên bị trận gió ác thổi đến làm tàu bè hư nát. Khi ấy chúng tôi gặp các quỷ nữ La-sát này cứu nạn, rồi họ cùng với chúng tôi vui thú ngũ dục. Nhưng khi chúng nghe tiếng kêu của các vị thì nữ La-sát liền biết trong biển cả có thuyền bị vỡ đắm. Lúc ấy chúng lập tức đem chúng tôi nhốt trong thành sắt này. Chúng tôi cũng có năm trăm bạn đồng hành, từ khi bị nhốt trong thành này đến nay đã bị chúng ăn thịt hết hai trăm năm mươi người, nay chỉ còn hai trăm năm mươi người mà thôi. Chúng tôi trước đó cũng ăn ở với họ, sinh con trai con gái. Nữ La-sát ăn nói tế nhị, dịu dàng ủy mị, nhưng chúng nó ham ăn thịt, nên số nam nữ sinh ra đều bị chúng ăn sạch.
Vậy các người cẩn thận, chớ nên cùng chúng nó thọ hưởng thú vui năm dục. Vì cớ sao? Vì chúng nó không có tình thương. Thật đáng sợ!
Vị thương chủ lại hỏi:
-Đoàn người các anh có cách nào để thoát khỏi nạn La-sát hay không?
Họ liền đáp:
-Có một phương pháp.
Thương chủ lại hỏi:
-Phương pháp đó như thế nào? Hay thay! Xin nói giùm cho.
Họ liền trình bày:
-Vào đêm mười lăm tháng tư là ngày hội Đại hỷ lạc. Khi mặt trời, mặt trăng cùng sao Mão hợp lại, lúc ấy có một Mã vương tên là Kê-thi (nhà Tùy dịch là Đa Phát), hình dáng uy phong, ai cũng thích nhìn ngắm, bộ lông trắng sáng như ngọc kha bối, lông đầu xanh đen, phi nhanh như gió, giọng hí như tiếng trống rền vang. Mã vương dừng ở đâu thì tự nhiên có cháo gạo không lộn thóc, hết sức trắng tươi, đủ hương vị thơm ngon làm thức ăn cho Mã vương. Khi ăn xong, Mã vương đi đến mé biển, để lộ bán thân, nói bằng tiếng người ba lần: “Ai muốn qua khỏi biển rất mặn, ta nay sẽ chở các người vượt qua biển, đến bờ bên kia một cách an ổn.” Nếu các anh gặp được Mã vương này, liền được thoát nạn. Chỉ một cách này, ngoài ra không còn có phương pháp nào khác. Nếu các anh muốn thoát nạn, nhất định không được tiết lộ điều này.
Vị thương chủ lại hỏi:
-Các anh đã từng gặp Mã vương Kê-thi hay chưa? Nếu các anh đã gặp tại sao các anh không gần gũi? Nếu các anh được gần gũi tại sao Mã vương không đưa các anh qua khỏi biển. Chắc các anh lần đầu tiên nghe việc này do người khác nói lại, như vậy là giả dối không thật.
Những người kia đáp:
-Lành thay! Thưa Nhân giả, tôi nghe tiếng nói từ hư không vọng lại thế này: “Cấc thương nhân trong cõi Diêm-phù-đề ngu si vô trí. Vì sao? Vì ở vào đêm rằm tháng tư, khi sao Mão cùng mặt trăng giao hợp, là tiết hội Đại hoan lạc, họ không đi về con đường phương Bắc. Nếu đi về hướng đó sẽ gặp được Mã vương với hình dang uy phong, người nhìn không chán. Mã vương ăn cháo xong, đi về mé biển, để lộ bán thân, ngay đó xướng lên ba lần thế này: “Ai muốn qua khỏi biển mặn, về lại đất liền, ta có thể đưa họ từ trong biển cả về lại đất liền một cách an ổn.” Những người nghe rồi, nếu ai tin tiếng nói từ hư không, thì đi về hướng Bấc, chỗ của Mã vương. Ai không tin lời nói này, tuy Mã vương có đến đó cũng trở về. Chúng tôi vì yêu mến nữ La-sát, cho nên ngày nay bị tai ách thế này.
Vị thương chủ lại hỏi:
-Các ông có ra đây cùng chúng ta tới chỗ Mã vương hay không?
Họ đáp:
-Chúng tôi muôn trèo lên thành thì thành cứ cao mãi. Chúng tôi muốn đào đất để chui ra thì lỗ đào liền bị đất lấp bít. Chúng tôi ở nơi đây không có thời kỳ ra khỏi, chúng tôi nhất định bị nữ La-sát ăn thịt, làm sao gặp lại thân bằng quyến thuộc. Các anh cẩn thận, chớ nên phóng dật. Chúc anh trở về được như ý, sớm trở lại quê hương đoàn tụ với cha mẹ, thân bằng quyến thuộc. Cúi xin các anh vui lòng giúp tôi một việc. Chúng tôi vốn sinh xứ ấy, thành ấy, ấp ấy. Lành thay! Khi các anh đến quê nhà chúng tôi rồi, thay lời chung tôi vấn an sức khỏe cha mẹ cùng thân bằng quyến thuộc, thiện hữu tri thức và sau đó lại dặn bà con: “Này các thân bằng quyến thuộc, từ nay về sau chẳng nên có ý muốn đi vào biển cả. Vì sao? Vì trong biển cả có nhiều sự khủng bố như sóng to, gió lớn, dòng nước xoáy, dưới đáy biển có nhiều loài giao long, các quỷ nữ La-sát... Trong biển cả có nhiều nạn khủng bố như vậy. Bà con nên ở quê nhà làm các nghiệp thiện tùy nghi sinh sống, dẫu đem sức lực làm thuê cũng còn tồn tại để đoàn tụ cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, khỏi bị phân ly. Bà con nên thường bố thí, tạo nhiều phước nghiệp, giữ gìn trai giới.”
Khi nghe nói như vậy, vị thương chủ hết sức sợ hãi, liền trèo xuống cây Hiệp hoan. Khi vị ấy xuông khỏi cây rồi, ngay lúc đó các người ở trong thành cất tiếng kêu la khóc lóc:
-Ôi thôi quá khổ! Ôi thôi vô cùng đau đớn! Cõi đất Diêm-phù-đề thật là xinh đẹp! Làm sao gặp lại mảnh đất này? Nếu trước kia chúng ta biết tai nạn như thế này, thà ở cõi Diêm-phù-đề đói ăn phân bò để sống, không vì tài sản mà đến xứ này!
Sau khi xuống khỏi cây, vị thương chủ y theo đường cũ trở về chỗ ngủ của mình. Khi ấy thấy tất cả mọi người và các quỷ nữ La-sát vẫn còn ngủ say, thương chủ nằm lại chỗ của mình, ngủ cho đến lúc trời sáng. Thức dậy, vị ấy nghĩ thế này: “Làm cách nào cho đoàn thương nhân biết việc này mà quỷ nữ La-sát không hay. Nếu ta vội nói việc này cho chúng biết, thì liền bị bại lộ. Nếu tiết lộ mà quỷ nữ La-sát hay được, e bị chúng nó đem bọn ta nhốt vào nơi ách nạn. Vậy ta phải giữ kín việc này cho đến tháng tư, vào ngày hội Đại hoan lạc, là ngày Mã vương đến, chừng ây mới tiết lộ cho chúng thương nhân biết. Vì cớ sao? Vì xưa có kệ:
Phàm với điều hiểu biết
Vội thật tâm nói ra
Việc ấy bị tiết lộ
Người nghe truyền cho nhau.
Thế nên bị oán thù
Lại bị nhiều đau khổ
Cho nên kẻ trí tuệ
Không nói lời tiết lộ.
Khi ấy vị thương chủ suy nghĩ như vậy nên giấu kín chuyện này. Đến tháng tư, vào ngày hội Hoan lạc, vị ấy mới nói cho các thương nhân hay:
-Lành thay! Này các thương nhân, lúc này các người cẩn thận, không nên phóng dật, chẳng nên lưu luyến, chẳng nên sinh tâm ái nhiễm, hoặc tham đắm các phụ nữ này, hay tham ăn uống và tài sản. Ta hết sức thương xót các bạn, nên muốn tỏ điều bí mật cùng nhau. Khi các ông thấy quỷ nữ La-sát ngủ say rồi, nên cùng nhau tề tựu tại chỗ ấy.
Đoàn thương nhân nghe vị thương chủ nói như vậy, giống như sư tử ở sơn lâm bỗng nhiên rống tiếng dữ dội, bao nhiêu thú khác ở trong rừng nghe tiếng sư tử rống hết sức sợ hãi. Họ nói với nhau:
-Chúng ta chưa thoát khỏi cảnh đáng ghê sợ nơi đại hải này.
Ngày đã qua, màn đêm buông xuống, đoàn thương nhân thấy tất cả quỷ nữ La-sát nằm ngủ say, liền lén rời khỏi giường, đồng đi đến chỗ đã hẹn. Khi đến nơi, họ đồng thưa thương chủ:
-Lành thay! Thưa thương chủ, những gì thương chủ mắt thấy, xin nói cho chúng tôi biết, hoặc thương chủ nghe lại từ người khác, vì thương xót lợi ích cho chúng tôi, xin nhân giả nói lại cho chúng tôi cùng nghe.
Khi ấy vị thương chủ bảo các thương nhân:
-Các người phải biết, giờ đã đúng lúc, việc bí mật mới được tiết lộ.
Các thựơng nhân nói:
-Chúng tôi nói thật, khi nghe việc này rồi đều giữ bí mật.
Vị thương chủ liền nói những việc mình đã chứng kiến cho các thương nhân nghe. Các thương nhân nghe thương chủ kể lại những việc như vậy, ưu sầu khổ não, hết sức buồn bã, run sợ thưa thương chủ:
-Lành thay! Thưa thương chủ, hiện nay chúng ta cần phải lập tức đi đến chỗ Mã vương, xin ngài đưa chúng ta về quê hương ở cõi Diêm-phù-đề một cách an toàn.
Liền khi ấy thương chủ và thương nhân đồng đi về phương Bắc, tụ họp ở chỗ Mã vương Kê-thi.
Nói về Mã vương ăn cháo gạo không lộn thóc, thanh tịnh, hương thơm tự nhiên, ăn rồi đi đến bờ biển, để lộ bán thân, dùng tiếng người xướng lên ba lần: “Ai muốn vượt khỏi biển, qua đến bờ bên kia, ta sẽ đưa giúp các người đến bờ bên kia một cách an ổn.” Khi ấy đoàn thương nhân nghe Mã vương nói như vậy, vui mừng hớn hở, toàn thân lông dựng ngược, chắp tay đảnh lễ Mã vương và thưa:
-Lành thay! Thưa Mã vương, chúng tôi rất muốn qua bờ bên kia, xin ngài chở chúng tôi từ bờ biển này sang bờ bên kia.
Lúc ấy Mã vương bảo các thương nhân:
-Các người phải biết, chẳng bao lâu các quỷ nữ La-sát sẽ đến đây, đem con trai hay con gái hiển hiện trước mặt các ông, tỏ vẻ thương xót buồn khóc khổ sở. Khi ấy các ông không nên sinh tâm nhiễm trước, luyến ái. Nếu khi đó các ông khởi ý nghĩ thế này: “Đây là vợ tôi, đây là con trai tôi, đây là con gái tôi....” Giả sử lúc ấy các ông có cỡi lên lưng tôi rồi, nhất định rơi xuống, bị La-sát ăn thịt. Nếu lúc ấy các ông khởi lên ý nghĩ thế này: “Họ không phải là của ta. Ta không phải là vật của họ. Chẳng phải con trai, con gái của ta.” Giả sử lúc ấy tay các ông bám vào một sợi lông của ta, thì ta sẽ chở các ông, đưa các ông từ bờ biển bên này sang bờ biển bên kia một cách an toàn.
Đại Mã vương dặn lời như vậy rồi, lại bảo các thương nhân:
-Giờ này đã đến lúc các ông có thể cỡi trên lưng ta, hoặc nắm lấy một phần trên thân thể hay chân tay của ta.
Đoàn thương nhân, hoặc cởi trên lưng, hoặc nắm giữ một phần thân thể, bốn chân của Mã vương. Khi ấy Mã vương chở đoàn thương nhân vừa bay đi trong hư không nhanh như gió, vừa kêu lên những lời bi cảm.
Nói về đám quỷ nữ La-sát, đang nằm ngủ bỗng nghe tiếng bi cảm và tiếng ngựa phi như gió của Mã vương liền thức dậy, không thấy đoàn thương nhân đâu hết nên tìm kiếm mọi nơi. Lại xa xa trông thấy đoàn thương nhân, hoặc có người cỡi trên lưng ngựa, hoặc có người nắm lấy lông trên thân, đồng nương hư không mà đi. Thấy vậy chúng vội đưa trai gái chạy nhanh đến bờ biển, kêu khóc ai oán, với âm thanh rất khổ não, bằng những lời:
-Các Thánh tử ơi, nỡ bỏ chúng em để đi đâu vậy, làm cho chúng em mất chồng. Anh là chồng của em, trước đây bị nạn chìm trong biển cả khủng khiếp, chúng em vớt lên chỉ muốn cùng nhau kết nghĩa vợ chồng. Ngày nay các anh nỡ bỏ chúng em ra đi về xứ nào? Các anh là kẻ vô ân bạc nghĩa, vì sao bỏ em, không báo ân? Nếu khi chúng em sống ở bên chồng có điều gì làm phật ý, nay xin sám hối tạ tội. Từ nay trở đi, chúng em không dám làm các điều ác. Này các phu quân, phàm đấng nam nhi không nên giờ lòng oán giận, xin mau trở về. Ngày nay bỏ chúng em đi về đâu? Này các thánh tử, nếu ngày nay các đức lang quân không dùng chúng em, còn các đứa con trai, con gái này hãy mang chúng nó theo!
Khi các quỷ nữ La-sát nói lời buồn thương ai oán như vậy, Mã vương Kê-thi vẫn chở năm trăm thương nhân từ biển cả đến cõi Diêm-phù-đề một cách an ổn.
Này các Tỳ-kheo, các thầy nghĩ sao? Chớ phân vân về Mã vương Kê-thi lúc đó. Nào phải là người nào khác, chớ sinh ý nghĩ gì khác, chính là thân Ta. Còn vị đại thương chủ trong số năm trăm thương nhân đâu phái người nào khác, nay chính là Tỳ-kheo Xá-lợi-phất. Năm trăm thương nhân đâu phải là ai khác, nay chính là năm trăm đệ tử của ngoại đạo San-xà-da Ba-ly-bà-xà-ca vậy.
Thuở ấy Ta vì năm trăm thương nhân bị ách nạn rơi vào cảnh giới La-sát. Sau đó nữ La-sát sắp đem năm trăm thương nhân tùy ý làm hại. Lúc ấy thương chủ đem năm trăm thương nhân đến chỗ Ta, lúc ấy Ta chở họ khỏi biển đến đất liền, cứu họ thoát khỏi khổ ách. Còn ngày nay, Ta cũng vì năm trăm đồ chúng đi trên con đường hư vọng vào trong đồng hoang tà kiến nguy hiểm của ngoại đạo San-xà-da, Xá-lợi-phất ở trong ngoại đạo này giáo hóa họ, đem đến chỗ Ta, Ta cũng dạy họ đang ở trong đồng hoang tà kiến ra khỏi biển sinh tử.
Này các Tỳ-kheo, Như Lai khi chưa thành Phật, đã làm những việc lợi ích lớn. Do vậy các thầy đối với Phật cần phải sinh tâm cung kính tôn trọng và sinh tâm tưởng thán phục, cho nên các thầy cần phải tu học như vậy. Phẩm 51: ĐOẠN TRỪ NIỆM BẤT TÍN VỚI VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI
Theo thuyết của các thầy Ma-ha Tăng-kỳ nói: “Lúc ấy Đức Như Lai độ Trưởng lão Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cùng năm trăm môn đồ đều được xuất gia thọ giới Cụ túc. Sau đó Ngài từ nước Ma-già-đà tuần tự đi từ làng này đến làng khác, tùy ý du hành qua các thôn ấp, lần lần đến thành Vương xá.”
Theo thuyết của các thầy thuộc bộ Ca-diếp-di lại nói khác: “Đức Như Lai đến núi phương Nam, du hành các xứ, rồi sau đó trở về thành Vương xá.”
Thuở ấy có nhiều thiện nam oai quyền thế lực lớn, ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội, theo Như Lai tu tập phạm hạnh. Nhưng ngược lại cũng có những người chê trách Thế Tôn, họ nói:
-Sa-môn Cù-đàm luôn khiến chúng ta không có con cái, khiến chúng ta tán gia bại sản, làm cho chúng ta tuyệt tự. Sa-môn Cù-đàm đã độ một ngàn Phạm chí búi tóc xuất gia. Sa-môn Cù-đàm cũng cướp đoạt năm trăm đệ tử của San-xà-đa Ba-ly-bà-xà-ca khiến họ xuất gia. Nay tại nước Ma-già-đà cũng có nhiều thiện nam oai đức thế lực lớn, đang hướng về Như Lai tu phạm hạnh.
Các người hủy báng này khi thấy các Tỳ-kheo sắp đến trước mặt mình, họ cùng nhau nói kệ.
Đại Sa-môn trở lại
Vượt Nam sơn đến đây
Đã độ chúng Bà-xà
Sẽ dụ ai đi đây?
Khi ấy chúng Tỳ-kheo nghe họ nói những lời như vậy, lấy làm xấu hổ, trở về Trúc lâm trình lên Phật bài kệ ấy. Khi đó Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
-Các thầy phải biết, những lời nói như vậy không tồn tại lâu dài, chỉ trong vòng bảy ngày. Sau bảy ngày, những lời nói ấy tự tiêu diệt, mọi nơi không còn nghe. Này các Tỳ-kheo, nếu có người đến với các thầy nói bài kệ như vầy:
Đại Sa-môn trở lại
Vượt Nam sơn đến đây
Đã độ chúng Bà-xà
Sẽ dụ ai đi đây?
Nếu họ nói như vậy thì các thầy dùng kệ như sau đáp lại:
Thế Tôn Đại Trượng Phu
Như pháp dẫn người đi
Đã đi như pháp rồi
Kẻ trí nào không theo.
Một hôm, vào lúc bình minh, mặt trời còn ở phương Đông, các Tỳ-kheo đắp y mang bình bát vào thành khất thực. Khi ấy các người hủy báng cùng đem bài kệ chế diễu các Tỳ-kheo:
Đại Sa-môn trở lại
Vượt Nam sơn đến đây
Đã độ chúng Bà-xà
Sẽ dụ ai đi đây?
Khi ấy các Tỳ-kheo dùng kệ như trên đáp lại. Lúc ấy các người kia nghe kệ rồi, suy nghĩ: “Phàm Sa-môn Thích tử độ người đều dạy họ thực hành đúng như chánh pháp, không phải là không đúng chánh pháp.”
Do đó, những lời kệ của họ chỉ tồn tại trong bảy ngày. Qua bảy ngày, tất cả sự việc trên không còn, ở mọi nơi đều không còn nghe nữa. Phẩm 52: NGHI THỨC THUYẾT PHÁP
(Phần 1)
Một thuở nọ, tại đại thành Vương xá có chúng ngoại đạo Ba-ly-bà-xà-ca, thường cứ mỗi năm ngày tập hợp quần chúng thuyết pháp. Thính giả đến nghe pháp rất đông. Vì vậy, trong thời gian này, hàng ngoại đạo Ba-ly-bà-xà-ca ấy được cung kính tôn trọng và nhiều lợi dưỡng.
Khi ấy quốc vương Tần-bà-sa-la ở thành Vương xá, nước Ma- già-đà rất chánh tín Phật pháp, suy nghĩ: “Ngày nay ngoại đạo Ba-ly-bà-ca thường thường cứ mỗi năm ngày tập họp quần chúng thuyết pháp, thính giả đến nghe pháp rất đông. Vì vậy hàng ngoại đạo này được người đời quý trọng, cung kính cúng dường, được nhiều lợi dưỡng. Ngày nay, ta cũng tập hợp các thầy Tỳ-kheo, khuyến thỉnh các thầy cứ mỗi năm ngày thuyết pháp một lần, rồi ta đích thân đi dự đại hội. Nếu chúng hội thấy ta đến, thì tất cả dân chúng cũng đều đến dự. Vì vậy sẽ khiến thầy của ta được người thế gian tôn trọng, cung kính cúng dường, được nhiều lợi dưỡng.”
Nghĩ như vậy rồi, nhà vua liền đem mọi việc đến bạch Phật. Bấy giờ Đức Thế Tôn nhân sự việc này tập hợp chúng Tỳ-kheo, bảo:
-Này các Tỳ-kheo, Ta đã hứa với đại vương Tần-bà-sa-la, cứ mỗi năm ngày các Tỳ-kheo được phép tổ chức đại hội, vì quần chúng mà thuyết pháp, luận bàn nghĩa lý các pháp.
Các Tỳ-kheo lúc ấy bạch Phật:
-Thưa Thế Tôn, chúng con sẽ thuyết những pháp gì? Và không nên thuyết những pháp gì?
Khi các Tỳ-kheo hỏi như vậy, Đức Phật bảo đại chúng Tỳ-kheo:
-Này các thầy, Ta đã hứa với đại vương Tần-bà-sa-la, cứ mỗi năm ngày, khi tập họp đại chúng xong, các thầy nên tán thán công đức của Phật, công đức của Pháp, công đức của Tăng, công đức của chánh tín, cho đến tán thán sơ lược các công đức trì giới, đa văn, bố thí, trí tuệ, tri túc, thiểu dục, đầu đà, xa lia làng xóm thành ấp, thường ưa ở chỗ vắng lặng, hành diệu hạnh, lợi ích, tinh tấn; các công đức cúng dường cha mẹ, tôn trưởng, Sa-môn và Bà-la-môn, cúng dường thiện hữu tri thức; tán thán thiện ngôn, tán thán chế ngự các căn, tán thán ăn uống có tiết độ, tán thán đầu đêm cuối đêm tỉnh thức không ngủ nghỉ, tán thán sinh chánh niệm, tán thán cùng phục vụ nhau, tán thán công đức cùng nhau học hỏi, tán thán công đức nghe pháp được lãnh ngộ, tán thán công đức đã làm theo điều đã nghe thầy dạy, không chông trái; tán thán công đức nghe chánh pháp rồi sinh chánh tri kiến, nghe pháp rồi tùy thuận tu tập; tán thán công đức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm thiên, niệm thí, niệm tịch diệt, niệm quán sổ tức, niệm thân, thường niệm quán tưởng bất tịnh, niệm tử tưởng, niệm ăn uống khởi tưởng bất tịnh. Tán thán quán tưởng thế gian không an lạc, tưởng vô thường, tưởng khổ không, tưởng vô ngã. Tán thán công đức của tưởng từ bỏ diệt, tưởng ly dục, tưởng diệt, tưởng tướng xương trắng, tưởng xương phân tán, tưởng sình trướng, tưởng sắp rã nát, tưởng mất nửa thân người, tưởng thân tan rã. Tán thán tưởng thiêu cháy nửa thân, tưởng thiêu cháy đỏ, tưởng thân đáng ghét, cũng nên tán thưởng niệm các công đức. Cũng nên tán thán tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác, bát đạo phần, tán thán pháp môn giải thoát và các phần giải thoát, tán thán tám thắng xứ, tán thán tam minh. Cũng tán thán công đức sáu phép thần thông.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.223.206.84 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.