Đại sư Minh Giáo có dạy rằng: “Đức Thích-ca để lại giáo
pháp, lấy thiền làm tông chỉ, lấy Phật làm Tổ. Tổ là khuôn
thước lớn của đạo; tông chỉ tức là giềng mối lớn của đạo.
Giềng mối chẳng sáng rõ thì thiên hạ không thể theo về một
đường; khuôn thước chẳng ngay thẳng thì thiên hạ không thể
do đâu mà tin chắc.”
Những người học Phật từ xưa nay đua nhau lập môn phái riêng,
tranh việc phải trái, ấy đều là do tông chỉ không sáng rõ,
khuôn thước chẳng ngay thẳng mà gây ra nạn ấy.
Than ôi! Lúc gần đây có bọn tà sư tự đặt ra những lời quái
gở như tà ma ngoại đạo, nương theo hiệu Bảo Lâm Pháp Luân,
giả soạn tông chỉ chân thật, ý nghĩa mầu nhiệm trong kinh
điển, lạm xưng là Pháp bảo vô thượng, lừa dối người sau, gây
nhiều nhầm lẫn, sai sử kẻ mê, lắm chuyện đảo điên. Chẳng
biết pháp thân Tịnh độ xưa nay, một lòng chấp giữ cái túi da
đựng máu mủ. Đem cảnh mộng ấn chứng công phu, trở lại chê
bai tham thiền, niệm Phật đều là Tiểu thừa, bố thí, tạo
duyên lành cũng là phước không thanh tịnh.
Họ dạy người rằng: Phật chẳng cần lễ, hương chẳng cần thắp,
giới chẳng cần trì, kinh chẳng cần tụng. Do đó hiểu sai lời
Phật, luận nhầm ý thánh, nói rằng dâm dục chẳng ngăn giác
ngộ, sát sanh, trộm cắp chẳng ngại trí huệ. Họ trà trộn
trong đạo ta, lần lượt truyền tập cho nhau, chẳng giữ thanh
qui, nhiễu loạn chánh pháp.
Đó là bọn yêu tinh quỉ quái, tối nhóm sáng tan, mạo xưng
quan pháp đàng hoàng, Phật pháp bí mật. Họ nói rằng cần phải
thổi tắt đèn đuốc để truyền ngầm phép mầu. Lại bảo rằng
người theo họ hành trì chỉ bảy ngày là thấy tánh ngộ đạo.
Họ lại dạy đệ tử vào đền thờ phải thề thốt, viết sớ, gọi là
hợp với luật trời, rồi đốt dâng lên Thiên đình, như vậy mới
được thành Phật. Lại dạy rằng đó là việc mầu nhiệm tốt đẹp,
không được để cho người ngoài biết được. Nếu ai để lộ cơ
trời, nhất định phải bị đọa vì lời nguyện ấy. Họ lại sai
người ngăn giữ ở nhà sau, cửa trước, sợ là có kẻ cách vách
thấy nghe nên dùng sự canh phòng cẩn mật.
Than ôi! Sao lại phải khó nhọc như vậy? Nếu là phép Phật
chân chánh, thì cứ việc khua chuông, gióng trống, lên thềm
nhóm cả Đại chúng, bày tòa diễn giảng, khai thị rõ ràng. Há
có lẽ giấu giếm như vậy sao? Chỉ lo không truyền bá được
rộng rãi, lẽ nào lại sợ nhiều người được biết?
Do nơi thờ phụng tà ma, nên đi đến chỗ dối người, dối mình.
Năm này qua năm khác, họ có nhiều hình thức, gây xáo động
nhà người khác, những ai có lòng tin mà chẳng rõ, chẳng biết
nên cùng đua nhau chạy theo đường ma.
Ôi! Chỉ dối người ở bước đầu thì còn có thể tha thứ, họ lại
còn nói bậy rằng Lục tổ có dạy: “Thà độ muôn ngàn kẻ tục,
chẳng độ nửa ông tăng cửa không.” Bọn người như vậy chẳng
những lừa dối những người đời sau, còn là vu oan cho các
thánh đời trước. Há chẳng nghe thiền sư Vĩnh Gia dạy rằng:
Đèn pháp thắp lên từ Ca-diếp.
Hai mươi tám Tổ cõi Tây thiên.
Truyền pháp sang đông đến cõi này,
Bồ-đề Đạt-ma là Sơ tổ.
Sáu đời truyền nối ai cũng rõ,
Người sau được đạo nhiều vô số.
Như vậy, há có cái lý độ kẻ tục mà chẳng độ người xuất gia
hay sao? Lời ấy thật là hủy báng Tam bảo, làm bại hoại nền
nếp tông môn, làm việc tà, phạm luật cấm. Một ngày kia việc
đã rõ ràng, lẽ trời khó dung tha. Khi sống ắt bị pháp luật
trừng trị, lúc thác rồi đọa địa ngục Vô gián, cho đến một
ngàn đức Phật lần lượt ra đời cũng chẳng nhận cho họ sám
hối. Vì sao vậy? Khi chịu tội trong địa ngục Vô gián đã hết,
lại đọa vào các địa ngục khác. Đến khi nghiệp địa ngục hết
rồi, lại chịu nghiệp súc sanh, ngạ quỉ, trôi lăn khổ não,
không có lúc nào dừng nghỉ. Quả thật là:
Muốn khỏi rơi vào ngục Vô gián,
Xin đừng báng bổ pháp Như Lai.
Thánh nhân dạy rằng: “Nhìn thấy một điều sai trái như tên
xuyên qua tim; nghe biết một điều sai trái, như dùi đâm
thủng tai. Hãy mau mau tránh xa, chớ nhìn, chớ nghe những
điều ấy. Mỗi người nên tự quán xét tâm mình, không được
buông thả.”
Này các vị! Những kẻ tà đạo ấy, chỉ vì nghiệp ác từ đời
trước nên sanh ra gặp phải tà sư. Nỗ lực làm lành rất khó,
trừ dứt tâm ác không dễ. Huống chi những kẻ lầm lạc trong
đời này có rất nhiều hình thức. Nay chỉ xin nói qua một số
để phá tan sự nghi ngờ cho người học đạo.
Có hạng tà sư mạo xưng là học đạo của ngài Đạt-ma, dạy người
học đạo chỉ quan sát chữ Phật với chữ vô và vận dụng hơi
thở vào ra. Họ lại dạy người gắng sức đưa hơi thở lên cao,
ép hơi lên đỉnh đầu, bảo đó là phép tinh luyện, cần dũng
mãnh gia công. Những người ấy đều là tà kiến ngoại đạo, cho
dù trải qua vô số kiếp cũng chẳng thoát khỏi luân hồi.
Lại có hạng tà sư dạy rằng vùng đan điền là cõi nước Cực
lạc, là nơi trú ngụ của chư Phật, dạy người học phải quán
chiếu nơi ấy, nắm bóp xoa nắn, dời tinh chuyển khí, đưa qua
ba cửa, nói là trở về nguồn cội, thấy tánh thành Phật. Nghe
được một tiếng dội trong bụng, họ nói đó là sáu thứ chấn
động, là tiếng sư tử hống. Hạng người như vậy đến già thành
ma, chìm mãi trong đường quỉ.
Lại có hạng tà sư chẳng rõ danh hiệu cao cả của Đại Thánh,
chẳng biết công đức của việc niệm Phật, dạy người những việc
xằng bậy chẳng liên quan như quẻ Khảm là nam, quẻ Ly là
nữ... Họ đem sáu chữ Nam mô A-di-đà Phật mà giải thích thành
sáu thứ khác nhau, dối gạt kẻ mê lầm, khinh mạng Đại Thánh.
Tội ấy đồng với tội cắt xẻ thân thể Phật hay làm thân Phật
chảy máu. Hạng người như vậy, cả thầy lẫn trò đều đọa vào
địa ngục.
Lại có hạng tà sư tự xưng là dạy pháp môn đốn ngộ, bảo người
tu chẳng cần niệm Phật. Họ giải thích sai lệch lý âm dương,
cởi áo nằm ngửa mà quán lẽ không. Họ lại chỉ hai đường dọc
theo xương sống mà nói rằng đó là phái Tào Khê. Họ dạy người
ta co chân vận khí, mạo xưng là phát quang lớn. Những chuyện
lớn nhỏ bịa đặt như vậy đều là kế sanh nhai của bọn ma quỉ.
Họ chẳng biết rằng chư Phật đều đã từng tích chứa công đức
mà thành, há chỉ dựa theo chỗ không mà thành Phật được sao?
Phật pháp còn bị cảnh trần che lấp, há có thể ở nơi lý âm
dương? Những người như thế làm bạn với ma, trầm luân mãi
mãi.
Lại có hạng tà sư dối truyền 108 chữ gọi là 108 hạt châu
ma-ni. Họ đặt tên cho các đốt xương trên khắp thân mình:
trên, dưới, tả, hữu đều có biểu pháp; họ khiến người ta lần
hết các đốt xương ấy một bận, gọi là bằng với công phu một
buổi tham thiền! Tuy họ quỳ lạy mặt trời, mặt trăng, sao Bắc
đẩu, nhưng cũng chẳng nghiêm chỉnh y phục, hoặc lõa lồ thân
hình, hoặc mặc áo nhẹ mỏng hở hang. Họ chẳng kính tổ tiên,
cha mẹ, ngăn cản người cúng Phật, trai tăng. Họ nói ngang
ngược rằng: “Phật đất chẳng qua được nước, Phật gỗ chẳng qua
được lửa, tượng vàng, tượng bạc, tượng đồng cũng chẳng qua
được lò nung. Kinh điển là dây sắn, dây bìm, chẳng cần đọc
tụng.” Họ khinh Phật, ngạo Pháp dường ấy, chỉ làm chuyện bậy
bạ mà thôi. Giá như người người đều giống Đan Hà mới cho
thiêu Phật, nơi nơi đều là Bách Trượng, mới nên nói không.
Còn như chưa được như vậy thì đọa vào địa ngục trong chớp
mắt.
Lại có hạng tà sư bịa đặt ra nhiều pháp, dạy bậy là phải tu
cả tánh và mạng, xưng là Đại đạo Kim đan, dối gạt những
người thế gian có lòng tin. Họ chẳng biết đến sự tham cứu
chân chánh, chứng ngộ đích thật, chỉ chạy theo việc hành trì
quỉ quái, lấy mười hai tháng trong năm gọi là mười hai độ
công phu; lấy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gọi là chư Phật,
Bồ Tát; lấy da, thịt, mạch máu, đốt xương, gọi là Tám bộ
thiên long. Khi bên tai chợt nghe có tiếng, liền gọi đó là
quả vị Thanh văn, La-hán. Khi trước mắt chợt thấy tối tăm ma
mị, liền gọi đó là tô vẽ không thành cảnh giới. Hoặc thấy
cát bằng vàng đầy đất, hoặc thấy hoa sen báu ngàn cánh, hoặc
thấy lầu đài, cung điện, hoặc thấy sư tử, voi chúa, hoặc
thấy rồng ngâm, cọp gầm, hoặc thấy mặt trời, mặt trăng đều
sáng, hoặc thấy chư Phật mười phương, hoặc thấy trăm ức Hóa
thân lại tự nhận là Thích-ca, Di-đà, tiếm xưng là đấng Vô
thượng Pháp vương! Những người như thế, vĩnh viễn đọa nơi
địa ngục, chẳng có ngày ra.
Lại có hạng tà sư luyện thành huyễn thuật, hoặc ngồi lặng
tưởng thầm, kéo dài lâu năm chiêu cảm một loài tinh linh quỉ
quái đến nhập vào tâm họ. Do đó họ có tài đàm luận, liền
khoe khoang rằng: “Ta có ngũ nhãn, lục thông, biết được quá
khứ, vị lai.” Rồi họ nói bậy những việc lành, dữ, họa, phước
chốn nhân gian; ngày nay nói rằng có người này lại, ngày mai
lại bảo có việc kia đến. Thấy nhà nào có tai họa thì nói dối
rằng có thể trừ được. Đó là vì tham cầu tài lợi. Họ còn dám
tự xưng là Phật này, Phật nọ ra đời để cứu độ những kẻ tin
theo. Họ dạy người chẳng cần phải kiên trì trai giới, chẳng
cần phải lễ thầy nào khác, chỉ cần cúng dường cho họ, họ sẽ
dạy cho tự nhiên thành Phật. Có những kẻ ngu si, ngưỡng mộ
và tin sâu đến tận xương tủy, gần xa tìm về theo họ. Nhân đó
nhóm họp đông đúc, chuyên làm những việc sai trái. Những
người như vậy, vĩnh viễn là quyến thuộc của ma, mãi mãi tạo
nhân địa ngục.
Trong kinh Lăng Nghiêm có dạy rằng: “Những người tu hành,
nếu chẳng dứt dâm dục, sát hại, trộm cướp, nói dối mà muốn
đắc đạo thì cũng như nấu cát làm cơm, dầu trải qua vô số
kiếp, rốt cuộc cũng chẳng bao giờ thành được.”
Này các vị! Nếu học kinh Lăng Nghiêm sẽ rõ biết hết thảy các
hạng tà ma ngoại đạo.
Lại có hạng thầy dốt nát, tuy dạy người niệm Phật A-di-đà mà
chẳng rõ thông đạo lý cao sâu của Phật tổ, nói những điều
rối loạn mối đạo, chẳng biết hướng về Tịnh độ, chẳng phát
chánh nguyện vãng sanh, chỉ tham cầu được giàu sang trong
đời tới. Họ chẳng biết rằng giàu sang cũng có kỳ hạn, khi
hết phước vẫn phải luân hồi, nhiều kiếp bị trôi lăn trong
các đường ác. Những người như vậy thật đáng đau xót, đáng
thương thay!
Lại có hạng thầy dốt nát, chẳng dạy người công án niệm Phật.
Mở trường họp chúng dạy việc ngồi thiền tham cứu. Đường lối
đã chẳng biết, lại bày ra lắm bậc công phu. Ngày này sang
ngày khác chỉ toàn là nói thiền nói đạo. Hôm nay thân thể
nặng nề, hôm qua thân thể nhẹ nhõm. Hoặc nín được hơi thở,
liền nói là tinh tấn. Hoặc mửa ra đàm huyết, liền nói là khử
trần. Hoặc ngồi mê như chết, liền nói là thiền định. Hoặc té
ngã nhảy nhót, liền nói là phát dương. Hoặc trong mắt thấy
có Phật vây quanh thuyết pháp, hoặc tai nghe tiếng nhạc tùy
ý thỏa thích. Những người như thế, năm tháng trôi qua uổng
phí, cô phụ tánh linh, phải chịu luân hồi mãi mãi, không do
đâu mà được giải thoát.
Than ôi! Tham thiền học đạo vốn là vị đề-hồ ngon quý, gặp
phải những hạng người ấy lại hóa thành thuốc độc! Há chẳng
nghe các đời tổ sư đều chỉ thẳng tâm tông, thấy tánh thành
Phật hay sao? Người mê chẳng biết tự tâm là Phật, khá thương
lắm thay!
Chỉ vì chúng sanh căn tánh cao thấp khác nhau, việc chứng
ngộ cũng nhanh chậm khác nhau, nên chư Phật Tổ mới bày ra vô
số phương tiện, thí dụ thuyết pháp. Như người đời không ngộ
được lẽ đạo thì những việc ấy có ích gì? Lại bị tình trần
buộc trói, trôi lăn trở lại trong chốn luân hồi. Bấy giờ ăn
năn cũng đã muộn rồi!
Nay khuyên những người học đạo, như không đủ sức đốn ngộ thì
hãy giữ chặt lấy một câu Nam mô A-di-đà Phật, luôn luôn nhớ
đến, nghĩ đến, luôn luôn tỉnh giác chiếu soi. Vì sao vậy?
Trong lúc tu niệm cho dù chưa được ngộ đạo, nhưng lúc mạng
chung sẽ được vãng sanh vào hàng Thượng phẩm. Đã được vãng
sanh, còn lo gì không ngộ đạo?
Này các vị! Nên biết là chỉ một pháp môn niệm Phật quả thật
vượt hơn hết thảy các pháp môn khác. Sách Liên tông bảo giám
có dạy rằng: “Tin theo các pháp môn khác mà học đạo như kiến
bò lên núi cao, còn pháp môn Tịnh độ vãng sanh như thuyền
buồm xuôi dòng thuận gió. Di-đà tiếp dẫn, thẳng tới Bồ-đề,
các thánh dắt dìu, vượt ra ngoài ba cõi. Hàng Thượng phẩm
liền lên quả Phật, dù Hạ sanh cũng hơn cõi trời. Xin mọi
người đừng nghi ngờ, cùng nhau tu hành tiến lên địa vị Bất
thối.
Như người muốn sanh về Tịnh độ, nên chuẩn bị hành trang.
Hành trang là những gì? Đó là ba món: đức tin, đạo hạnh và
chí nguyện. Có đủ ba món ấy, ắt được sanh về Tịnh độ. Sách
Liên tông bảo giám có dạy rằng:
Từ đây sang phương Tây,
Mười muôn dặm xa thay!
Hành trang chuẩn bị đủ,
Lo gì chẳng đến ngay?
Thế Chí Viên Thông có dạy rằng: “Nhớ Phật, niệm Phật, ngay
trong đời này hoặc đời sau, chắc chắn được thấy Phật.” Nhớ
Phật, niệm Phật, nghĩa là trong tâm nhớ nghĩ không lúc nào
gián đoạn. Được như vậy thì ngay trong đời này được thấy
Phật hiện ra trước mắt, hoặc trong đời sau được nhìn thấy
Phật.
Cho nên, tinh tấn hay giải đãi cũng đều do ở chính mình. Chỉ
cần có lòng tin chắc thì những gì đã nói đều không sai dối.