Tại Trung Hoa có Tam giáo. Từ vua Phục Hy vạch ra tám quẻ mà
Nho giáo khởi thủy; từ đức Lão tử soạn ra Đạo đức kinh mà
Đạo giáo khởi thủy; từ Hán Minh đế mộng thấy người vàng mà
Phật giáo khởi thủy. Đó là sự tuần tự xuất hiện của Tam giáo
tại Trung Hoa.
Về đại thể, Nho giáo lấy sự chánh trực mà lập giáo; Đạo giáo
lấy chỗ tôn kính mà mở đạo; Phật giáo lấy sự quan trọng lớn
lao nhất mà dạy người.
Nếu xét ở những điểm như chuộng đức hiếu sanh, ghét sự giết
hại, thì cũng đồng với một đức nhân; đối đãi với người khác
như với chính mình, thì cũng đồng một lẽ công bằng; kiềm chế
sân hận, giảm bớt tham muốn, ngăn ngừa những sự lỗi lầm, sai
trái, thì cũng đồng một nghĩa giữ gìn phẩm hạnh, tu sửa thân
tâm. Nổ tiếng sấm lớn giữa đám người điếc, hiện mặt trời
sáng giữa đám người mù, thì cũng là đồng một phong hóa vậy.
Theo chỗ đại lược mà nói thì lý lẽ trong thiên hạ không
ngoài hai đường thiện ác, mà chủ ý của Tam giáo cũng không
ngoài việc khiến cho người ta theo về đường thiện. Cho nên
Hoàng đế Hiếu Tông ngự chế bài Nguyên đạo biện có đoạn rằng:
“Dùng Phật giáo mà tu sửa tâm, dùng Đạo giáo mà tu sửa thân,
dùng Nho giáo mà tu sửa cách ứng xử với đời.” Như vậy thật
là biết tâm, biết thân, biết ứng xử. Trong ba điều ấy, chẳng
nên bỏ điều nào mà chẳng tu sửa. Và trong ba đạo ấy, lẽ nào
có thể bỏ đi một đạo nào?
Cư sĩ Vô Tận soạn bài Hộ pháp luận có nói rằng: “Nho giáo
chữa bệnh da thịt, Đạo giáo chữa bệnh huyết mạch, Phật giáo
chữa bệnh xương tủy.” Thật là biết da thịt, biết huyết mạch
và biết xương tủy vậy. Trong ba thứ ấy, chẳng nên bỏ thứ nào
mà chẳng liệu trị. Và trong ba đạo ấy, lẽ nào có thể bỏ đi
một đạo nào mà không thực hành?
Nho giáo giữ cho cang thường ngay thẳng, nhân luân sáng tỏ;
lễ, nhạc, hình, chánh, bốn phép ấy đều có được không sai
lệch; trời đất, muôn vật phân rõ trật tự, sanh trưởng tốt
đẹp. Thật có công với thiên hạ lớn thay! Cho nên Tần Thủy
Hoàng muốn bỏ đạo Nho mà rốt cùng đạo Nho không thể bỏ!
Đạo giáo dạy người dùng đức trong sạch rỗng rang mà ngăn giữ
lấy mình, luôn giữ sự khiêm cung, nhún nhường, trừ hết những
thói tật rối ren, lộn xộn từ lâu ngày mà theo về cảnh giới
vô vi tịch mịch. Thật là rất có ích cho sự giáo hóa người
đời! Cho nên Lương Võ Đế muốn trừ Đạo giáo mà rốt cùng Đạo
giáo chẳng bị trừ!
Phật giáo dạy người dứt bỏ vẻ ngoài hoa mỹ mà đạt đến sự
thành thật, lìa sự giả dối mà quay về chân chánh, nhờ gắng
sức tu tập mà đạt đến chỗ an nhiên tự tại, nhờ được lợi mình
mà đạt đến chỗ ích lợi cho kẻ khác. Thật là chỗ cho người
đời quay nương dựa vững chắc thay! Cho nên ba vua Võ muốn
diệt Phật mà rốt cùng Phật chẳng bị diệt!
Đời Tùy, Lý Sĩ Khiêm trong bài Tam giáo luận có viết: “Phật
là mặt trời, Đạo là mặt trăng, Nho là năm ngôi sao sáng.
Trên bầu trời phải có đủ ba loại ánh sáng ấy, không thể
thiếu một. Trong thế gian phải có đủ Tam giáo, không thể
thiếu một. Tuy có chỗ hơn kém khác nhau, nhưng đâu có thể vì
thiên lệch chẳng dung mà phế bỏ được sao?
Nhưng vì người đời tâm ý khác nhau, quan điểm khác nhau, nên
kẻ mộ Đạo giáo thì bảo rằng Phật chẳng đáng tôn kính như
Đạo, còn kẻ theo Phật lại nói rằng Đạo chẳng lớn lao như
Phật, rồi nhà Nho tự mình hành xử theo lẽ chánh trực, lại
bài xích cả Đạo giáo và Phật giáo mà cho là dị đoan. Chuyện
thị phi phải quấy chỉ tổ làm rối loạn lòng người, dù qua
trăm ngàn năm cũng vẫn như vậy mãi!
Nay tôi muốn phân biện cho rõ những lẽ này, quyết chẳng đem
lòng riêng tư mà luận, chẳng đem lòng yêu ghét mà luận, chỉ
lấy tâm công bằng mà cứu xét những chỗ thành tựu cao nhất
của mỗi đạo, như vậy mới có thể làm cho hết thảy những thành
kiến vốn có đều tan rã như băng tuyết dưới nắng.
Chỗ thành tựu cao nhất là nói đến chỗ kết quả cuối cùng đạt
được. Trong thiên hạ, mỗi sự việc đều có chỗ thành tựu cao
nhất. Chân lấm tay bùn là việc của người làm ruộng, đến khi
lúa thóc đầy bồ, đó là chỗ thành tựu cao nhất của người làm
ruộng. Lặn lội đường xa, dầm sương dãi năng là việc của
người đi buôn, đến khi vàng bạc đầy đủ, đó là chỗ thành tựu
cao nhất của người đi buôn.
Tam giáo cũng vậy. Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo đều có
những chỗ thành tựu cao nhất của mỗi đạo. Dựa vào chỗ thành
tựu cao nhất mà xét chỗ hơn kém thì không cần biện luận cũng
có thể thấy rõ ngay.
Chỗ giáo hóa của đạo Nho, từ một người mà đến một nhà, từ
một nhà cho đến một nước, từ một nước cho đến khắp bốn biển,
rồi đầy khắp sáu phương, có thể gọi là giữ gìn khuôn thước
mà thi hành rộng rãi. Còn như ở ngoài bốn biển, sáu phương
thì làm sao? Thuyết của Nho giáo dạy rằng: tận cùng hai
phương đông, tây là bốn biển. Nên chỗ xa nhất chẳng qua chỉ
là bốn biển, biết đến đó thì ngừng chứ không còn chỗ nào xa
nữa. Chỗ biết của nhà Nho là như vậy đó.
Cho nên, kẻ học Nho thì tu tâm dưỡng tánh, theo đường nhân
nghĩa, thuần giữ trọn theo lẽ đạo, làm một con người hoàn
toàn tốt đẹp, rồi từ đó mới thực hành công việc, dựng lập sự
nghiệp, có thể dốc sức giúp vua, làm lợi ích muôn dân, khiến
cho quốc gia được an ổn, nước nhà được hưng thịnh, giúp ích
xã tắc, giúp việc giáo hóa muôn dân mà dốc sức vì sự thái
bình, đem trọn cuộc đời để thành tựu sự nghiệp, lưu danh
trong sử sách. Chỗ thành tựu cao nhất của nhà Nho đến đó là
cùng. Tăng tử nói: “Lấy cái chết làm mốc cuối cùng, chẳng
phải là xa lắm sao?” Cho nên nhà Nho xem cái chết là cuối
cùng rồi vậy.
Chỗ thuyết dạy của Đạo giáo thì từ nơi tự thân mà cảm thông
được tận chốn mịt mù, từ nơi nhân gian mà vượt thấu đến cõi
trời cao, từ chốn núi rừng hang hố mà lần cho đến cõi mịt mù
giăng bủa, lầu gác cao vời, có thể gọi là siêu phàm nhập
thánh. Còn như ở ngoài cõi trời đất vạn vật thì sao? Thuyết
của Đạo giáo dạy rằng: “Lớn đến khắp cõi trời, nhỏ như hạt
bụi.” Vậy thì chỗ lớn nhất chẳng qua cũng là khắp cõi trời,
nghĩa là cũng có giới hạn, mà ngoài cái giới hạn ấy thì
không còn biết đến nữa. Chỗ thuyết dạy của Đạo giáo là như
vậy.
Cho nên, kẻ học Đạo thì tinh thần chuyên nhất, chỗ động chỗ
hợp đều không hình tích, vươn đến chỗ trong sạch, ít ham
muốn, bỏ điều cũ, tiếp thu điều mới, tích lũy công hạnh, có
thể ra khỏi xác phàm, bay lượn trên không trung, sai khiến
quỉ thần làm mưa làm gió, giúp theo tạo hóa mà làm nên những
việc huyền diệu, tuổi thọ vô cùng, khoái lạc tự tại. Chỗ
thành tựu cao nhất của Đạo giáo đến đó là cùng. Bởi vậy,
kinh Huỳnh đình nói: “Sống lâu, nhìn lâu cho đến bay lượn
được.” Cho nên, chỗ thành tựu cao nhất của Đạo giáo là đạt
đến sự sống lâu.
Theo Phật giáo, một đức Phật xuất hiện thì lấy Tam thiên đại
thiên thế giới làm một cõi giáo hóa. Nay chỉ tách riêng một
thế giới mà nói. Trong một thế giới có núi Tu-di từ mặt biển
mà vươn lên cao khỏi chín từng mây. Mặt trời, mặt trăng xoay
quanh lưng núi mà phân ra ngày đêm. Bốn phía núi Tu-di có
bốn châu. Phía đông là châu Phất-vu-đại; phía tây là châu
Cồ-da-ni, phía nam là châu Diêm-phù-đề, phía bắc là châu
Uất-đan-việt.
Trong bốn châu lớn ấy, mỗi châu đều có ba ngàn châu nhỏ. Thế
giới này là chính châu Diêm-phù-đề, và nước Trung Hoa là một
trong ba ngàn châu của cõi Diêm-phù-đề phía nam này vậy. Đức
Thích-ca đản sanh ở Thiên Trúc là khoảng trung tâm của châu
này.
Bốn phía núi Tu-di, lên đến gần mặt trời, mặt trăng là cảnh
giới của bốn vị Thiên vương. Trên nữa là cảnh giới của vị
Đế-thích. Lại trên nữa, giữa chốn hư không xán lạn tự nhiên
có bốn tầng trời, đều có mây bao phủ. Hết thảy những cảnh
giới vừa kể đều thuộc về một cõi, gọi chung là Dục giới. Lên
cao hơn nữa có mười bảy tầng trời, gọi chung là Sắc giới.
Lại cao hơn nữa, giữa chốn hư không vô biên có bốn tầng
trời, gọi chung là Vô sắc giới.
Trong ba cõi ấy, tất cả chúng sanh đều phải chịu sanh, già,
bệnh, chết, như vậy là một thế giới. Một ngàn thế giới như
thế tạo thành một Tiểu thiên thế giới; một ngàn Tiểu thiên
thế giới thành một Trung thiên thế giới, tức là gồm một trăm
vạn thế giới. Lại một ngàn Trung thiên thế giới tạo thành
một Đại thiên thế giới, tức là gồm một trăm ức thế giới. Vì
theo thứ lớp hình thành có ba bậc nên gọi là Tam thiên Đại
thiên thế giới, nhưng thật ra chỉ là một Đại thiên thế giới
mà thôi.
Như vậy, trong một Đại thiên thế giới có trăm ức núi Tu-di,
trăm ức mặt trời, mặt trăng, trăm ức Bốn cõi thiên hạ. Nếu
như dùng một trăm vạn xâu tiền nhỏ, cứ mỗi thế giới chỉ đặt
một đồng tiền nhỏ, thì phải dùng hết một trăm vạn xâu tiền
ấy mới đặt trọn hết một Đại thiên thế giới. Đó là một cõi
giáo hóa của một đức Phật vậy.
Khi mỗi một đức Phật xuất hiện thì trong trăm ức thế giới
cũng có trăm ức hóa thân Phật đồng thời xuất hiện. Cho nên,
kinh Phạm Võng chép rằng:
Một hoa trăm ức cõi,
Mỗi cõi một Thích-ca.
Đều ngồi cội Bồ-đề,
Thảy đồng thành Phật đạo.
Như vậy, trăm ngàn ức thân Phật Lô-xá-na, trăm ngàn ức Phật
Thích-ca, thảy đều tiếp độ chúng sanh nhiều như số hạt bụi
nhỏ. Như vậy gọi là trăm ngàn ức hóa thân của Phật. Dùng
trăm ngàn ức hóa thân ấy mà hóa độ trăm ngàn ức thế giới,
trong đó có các loài sanh ra từ bào thai, sanh ra từ trứng,
sanh ra từ chỗ ẩm thấp, hoặc do biến hóa mà sanh ra, gồm đủ
các loài không có chân, có hai chân, bốn chân, hoặc nhiều
chân, hoặc các loài có hình sắc, không hình sắc; hoặc có tư
tưởng, không tư tưởng, cho tới loài chẳng phải có cũng chẳng
phải không có tư tưởng, thảy đều được hóa độ. Đó là chỗ giáo
hóa của đạo Phật.
Cho nên, người học Phật hiểu được rằng năm uẩn đều là không,
thanh lọc sáu căn cho thanh tịnh, xa lìa Mười điều ác, tu
hành Mười điều thiện, quán xét Bốn chỗ nhớ nghĩ, thực hành
Bốn chánh cần, trừ bỏ Sáu mươi hai tà kiến nên không còn chỗ
cho những điều sai lệch, lầm lẫn. dứt hẳn Chín mươi tám điều
sai sử nên phiền não không thể làm rối loạn. Thường cẩn
trọng giữ gìn ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh. Thường tu
tập hành trì Bốn tâm vô lượng và sáu pháp ba-la-mật.
Trong thời gian tu học thường vì pháp mà quên cả thân mạng,
như có thể lột da làm giấy, chích máu làm mực để viết kinh;
chặt tay, gieo mình mà tham thỉnh, không chút sợ hãi, nghi
ngờ. Hoặc vì chúng sanh mà quên thân mình, như chịu đau đớn
mà cắt thịt cho chim ưng; xả bỏ mạng sống, đem thân nuôi cọp
đói; cũng chẳng hề lo lắng, sợ sệt. Đối với các thứ như tiền
tài, trân bảo, thành quách, cõi nước, vợ con... đều vất bỏ
như đôi dép xấu; đối với thân thể, tay chân, đầu mắt, tủy
não... đều xả bỏ như xác ve lột ra. Từ đời này sang đời
khác, trải qua trăm, ngàn, vạn, ức kiếp mà tâm chẳng thối
chuyển, lại ngày càng tinh tấn hơn. Nhờ đó mà trải qua ba
a-tăng-kỳ kiếp được trọn vẹn kết quả, muôn đức hạnh đầy đủ.
Người tu tập thành tựu thì lìa khỏi bốn sự vướng mắc, dứt
hẳn trăm điều sai lệch, thông đạt vô số pháp môn, đắc nhập
vô số tam-muội, thành tựu Năm căn, Năm sức, đầy đủ Ba sự
thông suốt, Ba sự sáng tỏ, hiển bày trọn vẹn Bốn trí, Ba
thân, chứng đắc Sáu thần thông, đủ Năm thứ mắt, được Bốn
biện tài không ngăn ngại nên diễn thuyết vô cùng; chứng nhập
Bốn phần như ý nên được thần thông tự tại. Hiện tại thường ở
trong Tám chỗ thù thắng, Tám cảnh giới giải thoát, sẵn có
đầy đủ Bốn pháp không sợ sệt và Bốn pháp nhiếp phục. Thành
tựu Tám thánh đạo, Mười tám pháp chẳng chung cùng với Ba
thừa. Có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, pháp
thân trang nghiêm vi diệu! Đối với các kiếp quá khứ, vị lai
nhiều như số hạt bụi cát, thảy đều rõ biết; đối với các cõi
thế giới trong hiện tại nhiều như số hạt bụi cát, trong đó
có vô số tâm chúng sanh cũng nhiều như số hạt bụi cát, thảy
đều rõ biết.
Trọn thành Mười hiệu chói sáng, được tôn kính; cao vút vượt
ngoài Ba cõi. Đó là bậc trời trên các vị trời, bậc thánh
trên các vị thánh. Đó là bậc Vô thượng pháp vương, bậc Chánh
đẳng Chánh giác, vượt qua phương tiện, thành tựu đủ Mười
sức, trở lại cứu độ hết thảy chúng sanh trong cõi pháp giới.
Chỗ thành tựu cao nhất của đạo Phật là như vậy.
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Như Lai vì một đại sự nhân
duyên mà xuất hiện ở đời.” Đại sự nhân duyên đó là rộng độ
cho tất cả chúng sanh đều đắc đạo. Nói chung, đại nguyện lớn
lao đó là: quyết sẽ cùng với hết thảy chúng sanh chứng đắc
quả Vô thượng Niết-bàn.
Cho nên, muốn biện luận về Tam giáo, chẳng nên đem lòng
riêng tư mà luận, chẳng nên đem lòng yêu ghét mà luận. Chỉ
nên lấy tâm công bình mà cứu xét chỗ thành tựu cao nhất của
mỗi đạo. Như vậy ắt sẽ biết rằng: người đời học theo Nho
giáo, kết quả cuối cùng không ngoài sự nghiệp công danh; kẻ
học theo Đạo giáo, kết quả cuối cùng không ngoài việc được
sống lâu. Còn người đời học theo đạo Phật, kết quả cuối cùng
có thể dứt hẳn vòng luân hồi, đạt đến Niết-bàn, rộng độ khắp
thảy chúng sanh đều thành Chánh giác. Như vậy, chỗ hơn kém
giữa Tam giáo há chẳng đã thấy rõ ràng lắm sao?
Cho nên tôi thường dùng cách nói thí dụ rằng: Chỗ thực hành
của Nho giáo chỉ giới hạn trong một nước. Chỗ thực hành của
Đạo giáo chỉ giới hạn trong hai cõi trời, người. Còn chỗ
thực hành của Phật giáo thì cùng khắp hư không, khắp cả Pháp
giới.
Lại nữa, Nho giáo ví như cai trị trong một gia đình, ảnh
hưởng không ra khỏi tường rào. Đối với việc bên ngoài tường
rào thì chẳng thể tạo được ảnh hưởng gì. Đạo giáo ví như cai
trị trong một ấp, ảnh hưởng không ra ngoài đường biên giới
bốn phía. Đối với việc bên ngoài biên giới ấy thì không thể
khống chế được nữa. Phật giáo ví như cai trị khắp bốn biển,
như vị vua đứng đầu trong thiên hạ, cùng trời cuối đất không
ai không là thần dân, lễ nhạc chinh phạt đều do lịnh vua ban
ra. Đó là chỗ bàn về chỗ rộng hẹp của Tam giáo.
Kẻ học đạo Nho chết rồi thì hết, nên sự nghiệp không quá
trăm năm. Kẻ học Đạo cầu được sống lâu, sự nghiệp cũng không
quá ngàn vạn năm. Kẻ học Phật dứt đường sanh tử, lặng lẽ an
nhiên thường còn, nên trải qua vô số kiếp nhiều như số hạt
bụi cát, không bao giờ cùng tận.
Nho giáo ví như ngọn đèn nhỏ chiếu sáng trong một đêm, qua
đêm rồi thì cạn dầu, đèn tắt. Đạo giáo ví như ngọn đèn trăm
năm do vua A-xà-thế làm ra để soi sáng xá-lỵ Phật, qua hết
trăm năm thì đèn cũng tắt. Phật giáo ví như mặt trời sáng
tỏ, soi chiếu muôn đời, lặn ở phương tây lại mọc ở phía
đông, tuần hoàn chẳng dứt. Đó là bàn về chỗ lâu mau của Tam
giáo.
Trên đây chỉ là lược nói sơ qua chỗ đại ý về Tam giáo, nhưng
cũng đã thấy được rõ ràng đầy đủ.