Ngài Từ Chiếu Tông chủ dạy rằng: “Có hạnh, không nguyện,
hạnh ấy ắt là không thành. Có nguyện, không hạnh, nguyện ấy
ắt là yếu ớt. Không hạnh, không nguyện, ở mãi chốn Diêm-phù
vô nghĩa. Có hạnh, có nguyện, thẳng nhập vào cõi vô vi. Đó
là cái căn bản tu nghiệp thanh tịnh của chư Phật Tổ.
Vì sao vậy? Lý do trí dẫn đường, hạnh do nguyện khởi lên.
Hạnh và nguyện được như nhau thì lý và trí đều gồm đủ.
Nguyện tức là điều ưa thích, mong muốn. Như mong muốn được
sanh về cõi Tịnh độ phương tây; ưa thích được thấy đức Phật
A-di-đà. Cần phải phát nguyện, sau mới được vãng sanh. Nếu
không có tâm nguyện, căn lành rồi sẽ tiêu mất.
Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu chẳng phát nguyện lớn, ắt bị
ma dắt dẫn.” Hết thảy quả Phật đều do từ nguyện lớn khởi
lên, nên muốn được quả Vô thượng Bồ-đề, phải có nguyện
ba-la-mật. Vì vậy, ngài Phổ Hiền khơi rộng biển nguyện vô
biên, đức Di-đà mở ra bốn mươi tám cửa nguyện. Cho nên biết
rằng mười phương chư Phật cho đến thánh hiền xưa nay đều do
nơi nguyện lực mà thành tựu Bồ-đề.
Luận Trí độ, quyển tám, có câu hỏi rằng: “Chư Bồ-đề hạnh
nghiệp thanh tịnh, tự nhiên được báo phần hơn, cần gì phải
lập thệ nguyện, rồi sau mới được thọ báo? Vả lại, như người
làm ruộng tất có lúa, há phải đợi có nguyện hay sao?”
Đáp rằng: “Làm phước không có nguyện, không có chỗ hướng về.
Nguyện là sức dẫn dắt, quy hướng, nhờ đó mà thành tựu. Như
Phật có dạy rằng: Như người tu hành ít phước, ít giới, chẳng
rõ biết chánh nhân giải thoát, nghe nói về sự vui sướng ở
cõi người, cõi trời nên thường mong cầu. Sau khi thác đều
sanh về những cõi ấy. Đó đều là do nguyện lực dẫn dắt đến.
Bồ Tát cầu sanh Tịnh độ là nhờ ở chí nguyện bền vững mạnh
mẽ, mới được vãng sanh.” Lại dạy rằng: “Tuy tu ít phước,
nhưng nhờ có nguyện lực nên được thọ báo Đại thừa.”
Luận Đại trang nghiêm dạy rằng: “Sanh về cõi Phật là chuyện
lớn, nếu chỉ nhờ vào công đức thì không thể thành tựu được.
Cần phải có nguyện lực giúp vào mới được vãng sanh, do nơi
nguyện mà được thấy Phật.”
Kinh A-di-đà dạy rằng: “Như người có lòng tin, nên phát
nguyện sanh về cõi ấy.”
Kinh Hoa nghiêm, phẩm Hạnh nguyện có dạy rằng: “Vào thời
khắc cuối cùng trước lúc mạng chung, hết thảy các căn đều
hoại mất, hết thảy thân thuộc đều lìa bỏ, hết thảy oai thế
đều không còn, cho đến voi, ngựa, xe cộ, của báu, kho tàng
đều không còn nữa. Duy chỉ có nguyện lớn là không lìa bỏ,
luôn luôn dẫn đường phía trước, nên chỉ trong khoảnh khắc
liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.”
Do đó mà suy ra, nên thường xuyên phát nguyện, mong muốn
được vãng sanh, ngày ngày đều cầu mong, đừng để thối mất chí
nguyện.
Cho nên nói rằng: Pháp môn dù rộng lớn, không có nguyện cũng
chẳng theo. Do đó mà Phật tùy theo lòng người, giúp người
được như nguyện.
Than ôi! Nhìn khắp những người đời nay có lòng tin theo về
cửa Phật, hoặc vì bệnh tật khổ não mà phát tâm, hoặc vì báo
ơn cha mẹ mà khởi ý, hoặc vì muốn giữ lấy cửa nhà, hoặc vì
sợ tai họa mà ăn chay. Dầu cho có lòng tin, nhưng chẳng có
hạnh nguyện; tuy nói là niệm Phật, nhưng không đạt đến chỗ
cội gốc của chính mình.
Phàm những kẻ làm việc thiện đều là mong được thỏa sự mong
cầu, hiếm hoi lắm mới có người vì luân hồi sanh tử mà phát
nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Thường khi người ta dâng
hương đèn nơi đạo tràng, những lời cầu nguyện đều là hướng
đến chỗ bộc bạch với thần minh để cầu cho được tai qua nạn
khỏi, tuổi thọ dài lâu. Do đó mà trái ngược với ý nghĩa kinh
sám, không phù hợp với bản nguyện của chư Phật. Dầu cho trọn
đời tu hành tụng niệm cũng chẳng rõ lý thú, vận dụng công
phu sai lầm. Cho nên mới nói là: “Suốt ngày tính đếm châu
báu của người, còn tự mình chẳng được lấy nửa đồng tiền!”
Đến khi lâm chung chẳng được vãng sanh Tịnh độ, đều chỉ là
do chẳng có hạnh nguyện mà thôi!
Lại có những kẻ ngu si, khi về thọ giới theo Phật liền đối
trước Tam bảo mà dâng hương phát lời thề rằng: “Nếu tôi phá
giới, xin chịu bệnh dữ đeo đuổi nơi thân, mãi mãi đọa nơi
địa ngục.” Hoặc thề rằng: “Nếu tôi phá giới, xin chịu nơi
mắt trái chảy máu, mắt phải chảy mủ; tự mình cam chịu thọ
báo.”
Đã từng thấy nhiều người miệng nói ra như vậy mà lòng không
nhớ nghĩ, vẫn phá trai, phạm giới, rồi phải chịu tai ương
hoạn họa, thọ các ác báo. Hoặc trong hiện tại chịu sự trừng
trị của pháp luật, hoặc khi chết rồi phải đọa vào ba đường
dữ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Than ôi! Thật chẳng biết rằng Phật Tổ khởi lòng đại từ bi,
có bao giờ dạy người những chuyện như vậy? Đó đều là chỗ lầm
lỗi của bọn tà sư, lẫn lộn những thuật chú phạt mà cho là
phát nguyện, thật là lầm lẫn biết bao!
Nghĩ mà thương xót, xin khuyên hết thảy mọi người đồng phát
chánh nguyện, cầu sanh Tịnh độ, cùng nhau thẳng đến quả
Phật.
Hẳn có người nói rằng: “Tôi là phàm phu, đâu dám mong cầu
sanh về Tịnh độ, được làm Phật hay sao? Nếu mong cầu như
vậy, lại thành ra hoang tưởng mà thôi.”
Xin thưa rằng: “Không phải vậy. Này quý vị! Phật tức là
giác, Tịnh độ là tâm. Tâm này, ai mà chẳng có? Nếu tâm giác
ngộ tức tự mình là Phật, còn khi tâm mê, ấy là chúng sanh.
Người đời vì trái với giác, hợp với trần, cho nên phải luân
hồi trong ba cõi, sanh ra theo bốn cách trong sáu đường.
Nghiệp duyên thiện ác, thọ báo tốt xấu, đều do nhận lầm bốn
đại là thân, sáu trần thật có. Vì thế mà nương theo những
cảnh huyễn ảo bên ngoài, ngày đêm lưu chuyển, chẳng lúc nào
chịu quay lại quán chiếu, ăn chay niệm Phật.
Suốt đời từ trẻ đến già chỉ lo việc nhà chẳng xong, tiền bạc
của cải chưa được như ý, nhưng càng được nhiều lại càng mong
cầu, lòng tham không thỏa! Dầu cho cũng có làm lành làm
phước, thờ Phật thắp hương lễ bái, nhưng chỉ mong cầu được
phú quí vinh hoa, sống lâu không chết. Vừa làm được đôi chút
việc tốt đã khởi tâm mong cầu nhiều việc, muốn cho lúa gạo
đầy kho, con cháu hiển đạt, trâu ngựa sanh nhiều... Vừa có
một điều không như ý, liền oán trách Phật chẳng phù hộ. Còn
như ngày ngày được thêm của cải, gặp nhiều chuyện vui, họ
mới gọi là được cảm ứng! Tính toán tham lam như vậy, quả
thật là những ý tưởng sai quấy.
Còn nói ngược lại rằng niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là ý tưởng
sai quấy, há chẳng phải là điên đảo lắm sao? Phàm những việc
làm phước hằng ngày đều thuộc về pháp hữu vi, đó là cái nhân
hữu lậu thế gian, chẳng phải đạo vô vi xuất thế.
Người Phật tử tu hành nên khéo suy xét. Ngày nay có duyên
gặp được Phật pháp, nên tham cứu đến tận cội gốc, đừng vướng
nơi những cành nhánh nhỏ nhặt. Chỉ trong một niệm quay về
quán chiếu tự tâm, tu theo pháp xuất thế, phát nguyện lìa bỏ
cõi Ta-bà, cầu sanh về Tịnh độ. Khác nào như người khách tha
hương đã lâu, nay nhớ nghĩ muốn quay về quê cũ. Cái tâm
nguyện muốn sanh về Tịnh độ, muốn thành quả Phật, sao có thể
đồng với những ý tưởng sai quấy của kẻ phàm phu?
Trong bài sám Tịnh độ có nói rằng:
Nguyện khi tôi xả bỏ thân này,
Trừ được hết thảy mọi chướng ngại.
Trước mắt thấy Phật A-di-đà,
Liền được vãng sanh về Tịnh độ.
Nên có lời rằng:
Một khi thẳng bước trên đường chánh,
Mới hay từ trước dụng tâm tà.