Khi Phật ở tại thành Vương Xá, vào buổi sáng sớm đi khất
thực, nhìn xa xa về phía núi Kê Túc thấy có một chàng con
nhà trưởng giả tên Thi-ca-la-việt đang chải đầu, súc miệng,
rửa mặt, thay y phục sạch sẽ, rồi hướng về phương đông lạy 4
lạy, hướng về phương nam, phương tây, phương bắc cũng lạy
mỗi phương 4 lạy, lại hướng lên trời lạy 4 lạy, hướng xuống
đất lạy 4 lạy.
Đức Phật liền đến nhà người ấy, hỏi: “Con đang làm gì vậy?”
Thi-ca-la-việt đáp: “Con ở đây lễ lạy sáu phương.”
Đức Phật hỏi: “Lễ lạy sáu phương như vậy là theo pháp gì?”
Thi-ca-la-việt đáp: “Khi cha mẹ còn sống có dạy con mỗi buổi
sáng sớm phải lễ lạy sáu phương, con cũng không hiểu để làm
gì. Nay cha mẹ đã qua đời, con không dám trái lời dạy.”
Phật nói: “Cha con dạy việc lễ lạy sáu phương không phải
dùng thân lễ lạy như thế. Con đã hiểu sai ý của cha con
rồi.”
Thi-ca-la-việt liền quỳ xuống thưa: “Xin Phật từ bi vì con
giảng giải ý nghĩa việc lễ lạy sáu phương.”
Phật dạy: “Được, con hãy lắng nghe cho kỹ! Hãy để tâm vào
lời dạy, ta sẽ vì con giảng rõ.
“Hàng trưởng giả, những người trí thức, nếu như có thể trừ
dứt sáu pháp xấu ác, đó chính là lễ lạy sáu phương.
“Những gì là sáu pháp xấu ác? Một là tham uống rượu, hai là
mê cờ bạc, ba là thích ngủ sớm dậy trễ, bốn là ưa mời thỉnh
khách khứa, năm là thích kết giao cùng kẻ xấu, sáu là ham
thích việc giết hại, lừa gạt, dan díu vợ người. Nếu có thể
trừ dứt sáu việc ấy, đó là lễ lạy sáu phương.
“Nếu con không trừ được sáu việc ấy thì sự lễ lạy nào có ích
gì? Lại còn lan tràn tiếng xấu, việc nhà rối loạn, tiền của
tiêu tốn, thân thể yếu đuối, gầy còm, việc lành ngày càng
mai một, kẻ xa người gần không còn ai kính trọng.
“Này chàng trai! Nên biết chọn người tốt để giao tiếp, học
hỏi theo; tránh xa những người xấu ác. Như ta từ vô số kiếp
trước vẫn thường gần gũi những bậc thiện tri thức, nay mới
được thành quả Phật.”
Phật lại bảo Thi-ca-la-việt: “Bảo con lễ lạy phương đông là
có ý nghĩa phụng dưỡng cha mẹ phải nhớ 5 điều. Một là hết
lòng hiếu kính, chăm nom thăm viếng, thường khiến cha mẹ vui
lòng. Hai là mỗi ngày dậy sớm, sắp xếp việc nhà, việc cơm
nước, luôn giữ theo nếp nhà cần kiệm. Ba là thay cha mẹ làm
mọi việc nặng nhọc. Bốn là luôn nhớ nghĩ đến ơn đức của cha
mẹ. Năm là khi cha mẹ có bệnh tật hết lòng lo lắng, tìm thầy
thuốc chữa trị.
“Cha mẹ đối với con cũng có 5 điều. Một là dạy con bỏ điều
ác, làm điều lành. Hai là dạy con thường gần gũi những người
hiểu biết. Ba là dạy con chuyên cần, chú trọng việc học hỏi.
Bốn là khi đến tuổi thì lo việc dựng vợ gả chồng. Năm là
chia phần tài sản trong gia đình cho con.
“Lễ lạy phương nam là có ý nghĩa người học trò phụng sự thầy
phải nhớ 5 điều. Một là giữ lòng cung kính, sợ sệt. Hai là y
theo lời thầy dạy bảo. Ba là có những việc giặt giũ, sửa
sang phải gắng sức làm. Bốn là chuyên cần học hỏi không chán
nản. Năm là sau khi thầy qua đời phải giữ lòng kính ngưỡng,
nhớ tưởng, ngợi khen những đức độ của thầy, nhất thiết không
được luận bàn đến những điều sai trái, lầm lỗi trước đây của
thầy.
“Thầy dạy đệ tử cũng có 5 điều. Một là hết lòng dạy bảo
không mỏi mệt, khiến cho học trò mau được hiểu biết. Hai là
mong muốn học trò của mình vượt hơn học trò người khác. Ba
là muốn cho học trò không quên những kiến thức đã học. Bốn
là khi học trò có những chỗ khó khăn, không hiểu, phải tận
tình giảng rõ. Năm là mong muốn dạy dỗ sao cho học trò có
được trí tuệ vượt hơn cả thầy.
“Lễ lạy phương tây là có ý nghĩa người vợ đối với chồng phải
nhớ 5 điều. Một là khi chồng từ bên ngoài đi vào phải đứng
lên chào đón. Hai là khi chồng vắng nhà phải lo việc bếp
núc, quét dọn, giữ lòng kính trọng mà chờ đợi. Ba là không
được khởi lòng dâm dục với người ngoài, phải giữ chặt cửa
khuê phòng. Bốn là khi chồng có nặng lời, không được tùy
tiện đối đáp, lộ vẻ giận tức; chồng có dạy răn điều gì phải
cung kính nghe theo; có sở hữu món gì cũng không được cất
giấu để dùng riêng. Năm là phải đợi chồng nghỉ ngơi trước,
tự mình xem xét cẩn thận việc nhà rồi mới đi nghỉ sau.
“Chồng đối với vợ cũng có 5 điều. Một là mỗi khi ra vào đều
giữ lòng tương kính. Hai là việc ăn uống có giờ giấc thích
hợp, không để vợ phải khó nhọc, buồn bực. Ba là khi vợ muốn
mua sắm quần áo, đồ trang sức... chớ nên trái ý; nhà giàu có
thì sắm đủ, nghèo khó thì tùy sức. Bốn là giao phó tài sản
trong nhà cho vợ coi sóc, gìn giữ. Năm là không được dan díu
tư tình với người khác, khiến vợ phải sanh lòng nghi ngờ.
“Lễ lạy phương bắc là có ý nghĩa trong sự giao tiếp cư xử
với thân thuộc, bạn bè, đôi bên đều phải nhớ 5 việc. Một là
khi có người làm việc xấu ác, lỗi lầm, những người khác phải
thay nhau khuyên bảo, can gián, ngăn chặn. Hai là khi có
người gặp tai nạn rủi ro, ốm đau tật bệnh, những người khác
phải quan tâm chia sẻ giúp đỡ, chữa trị bệnh tật. Ba là khi
một ai đó có lời nói riêng trong nhà, những người khác không
được mang ra nói với người ngoài. Bốn là phải giữ lòng kính
trọng, ngợi khen điều tốt của nhau; duy trì quan hệ tới lui
thăm viếng; nếu như có lúc đụng chạm, xung đột nhau cũng
không được sanh lòng buồn giận, oán hờn. Năm là trong quan
hệ có sự khác biệt giàu nghèo chẳng giống nhau, nên giúp đỡ,
hỗ trợ, cứu vớt lẫn nhau; khi có món ngon vật quý nên chia
sẻ cho nhau.
“Lễ lạy phương dưới là có ý nghĩa người chủ đối với những kẻ
giúp việc phải biết 5 điều. Một là trước hết phải lưu tâm
đến các nhu cầu đói no, lạnh nóng của họ, rồi sau mới sai
khiến công việc. Hai là khi họ có bệnh phải lo mời thầy
thuốc chữa trị. Ba là không được sai lầm dùng đến đòn roi,
đánh đập, cần phải tra xét sự việc rõ ràng rồi sau mới trách
phạt. Việc có thể tha thứ thì nên tha thứ; không thể tha
được mới phải trách phạt để dạy dỗ. Bốn là khi họ có đôi
chút tiền riêng không được tìm cách đoạt lấy. Năm là khi
cung cấp, phân chia món gì cho họ đều phải công bằng, bình
đẳng như nhau, không được có ý thiên vị.
“Người giúp việc đối với chủ cũng có 5 việc. Một là phải lo
dậy sớm, không đợi chủ gọi. Hai là phải biết những việc nên
làm thì tự lưu tâm làm, không để nhọc lòng chủ sai khiến. Ba
là phải biết thương tiếc quý trọng tài sản của chủ, không
được coi rẻ mà vất bỏ, làm hư hỏng. Bốn là mỗi khi chủ nhà
có việc ra vào, phải lưu tâm đưa đón. Năm là chỉ nên ngợi
khen những điểm tốt đẹp của chủ, không được bàn nói những
việc xấu lỗi.
“Lễ lạy phương trên là có ý nghĩa người cúng dường các bậc
sa-môn, thiện tri thức phải nhớ 5 điều. Một là phải dùng tâm
chân thật hướng về. Hai là phải cung kính làm việc phụng sự,
không cho là khó nhọc. Ba là phải thường nhiều lần thưa hỏi
đạo lý. Bốn là phải lắng nghe, suy ngẫm rồi tu tập làm theo.
Năm là phải thưa hỏi rõ về tông chỉ của việc niệm Phật, tham
thiền, ngày đêm chuyên cần tu tập.
“Hàng sa-môn, thiện tri thức khi chỉ bày cho người cũng phải
nhớ 5 điều. Một là dạy người tu tập các pháp bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, định tâm, trí huệ. Hai là dạy
người những điều thuộc về oai nghi, lễ tiết, không để buông
thả, phóng túng. Ba là dạy người giữ cho lời nói với việc
làm luôn tương xứng, hoặc thà nói ít làm nhiều chứ không
được nói nhiều làm ít. Bốn là dạy người chuyên cần lễ bái
Tam bảo, khởi lòng thương xót hết thảy mọi loài chúng sanh.
Năm là dạy người hồi hướng công đức, phát nguyện cầu sanh
Tịnh độ, chứng đắc đạo Bồ-đề rồi sẽ trở lại hóa độ chúng
sanh.
“Làm theo đúng như những điều trên gọi là cung kính vâng
theo lời cha lễ lạy sáu phương. Nếu không làm được như vậy,
dù lễ lạy cũng là vô ích.”
Bấy giờ, Thi-ca-la-việt liền xin thọ trì Năm giới, ân cần lễ
bái Phật.
Đức Phật liền nói kệ tóm lại rằng:
Gà gáy sớm thức dậy,
Mặc áo, bước xuống giường,
Rửa mặt, súc miệng sạch,
Hai tay dâng hương hoa.
Khêu đèn, thay nước sạch
Cúng dường Phật, Pháp, Tăng.
Chắp tay cung kính lễ,
Phát nguyện đền Bốn ơn.
Sáu pháp ba-la-mật,
Thảy thảy đều tu học.
Bố thí trừ tham lam,
Trì giới không hủy phạm,
Nhẫn nhục hết nóng giận,
Tinh tấn khỏi mê trầm,
Định tâm không tán loạn,
Trí huệ dứt ngu si.
Ngày tháng chẳng đợi người,
Chuyên cần không lười nhác.
Khổ sanh, già bệnh, chết,
Mạng người nào được lâu!
Huống chi lúc lâm chung,
Thân thuộc không thể giúp,
Lại không nơi trốn tránh,
Không thuốc nào cứu được.
Phước trời còn phải hết,
Phước người được bao lâu?
Cha mẹ cùng vợ, con...
Như khách cùng quán trọ,
Cùng ngủ nghỉ qua đêm,
Sáng ra, người một nẻo.
Vô thường cũng như vậy,
Sớm lo hướng cõi Phật.
Huống chi trong sáu đường,
Luân hồi không tạm nghỉ.
Nay may được làm người,
Lại nghe pháp sâu mầu.
Tự tu, dạy người tu,
Ta, người đều lợi ích.
Ba-la-mật là thuyền,
Vượt qua biển sanh tử.
Cực Lạc A-di-đà,
Nguyện lực khó nghĩ bàn.
Dẫn bước lên thềm vàng,
Được thọ ký quả Phật.
Bốn chúng vâng làm theo,
Cầu sanh về Cực Lạc.
Con trai ông Thiện Sanh,
Nghe Phật thuyết pháp rồi,
Lòng hân hoan phấn khởi,
Lễ bái tin nhận lời.