.
Nguyễn Dư :
Đứa làm Ngáo Ộp cho hai
ngón tay giữa vào miệng, kéo xệch về phía mang tai...
- Đằng ấy rửa tay chưa?
... dùng hai ngón tay trỏ kéo vành
mắt xuống Kéo cho lòi tròng trắng mắt...
- Hèn gì mắt đằng ấy lúc nào
cũng có dử.
... miệng há hốc, thở phì phì
như người say rượu.
- Đằng ấy sún răng từ bao giờ
vậy ?
Ngáo Ộp là một con yêu méo mồm,
mắt trợn ngược, gầm gừ đi bắt trẻ con. Ai trông thấy
mà chả sợ. Thế là cả bọn hét rú lên, chạy tán loạn.
Tìm gốc cây mà nấp cho mau. Đứa nào bị Ngáo Ộp bắt thì
phải làm Ngáo Ộp. Cứ thế mà chơi, chán thì thôi.
Ngáo Ộp là cụ nào, ông
nào mà đến trẻ con chưa biết gì cũng phải sợ vậy ? Xin
nhờ người lớn trả lời giùm.
Từ điển xưa của ta, của tây
không có Ngáo Ộp. Chỉ có Ngáo thôi.
. Đỗ
Đình Tuân :
Tôi
sinh ra ở một làng nhỏ ven sông Kinh Thày mà dân cả vùng
tôi vẫn quen gọi là sông Cái. Ngày nay, làng tôi mang một
cái tên là làng Thông Lộc (Cổ Thành, Chí Linh, Hải Dương).
Cái tên này cũng là do mấy ông cán bộ địa phương hồi
sau cách mạng tháng Tám (1945) đặt ra thôi, chứ trước kia,
làng tôi vốn tên là Cổ Châu Hạ xã, thuộc tổng Cổ Châu,
huyện Chí Linh, phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nhưng cửa
miệng thì người đời vẫn gọi làng tôi là Hạ thôn hoặc
làng Riêng. Hạ thôn thì chỉ là cách rút gọn của Cổ Châu
hạ xã, còn làng Riêng mới là cái tên gắn liền với lịch
sử hình thành ra làng. Vốn dĩ trước đây làng tôi và làng
Dâu chỉ là một làng có cái tên chữ là Cổ Châu xã. Nhưng
rồi về sau ...
. Cát Hoàng:
Nhà thương
- Tên gọi nơi chửa bệnh trước đây nghe thiệt thân thương
(Mãi đến tận sau nầy vẫn còn những địa danh: Xóm Nhà
Thương; Cầu Nhà Thương; Rạch Nhà Thương;...). Nay không biết
do đâu người ta thay tên gọi là Bệnh viện (May mà không
phải
là "Ốm viện" theo cách chuẩn hoá nào đó?). Tôi cứ thích
cái kiểu ví von ở quê mình: "Đời người đố ai khỏi qua
tay mấy Thầy?" (Thầy Thuốc, Thầy Giáo,... và Thầy Tụng)".
Mặc dù, tôi sanh ra bởi tay đỡ mụ vườn từ chính ngôi
nhà ở xiêu vẹo của gia đình mình chớ không được sanh
ra ở Nhà Thương, nhưng với tôi kỷ niệm về Nhà Thương
lại rất đậm đà sâu sắc.
Ẩm
thực - Phóng sự
. Phanxipăng:
Ai
về Bình Định mà coi:
Đàn bà
cũng giỏi múa roi, đi quyền.
Lần
theo câu ca dao cân quắc ấy, tôi ruổi rong về miền đất
võ. Từ thành phố Quy Nhơn lồng lộng gió biển, chiếc ôtô
Mekong hai cầu lao vun vút ngược quốc lộ 19 đưa tôi lên Tây
Sơn - rốn võ miền Trung, nơi phát tích vị anh hùng "áo vải
cờ đào" Quang Trung Nguyễn Huệ. Ngước mắt nhìn quanh: tứ
bề núi núi. Núi cùng mây xây luỹ đắp thành. Tôi thầm nghĩ:
địa linh sinh nhân kiệt.
Nhắc
đặc sản tỉnh Bình Thuận, nhiều người nghĩ ngay nước
khoáng Vĩnh Hảo và nước mắm Phan Thiết. Nếu gặp dịp ghé
chơi địa phương này lâu lâu, bạn còn được thưởng thức
bao miếng thơm-tho-ngon-lành-hấp-dẫn ở miền biển xanh, cát
đỏ.
. Âm nhạc
:
. Nguyễn
Văn Chính :
. Nguyễn
Văn Thơ :
Truyện
ngắn - Ký - Văn - Biên khảo
.Võ Quang
Yến :
Ý,
từ thế kỷ 10, dân gian có tục lệ tư do ăn chơi trước
những tuần chay hành xác công giáo Carême. Qua thế kỷ 11,
tục lệ nầy được chính thức hoá và năm 1269, viện Nguyên
Lão quyết định ngày trước Carême là ngày lễ Mardi gras tức
là ngày ăn mặn. Cho đến ngày nầy, và luôn trong sáu tháng,
từ tháng mười đến lễ Giáng sinh Noël, rồi từ lễ Hiện
thân Epiphanie đầu tháng giêng đến Mardi gras, dân gian có quyền
mang mặt nạ để không ai biết ai là ai, nhất là trong quan
hệ người nghèo kẻ giàu, người sang kẻ hèn. Trong cảnh
tráng lệ, huy hoàng biểu dương những ngày lễ ở Venise, đây
là một dịp để giàu sang tiện bề biểu lộ, thời trang
mặc sức quyến rũ, tất cả thể hiện trong cảnh hài hòa
màu sắc, cuộc thi đua xa hoa, sự hăng say cuộc sống, trong
một bầu không khí vui tươi, nhộn nhịp. Nhân dịp nầy, mọi
hiềm khích trong các gia đình được tạm quên. ...
Đi
dạo mùa thu ngày nay, khách thường gặp trong các công viên
một cây cao, lá vàng, trái đỏ rất đẹp. Sự tích cây ginkgo
khá ly kỳ : vết ấn lá cây đã được tìm ra trong đá có
270 triệu năm tuổi, vào kỷ thứ hai, nghĩa là trước cả
những khủng long đã sống vào kỷ Jura (213 triệu năm). ...
. Sóng Việt
:
Paris
với từng vùng chia thành những quận (Q) đặt tên theo thứ
sự số , cấu trúc xoắn hình chôn ốc, bắt đầu từ quận
1 và quận 2 (Q1+2) là vùng Opéra đến Les Halles, quận 3 và
4 gồm vùng Marais và bên phía đông của Q 1+2. Q 1,2,3 4 nằm
hữu ngạn (bên phải/phía bắc) sông Seine. Quận 5 vùng Latin
Quarter, quận 6 vùng St-Germain-des-Prés và Odeon, quận 7 là vùng
phiá tây của trung tâm. Q 5,6,7 nằm tả ngạn (bên trái/ phía
nam) của sông Seine, rồi quận 8 vùng Champs-Elysées, rối quận
9 là vùng Montmartre và Pigalle, rối cứ thế tiếp tục vòng
xoắn đến quận 10, 11, v.v....
Những hình ảnh du lịch không
nhất thiết chỉ giới hạn trong phạm vi một vùng mà liên
tục với nhau vì di tích lịch sử nối liền từ quận này
sang quận khác.
Trước
Cửa Pháp Luật hay dịch đúng chữ của nguyên tác là Trước
Pháp Luật, là một chuyện ngắn đắc ý của Franz Kafka
(1883-1924). Chuyện đã đuợc đăng hai lần khi ông còn sống.
Chuyện ngắn này cũng được Kafka sử dụng một phần trong
chương 9 của cuốn chuyện Vụ Án.
Bản phỏng
dịch chuyện Trước Cửa Pháp Luật như sau.
. Quách Giao
:
Sáng
nay vịnh Nha Trang trời hồng sắc nắng. Mặt biển trải thảm
thắm xanh.
Từ bãi biển Nha Trang nhìn
về hướng Đông Bắc, có ngọn đảo nhỏ nằm chơi vơi trong
vịnh Cù Huân. Dân thuyền chài gọi là Hòn Cứt Chim.
Đảo trông rất hiu quạnh.
Hiu quạnh vì không một bóng cây ngọn cỏ, hiu quạnh vì ít
có thuyền câu, thuyền chài, neo đánh cá hay núp bóng nắng
trưa. Thuyền câu không dừng, thuyền đánh cá không đậu
vì không có bến thuận cho thuyền neo. Đảo chỉ gồm có hai
khối đá vách thẳng đứng trơn tru, ...
. Thân Trọng
Sơn :
Dưới
bầu trời Paris, ngày 19 tháng 12 năm 1915 đã ra đời bé gái
Édith Giovanna Gassion. Giấy khai sinh chính thức ghi nơi sinh là
bệnh viện Tenon, quận 20, Paris, nhưng nhiều người lại truyền
nhau là Édith sinh ra trên lề đường, trước nhà số 72 đường
Belleville, thuộc Ménilmontant, một khu phố bình dân cũng ở
quận 20. Có lẽ chỉ vì chi tiết này phù hợp hơn với những
gì liên quan tới cuộc đời của người sẽ trở thành huyền
thoại của nền ca nhạc Pháp : gia cảnh tầm thường, tuổi
thơ u ám, sức khỏe mong manh, tình duyên lận đận, sự nghiệp
gập ghềnh, tuổi thọ ngắn ngủi.
73 tuổi, 51 năm cầm bút,
hơn 200 bài thơ in trong hơn 10 tuyển tập. Những con số này
liên quan đến nhà thơ nữ người Ba Lan WISLAWA SZYMBORSKA vào
thời điểm tháng 10 năm 1996 khi Bà bất ngờ được trao giải
Nobel Văn học. Bất ngờ cho văn đàn thế giới, có thể bất
ngờ cả cho đương sự, nhưng tất nhiên tổ chức quyết định
giải thưởng có lý do về sự lựa chọn này:
" Ở Szymborska Viện Hàn lâm Thụy
Điển muốn vinh danh một đại diện - một đại diện có
sự thuần khiết và sức mạnh lạ thường và cứng cỏi -
của một quan điểm thơ ca. Của thơ ca với tư cách là một
phản hồi đối với cuộc sống, một lối sống, của nghệ
thuật ngôn từ với tư cách là tư tưởng và trách nhiệm."
. Quỳnh Chi
:
Một hôm
Y ra tưới cây, gặp bà, liền bị nhắc:
-Năm nào tôi
cũng thấy cây hoa huệ này nở mà sao không thấy bà hái vào
cắm trong bình mà chưng cho đẹp, cứ để nở ngoài vườn
rồi tàn mất, uổng vậy !
-Vâng, tại tôi
bận quá nên đôi khi quên khuấy.
Y nói thác như
thế và hôm đó đành phải lấy kéo ra vườn cắt hoa huệ.
. Phạm Vũ
Thịnh :
Hai
môn sinh tấn kiếm tre đối mặt nhau. Ðã nửa giờ trôi qua
từ lúc khởi đầu giao đấu. Ðó là bằng chứng rõ ràng
rằng tài nghệ hai người khó phân định ai hơn ai.
Ngoài họ ra, còn có hai người
đang im lặng theo dõi trận đấu. Một người là chủ võ đường,
Amagai Shingozaemon, người kia là quan Gia lão thứ hai, Ezawa Shima.
Shima trang phục xuề xoà, có vẻ muốn tránh người ta chú
ý. Ngoài ra, chẳng còn ai khác cả.
Gần hoàng hôn, bên trong võ đường
trống hoang. Ánh nắng chiếu qua khung cửa sổ cao trên tường,
soi sáng những dòng mồ hôi chảy ròng ròng từ mặt hai đấu
thủ xuống cổ. Ánh nắng nhợt nhạt báo hiệu trời sắp
tắt nắng.
Shima nhích đầu gối định nói
gì đấy đúng lúc có tiếng thét tấn công vang lớn làm rúng
động không khí võ đường. Hình dáng hai đấu thủ xáp trận
mãnh liệt, tiếng kiếm tre va chạm náo động chừng hai, ba
hiệp, rồi lại có tiếng thét tấn công dũng mãnh vang động.
Thân hình của người môn sinh nhỏ con hơn bay bật ra sau, ngã
đùng xuống sàn.
Đêm tối, mưa rơi.
-"Anh à, hôm nay em thấy ma
trên phố đấy!"
Vợ Yujiro là Onui vừa giúp
chồng thay áo vừa nói, mặt tái xanh, vừa nói vừa nuốt nước
miếng, có vẻ sợ hãi lắm.
-"Không phải em trông lầm
đâu. Rõ ràng lắm kia. Chứ ngay giữa ban ngày mà. Hình dạng
như là võ sĩ ấy!"
-"Làm gì có!"
Kimura Yujiro ngồi xuống trước
mâm cơm. Anh làm việc trong Huyện đường cai quản vùng Gojo
này.
-"Thật mà!"
Yujiro chỉ nghĩ là Onui đang
có bầu 6 tháng, không phải là tình trạng thân thể bình thường,
nên đã nhìn lầm gì đấy thôi.
Lúc tôi để ý thấy
gió bắt đầu thổi là buổi chiều chủ nhật. Chính xác là
lúc 2 giờ 7 phút chiều.
Lúc ấy, tôi như mọi khi -nghĩa
là chiều chủ nhật nào cũng thế- ngồi trước bàn ăn trong
bếp, vừa nghe nhạc vô hại vừa viết nhật ký cho cả tuần
trước. Mỗi ngày tôi ghi vắn tắt sự việc xảy ra vào sổ
tay, rồi đến chủ nhật mới viết lại thành câu văn đàng
hoàng.
Vừa mới viết xong phần của
3 ngày cho đến Thứ Ba, tôi chợt để ý đến tiếng gào thét
của gió điên cuồng thổi qua bên ngoài khung cửa sổ. Tôi
ngưng viết nhật ký, đậy nắp bút lại, ra hiên nhà thu góp
đồ giặt. Áo quần phơi trên dây cứ như là đuôi sao chổi
bị rứt sắp đứt đến nơi, nhảy múa loạn lên trong không,
phát ra những tiếng phần phật khô khan.
Có vẻ trong lúc tôi không
để ý, gió đã tăng cường độ dần lên. Bởi lúc sáng,
chính xác là lúc 10 giờ 18 phút, đem đồ giặt ra phơi ngoài
hiên thì hoàn toàn chẳng có chút gió nào cả. Chuyện này
thì tôi có trí nhớ chính xác mà vững chắc như nắp lò nung
quặng mỏ ấy. Bởi lúc ấy, tôi đã chợt nghĩ "ngày lặng
gió thế này thì chả cần phải kẹp lại làm gì".
. Trầm Thiên
Thu :
Chloe
bất ngờ gặp tôi ngoài đường, vừa ôm tôi vừa nói: "Lâu
quá không gặp. Lúc này bớt mập rồi ha!". Con gái nghe
vậy thì ai cũng thích như vừa thoát khỏi cơn bệnh hiểm
nghèo vậy. Rồi cô bạn hớn hở: "Nè, cậu có nhận được
thiệp cưới của mình không?". Tôi xởi lởi: "Có, cảm
ơn. Chúc mừng nhé!".
Chloe thích chơi số, cứ mua và
chờ trúng số mà chẳng thấy đâu. Michael và tôi vẫn nói
đùa về điều đó khi chúng tôi còn sống với nhau. Anh nói:
"Hãy
nói về những thứ đắt tiền. Có chắc là cô ấy gởi lầm
món gì cho chúng ta không?". Cả hai cùng cười và hôn nhau,
hứa với nhau là đám cưới của chúng tôi sẽ đơn giản
nhưng phải hơn hẳn sự lộng lẫy của Chloe. Tuy nhiên, từ
nay chẳng bao giờ có nhau nữa!
. Trịnh Thanh
Thủy :
Sự bê bối của các viện
dưỡng lão đã được che đậy một cách khéo léo trước
con mắt công luận nên có rất nhiều trường hợp các cụ
bị bỏ bê và ngược đãi mà không ai biết. Tất cả mọi
việc xảy ra đều do việc thiếu tài trợ, thiếu công quỹ,
thiếu nhân lực, thiếu huấn luyện và thiếu sự thanh tra
thường trực.
Có những thân nhân của người
bị ngược đãi báo cáo và than phiền về việc các cụ bị
ngược đãi với ban quản trị, đã bị làm khó dễ, bị trừng
phạt hay bị ngăn chặn khi vào thăm các cụ với lý do là
làm trở ngại điều hành của viện. Chính bản thân người
bị ngược đãi còn bị trả thù bằng nhiều cách thâm độc
mà người mất bản năng tự vệ không sao chống trả được.
Như trường hợp một cụ bà sợ đòn thù mà không dám báo
cáo gì, dù thấy người chồng yêu quý của mình bị bạc
đãi vì các cụ chẳng có con cái để tỉ tê kể lể, hay
có cũng chẳng bao giờ chúng màng viếng thăm.
Nó chạy đến gần
ly, thò miệng cắn vào thành ly để kéo về phía
mình. Cái ly nhẹ nhưng to bằng nửa thân hình con sóc khiến
con vật phải dùng hai tay quặp lấy và nâng lên như người
ta đang nâng một chậu đất hình cái ly vậy. Nó lôi cái ly
lên cây đại thụ gần đó bằng tất cả những động tác
vừa kể. Con vật vừa lên đến cái chảng ba rộng rãi, tôi
nghe có tiếng ly rơi xuống đất. Sóc nhà ta chạy xuống đất,
chui vào ly liếm láp tí ti, rồi lôi ly lên cây. Tôi đứng
im không nhúc nhích, quan sát con vật vì sợ nó thấy động
mà bỏ chạy hoặc sẽ ngưng công việc ấy. Con vật nhặt
ly và lên, xuống cái cây ít nhất là 5, 6 lần. Tôi không biết
là trước đó, nó đã thất bại bao nhiêu lần. Cái lạ là
mỗi lần lên tới chảng ba cây rậm rạp ấy, ly lại rơi.
. Minh
Hương :
Bà
Hiền cúi xuống đặt tay vào quai chiếc va li đã được khóa
cẩn thận. Bằng động tác dứt khoát, bà nhấc hẳn chiếc
va li lên khỏi nền nhà, nhưng rồi lại đặt vào chỗ cũ.
Có một sức nặng nào đó níu kéo, bà không thể đứng thẳng
lên được. Bà ngồi gục xuống ghế... Thế là từ sáng đến
giờ đã ba lần rồi, bà vẫn không thể nào bước chân ra
khỏi nhà.
Trong nhà im lặng, trống vắng
quá. Trên gác, chồng bà vẫn đang mải miết với những bức
họa đủ màu sắc.
. Hồ Thụy
Mỹ Hạnh :
Người
ấy đã xa, xa lắm khỏi thềm đời tôi, mà tôi không hề
biết được nguyên nhân.
Khi hoàng
hôn rũ xuống, gió trong vườn mơn man thổi bồng tóc rối,
khi những cánh hoa e ấp chợt vỡ nát trong tay tôi lúc nào
không hay trong những buổi đợi chờ.
Và cứ thế,
thời gian lặng lẽ. Khi những cơn mưa mùa thu đã qua. Sương
mù làm lạnh ngắt không gian mùa đông. Cái gì đẹp người
ta lại chẳng nhớ nhiều, kỷ niệm của mình, tôi cho là quá
đẹp nên tôi cứ mãi buồn và ôm ấp giữ gìn nó trong suốt
mười năm. Ngỡ sẽ mãi mãi theo tôi suốt dọc đường dài
năm tháng, nếu không có cái ngày gặp lại.
Người ấy
và tôi, ngỡ ngàng nhìn nhau, giữa ranh giới là một mối tình
đã vỡ. Giọt nước mắt mừng, tủi không thể nào ngăn lại.
Môi nào tíu tít mỗi lần gặp gỡ ngày xưa, bây giờ bỗng
im lặng không thốt được lời :
- Quỳnh!
.
Quý Thể (truyện ngắn):
Số
phận kết hợp hắn với tôi lại đúng một trăm ngày. Trong
thời gian đó bao nhiêu điều kỳ lạ đã xảy ra, điều kỳ
lạ hơn cả là cuộc trả thù mà tôi hay bất cứ ai cũng không
thể tưởng tượng nổi. Năm đó, vào giữa hè, mùa thi đã
qua, chúng tôi, những cô cậu sinh viên hăm hở tham gia biểu
tình chống chế độ Ngô Đình Diệm, thật ra cũng chẳng phải
lý tưởng gì, biểu tình chỉ là một trò chơi, trai gái được
dịp gặp nhau thú vị lắm. Tôi và cô sinh viên y khoa năm thứ
hai tên Huyền Trân được phân công cầm biểu ngữ đi đầu,
khi cảnh sát dã chiến của ông Diệm tới đàn áp, cô sinh
viên ném cho tôi tấm biểu ngữ, tôi không chạy kịp nên bị
tóm cổ. Ra toà, tôi lãnh cái án một trăm ngày, là ba tháng
mười ngày đúng thời hạn các bà sinh nở cúng phong long.
Còn hắn tên là Đinh Thìn, ra toà lãnh cái án hình sự ba năm.
Buổi chiều hôm đó chúng
tôi bị nhốt trong xe bít bùng chở vào khám Chí Hoà. Thời
đó tù nhiều quá nên người ta nhốt chung tù chính trị với
thường phạm vào một chỗ.
Ngôn
ngữ:
. Võ Hưng
Thanh :
Tôi không phải là nhà ngôn ngữ học đúng nghĩa,
tức không phải chuyên ngành. Nhưng tôi lâu lâu có làm thơ
và thỉnh thoảng hay viết lách. Chính cái "lâu lâu" và "thỉnh
thoảng" đó khiến tôi vẫn thường khám phá ra cái đẹp của
chữ viết, của ngôn ngữ, mà cụ thể ở đây là ngôn ngữ
tiếng Việt. Cho nên, tôi chợt nghĩ nhà ngôn ngữ học không
phải chỉ thuần túy chuyên môn, mà cũng có thể là con người
tài tử, tức bất kỳ ai yêu cái đẹp của ngôn ngữ, cảm
thức, hay "khui" ra được cái đẹp về ngôn ngữ, ở trong
những trường hợp nào đó. Đó cũng chính là lý do của bài
viết này, bài viết phát sinh ra trong một nỗi bức xúc nhất
định, nỗi bức xúc chẳng thể nào chịu đựng được khi
ngày hôm nay "bị" đọc thấy trên tờ Tuổi trẻ (10/8/11) bài
viết "F,J,W,Z không thể nằm ngoài bản chữ cái (tiếng Việt)".
Chắc mọi người quan tâm đều đã đọc đủ hết chi tiết
của bài viết nên không cần phải nói thêm. Tôi chỉ muốn
nói đến vài khía cạnh riêng biệt khác.
. Nguyễn
Hy Vọng :
Tôi
muốn nói đến cái nợ ba đời ta gánh chịu khi Tàu nó đô
hộ mình suốt ngàn năm. Phải hiểu là, dân Tàu có đến sáu
tiếng nói khác nhau mà đến nay vẫn còn khác nhau !
Mà nếu
không có cái chữ viết nó ràng buộc lại thì kể như đi
đong. Mỗi tiếng một ngã.. vì vậy mà tiếng nói nào trong
thế giới cũng có chữ đánh vần kiểu a b c trừ ra tiếng
Tàu duy nhất hiện nay phải vừa vẽ vừa viết [sic] chấp
nhận khoảng 7500 cái hình vẽ là 7500 cái âm [sic] nếu không
thế thì nước Tàu sẽ tan rã rất nhanh không phải là một
nước nữa, đó là lý do tại sao Tàu không dám viết theo a
b c . Cái chữ Tàu thật ra là cái nợ ba đời cho chúng nó
« a mill stone around their neck » theo lời của các học giả
Tây phương nhận xét !
.
Nguyễn Vĩnh Tráng :
Nhìn
hình bốn cái bánh Su-Sê với hai chữ « Phu Thê » làm tôi
ngạc nhiên, vì chưa từng nghe thấy ba chữ « bánh phu-thê
».
Trước năm
1962, lúc tôi còn ở Việt Nam, còn ở Huế, tôi hân hạnh có
liên hệ bà con với các Cụ Ưng-Bình, Ưng-Trình, Tôn-Thất
Quảng, Hồ-Đắc Hàm… Các Cụ là những nhân sĩ thời bấy
giờ ở Huế và cũng là những nhà văn học uyên thâm. Vả
chăng, người Huế, nói chung, hay có tánh « đài các ». Tôi
được gặp các Cụ trong những dịp đi hầu thăm, đi dâng
tuổi đầu năm, hay trong những dịp đi hầu kỵ. Thế mà tôi
chưa bao giờ nghe được ba chữ « bánh Phu-Thê », ở tại
chính gia đình tôi, ở ngoài thành phố, ở tại nhà của các
Cụ, hay ở tại các nhà thờ họ… Cũng như đã trình trên,
người Huế phần đông, thường có tánh « đài các », hễ
thấy một danh từ nào đẹp, âm thanh hay thì hay dùng đến,
như trái Măng-Cụt (âm do tiếng Pháp của chữ mangoustan), thì
người Huế gọi là trái Giáng-Châu (絳珠)…,
vậy nếu hai chữ « Su-Sê » là do hai chữ « Phu-Thê » mà
ra, thì có lẽ tôi đã nghe qua…
Văn
học :
. Nguyễn
Phú Yên :
Trong
văn chương, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ nét nhất ở
Pháp, nơi mà nền văn học phát triển rực rỡ, hay nói như
Maxime Gorki là "nền văn học chủ đạo của châu Âu". Chúng
ta biết trong sự phát triển nội tại của văn học có tính
kế thừa, mỗi dòng văn học đều có quan hệ nhiều mặt
với dòng văn học đi trước nó, có thể nó phát triển tính
chất hoặc có thể phản ứng lại với cái đi trước. Chủ
nghĩa lãng mạn, chống lại chủ nghĩa cổ điển, ra đời
từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, ban đầu là chủ
nghĩa lãng mạn tiêu cực và sau đó là chủ nghĩa lãng mạn
tích cực, đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với các nhà
văn hiện thực sau này nữa. Thậm chí một số nhà văn hiện
thực như Prospée Mérimé và Honoré de Balzac ở thời kỳ sáng
tác đầu tiên cũng là những nhà lãng mạn chủ nghĩa. Hoặc
là Geoge Sand và Victor Hugo từ chủ nghĩa lãng mạn tích cực
cũng tiến gần đến với chủ nghĩa hiện thực phê phán.
Điều đó cho thấy, và cả sau này trong sự đấu tranh phức
tạp của các trào lưu thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực
phê phán tuy chống chủ nghĩa lãng mạn vẫn kế thừa những
thành tựu của chủ nghĩa lãng mạn, đặc biệt của chủ
nghĩa lãng mạn tích cực.
. Thu
Tứ :
Thế
kỷ 18, nước Việt Nam sinh mấy nữ sĩ xuất sắc. Ðầu thế
kỷ có Ðoàn Thị Ðiểm, về cuối thế kỷ có Bà Huyện Thanh
Quan và Hồ Xuân Hương. Mỗi người văn hay mỗi vẻ.
Thi phẩm để lại thực chắn
chắn là của Bà Huyện Thanh Quan chỉ có bốn bài.(1) Tuy ít,
những bài thơ cổ điển ấy vẫn vẽ ra được một phong
cách văn chương riêng biệt. Về nội dung, người đọc gặp
cả tình chung lẫn tình riêng, tình nào cũng thấm thía mà
kín đáo.
Thế kỷ 21, thử nhìn kỹ
lại mấy vần xưa...
Cao
Bá Quát có tài văn chương. Tài ấy được người khác trầm
trồ: "văn như Siêu Quát...", "thần Siêu thánh Quát". Tài ấy
cũng được chính Cao Bá Quát xác nhận: trong thơ ông xưng
mình là "tài tử".
Cao Bá Quát có tài kinh bang
tế thế hay không? Rõ ràng ông nghĩ là có. Trong thơ ông xưng
mình là "anh hùng", "hào kiệt". Rồi đến khi nổi loạn, ông
chọn làm "quốc sư". Dĩ nhiên không thể lấy thành bại mà
luận anh hùng, nhưng thiết tưởng trước sự thất bại quá
nhanh chóng của giặc Châu Chấu ai nấy đều phải phân vân...
Hễ nghĩ mình tài giỏi tột
bực, thì dễ sinh kiêu. Cái tiếng "cao kỳ, ngạo mạn"(1) của
Cao Bá Quát nó đã như chuông! Có lẽ vì cao kỳ mà ông hay
gặp nạn, rồi có lẽ vì hay gặp nạn mà ông càng thêm cao
kỳ!
Người dù sao cát bụi lâu
rồi. Chỉ thơ ở lại. Chín bài, cùng một giọng "cao kỳ"
độc đáo. Làm thơ hát nói, mấy ai làm được bằng ông.
Võ
Phiến bảo thơ Nguyễn Bắc Sơn "ngông nghênh ngang tàng".(1)
Ngông khác ngang. Cùng là bất
cần đời, nhưng ngông như "ngồng" cao lên, không đụng chạm
tới xung quanh, còn ngang lại như "chang bang" ra, đụng khắp
xung quanh.
Thiết nghĩ thơ Nguyễn Bắc
Sơn ngông nhiều hơn ngang.
Dù sao, "thơ ấy quả hay".
Sau đây là một số bài tiêu biểu, không sắp xếp theo một
thứ tự cố ý nào.
Hẳn Phạm Thiên Thư
không phải là nhà sư đầu tiên làm thơ tình. Nhưng ông là
nhà sư làm thơ tình nổi tiếng đầu tiên. Tiếng nổi đáng
lắm, vì thơ vừa hay vừa lạ.
Thơ tình PTT có gì lạ? - Nó
nhẹ như khói, lãng đãng như sương, tuy nó chứa những cảm
xúc yêu đương thiết tha không kém lòng yêu của bất cứ
ai.
Lời tình tự của tu sĩ nó
"khói sương" đến nỗi tưởng ta có thể nói nó đã thêm
được một "kích thước" cho thơ tình. Chẳng phải khi lần
đầu lời ấy khe khẽ cất lên, ta biết ngay mình đang nghe
cái gì đó chưa nghe? Và chẳng phải sau đó ta dễ dàng tưởng
tượng nếu lời ấy bỗng dưng biến mất, ta sẽ ngẩn ngơ,
thấy như cả không gian thơ lãng mạn bỗng hẹp mất đi một
chiều?
. Nguyễn
Bảo Hưng :
Tôi
không hề quen biết Nguyễn Tất Nhiên và cũng chẳng một lần
được tiếp xúc với anh. Lần đầu tôi được biết đến
tên anh là khi quanh tôi bỗng vang vang một số câu ca chẳng
mấy chốc bỗng trở nên quen thuộc : " Đưa em về dưới
mưa, nói năng chi cũng thừa... " hoặc " Thà như giọt
mưa vỡ trên tương đá!..., Có còn hơn không, có còn hơn không...
". Đó là mấy câu thơ phổ nhạc, lời lẽ dung dị nhưng
hình ảnh độc đáo, vần điệu tự nhiên lôi cuốn, dễ thấm
sâu tâm thức người nghe. Hồi đó, đang mang tâm sự buồn
vì mới phải khoác bộ đồ lính và bị chôn chân tại một
nơi đèo heo hút gió, những lúc buồn tình tôi hay buột miệng
nhâm nhi mấy câu thi nhạc này. ...
Thoat đọc cái tựa "Người
khách lạ", tôi nghĩ ngay tới nhân vật Meursault và
cuốn "L'Etranger" (1942) của A.Camus. Nhưng chỉ sau mấy
dòng đầu, tôi đã ngỡ ngàng vì không gặp mấy câu văn để
đời nói lên thái độ dửng dưng, hầu như vô cảm của một
đứa con có bà mẹ mới chết (mà tôi đã thuộc nằm lòng)
: "Aujourd'hui maman est morte. Ou peut-être hier, je ne sais pas."(Hôm
nay mẹ mất. Mà cũng có thể là hôm qua, tôi không biết nữa).
Rồi,
chỉ cần đọc thêm không đầy nửa trang, tôi liền nhận
ra đây là bản dịch truyện ngắn mang tựa đề " L'hôte "
trong tập truyện " L'Exil et le Royaume " (1957). Tiếp tục đọc
tới dòng cuối tôi mới biết người dịch đã không dựa
trên nguyên tác, mà dịch lại theo một văn bản đã được
dịch từ tiếng Pháp ra tiếng Anh....
. Trần Văn
Nam :
Trong tác phẩm lục
bát trường thiên như Truyện Kiều, ta có thể tìm được
rải rác khắp các trang những câu thơ lấp lánh, vì vậy ta
không hề thấy lối cấu trúc tập trung xuống hai câu thơ
cuối như ở những bài lục bát ngắn. Hầu hết các thi sĩ
làm thơ lục bát ngắn đều áp dụng diễn tiến của kết
cấu này. Khi thì hai câu cuối là một hình thức nào đó của
phép tu từ, khi thì hai câu cuối cho ta một ấn tượng bàng
bạc xa xôi, hoặc một âm hưởng mịt mờ vang vọng. Ta lấy
ví dụ trong thơ lục bát Nguyễn Đức Sơn:
Tôi về lắng cả buổi
chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều
trong kinh
Còn một mình, hỏi một
mình
Có chăng hồn với dáng
hình là hai
Từng trưa nằm nghỉ đất
dài
Phiêu phiêu nhẹ cái hình
hài bay lên
(Mang Mang)
Hai câu thơ cuối đạt chất
thơ dù không nhờ phép tu từ nào. ...
. Thế
Dũng :
Từ tập truyện dài
"Cún con đã lớn" do Nhà Xuất bản Tổng hợp Phú Khánh xuất
bản năm 1986 và Nhà Xuất bản Kim Đồng tái bản lần 1 năm
1997, tái bản lần 2 năm 1998 với lượng phát hành
hàng chục ngàn cuốn, đến nay Nhà văn Nguyễn Đức Linh đã
có khoảng 10 đầu sách viết cho thiếu nhi. Trò chuyện với
phóng viên Văn nghệ Trẻ, Nhà văn Nguyễn Đức
Linh tâm sự "Với tôi, viết cho các em thiếu nhi vẫn
mãi là niềm đam mê...".
. Phạm Thảo
Nguyên :
Sứ đoàn Việt Nam tới hồ
Động Đình, đậu thuyền trên sông Tương ở Tương Âm, Hồ
Nam, vào một đêm trăng sáng mùa thu, lá phong đỏ tràn ngập
khắp nơi, phong cảnh tuyệt đẹp. Nguyễn Du ngắm trăng trên
thuyền, và mơ về Khuất Nguyên*. Thương nỗi lòng đau khổ
của người bị đi đầy ngày xưa, đau khổ tới nỗi đã
phải tự trầm nơi đây.
Hãy đọc kỹ bài thơ, hãy lắng
nghe những rung động của người xưa, của "một thời vang
bóng", để cảm cái đẹp, rất đẹp cùa hồn thơ cổ: Không
ước lệ mà sâu thẳm và rất chân thành.
. Phanxipăng
:
Kìa
ai chín suối xương không nát;
Có lẽ ngàn
thu tiếng vẫn còn.
Câu đối nổi
tiếng ấy bấy lâu nay được đông người thuộc và bảo
rằng của Nguyễn Khuyến.
Kỳ thực, tác
giả là Đoàn Triển. Nguyên tác có khác mấy từ.
Giáo
dục :
. Nguyễn
Thị Chân Quỳnh :
. Nguyễn
Thị Chân Quỳnh (bản chữ Pháp):
. Phạm Vân
Nga dịch ra Anh ngữ:
. E. Aymonier
( Lại Như Bằng dịch ):
Chữ
"quốc ngữ" hay chữ Việt viết với mẫu tự La Tinh đã được
các giáo sĩ truyền giáo sáng tạo ra để dùng như một công
cụ truyền đạo. Vào cuối thế kỷ thứ 19, ngay từ khi bắt
đầu cai trị các vùng mới chiếm đóng, nhà cầm quyền Pháp
tại Việt Nam muốn dùng thứ chữ này thay thế chữ nôm, làm
phương tiện giao lưu với dân bản xứ. Thời đó, mọi người
đều công nhận thứ chữ này là một công cụ thuận lợi
để dạy tiếng Việt cho các viên chức cai trị Pháp. Nhưng
việc phổ biến chữ "quốc ngữ" cho toàn xứ , xem chữ quốc
ngữ là chữ chính thức trong mọi công văn hành chính, đã
không được sự đồng thuận nhất trí của giới thẩm quyền
Pháp. Cuộc tranh luận sảy ra rất sôi nổi.
Sau đây
là quan điểm của Aymonier , cũng là đường hướng tiêu biểu
của phe chống đối chủ trương phổ biến chữ "quốc ngữ".
Bài phát
biểu của Aymonier đặt ra hai vấn đề: 1. Khả năng phát triển
của tiếng Việt. 2. Vì quyền lợi lâu dài của nước Pháp,
nên phổ biến "chữ quốc ngữ" hay nên "Pháp hóa" người Việt
?
. Phanxipăng
:
Lê Văn
Thiêm là nhân vật quá hân hạnh được gắn bó với nhiều
mốc "đầu tiên": người Việt Nam đầu tiên nhận bằng tiến
sĩ toán, người đầu tiên khai sinh toán học đương đại
Việt Nam, Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học Việt
Nam,
Chủ tịch
đầu tiên của Hội Toán học Việt Nam, Hiệu trưởng đầu
tiên của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, v.v.
. Trần
Viết Ngạc:
Theo
kiến thức hạn hẹp của chúng tôi, quốc kỳ đầu tiên của
nước ta được quy định bằng văn bản còn lưu lại đến
nay là vào năm Nhâm Tý, 1912.
Trong cuốn tự truyện nhan
đề là "Tự Phán" (1), viết năm 1929 tại Bến Ngự, Huế,
Phan Bội Châu viết:
"Xưa nước ta chỉ có cờ
Hoàng Đế mà không có cờ nước cũng là một việc đáng
quái gở. Hội Việt Nam Quang Phục mới chế định ra quốc
kỳ bằng cờ ngũ tinh, dạng huy thức dùng bằng cách
ngũ
tinh liên châu" (2) (TVN nhấn mạnh).
Phan Bội Châu giải thích:
"Nhân vì nước ta có năm
địa bộ, sở dĩ dùng thức nầy để tỏ rõ cái ý năm đại
bộ liên lạc làm một.
Sắc cờ dùng hoàng địa,
hồng tinh làm cờ nước; hồng địa bạch tinh làm cờ quân.
Hoàng là để biểu thị nhân chủng ta. Hồng là biểu thị
sắc nước ta: Nam phương thuộc hỏa, hỏa sắc hồng.
Quân kỳ sở dĩ dùng bạch
tinh là tỏ rõ mục đích quân, cốt đánh đổ chính phủ người
(da) trắng" (2).
. Bùi Thụy
Đào Nguyên :
Trần
Văn Thành (? [1] - 1873) còn được gọi là
Trần Vạn
Thành (theo triều Nguyễn) [2] , Quản Cơ Thành (khi
làm Chánh Quản cơ), Đức Cố Quản (tín đồ đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương gọi tôn). Ông là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa
Bảy Thưa (1867-1873) trong lịch sử Việt Nam.
Cuộc khởi nghĩa diễn ra trong
bối cảnh triều đình nhà Nguyễn đã ký hòa ước (Hòa ước
Nhâm Tuất 1862) với thực dân Pháp, và các cuộc khởi nghĩa
tại Nam Kỳ lúc bấy giờ bị dập tắt hay bị suy yếu. Mặc
dù vậy, khởi nghĩa Bảy Thưa vẫn hình thành và kéo dài khá
lâu (6 năm) ở đồng Láng Linh (Châu Phú), và đã gây tiếng
vang trong và ngoài tỉnh.
Đây là cuộc khởi nghĩa mang
đậm màu sắc tôn giáo vì thủ lĩnh Thành (là một trong số
đại đệ tử của Phật Thầy Tây An) và đông đảo nghĩa
quân đều là người theo đạo Lành (còn có tên là đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương).
. Lê
Trương :
. Thảo Đường
Cư Sĩ Trần Văn Hải Minh :
. Võ Công
Liêm:
Trong
số những tác phẩm của Jean-Paul Sartre* để lại; Hiện Hữu
Và Hư Không cho ra đời 1953 được xem là một luận đề
(essay) quan trọng nhất đối với thuyết hiện sinh ( existentialism)
của Sartre mà được ông chủ xướng như một lý luận hiện
thể và đích thực về tư tưởng nhân bản. Một tiến trình
về tư duy đáng kể nhất để giảm thiểu sự hiện diện
của tồn lưu và đồng loạt xuất hiện những học thuyết
mà điều ấy được coi như một xác quyết minh bạch cho bộ
phận triết học của ông. Đó là cứu cánh vượt qua một
cách chắc chắn giữa vô số dạng thức của những yếu tố
như sự kết hợp của tồn lưu trong vũ trụ, cụ thể nhất
về mặt tinh thần để phân chia giữa tốt và xấu như một
ngăn cách về trạng thái nghi ngờ của hiện hữu. Chính cái
lưỡng tính giữa hai bề mặt đó tạo nên sự bối rối về
triết học và được thay vào đó một học thuyết triết
học khác, hầu tìm ra một giải pháp thích hợp hơn của khoa
hiện tượng dù là những đơn phương chính yếu nào đi nữa.
Thơ
- Họa
.
Hoàng Quý:
- Những
ngấn bùn trên mũi chân Tổ quốc
. Từ Sâm:
-
Ghi
chép bên đường - Lát
cắt lịch sử - Ngọn
gió tự do - Bật - tắt
TV
. Trần Xuân
An: - Chùm
thơ 11 bài về Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông
. Minh Hương
: - Nỗi
nhớ - Vườn xưa
- Bến bờ
. PS
: - Bến
lòng - Biển
và ta - Đi
tìm - Suy ngẫm
- Chiều
. Mai Siêu
Phong : - Những
cánh cò bay mùi xác chết
. Võ Công
Liêm : - Hư
ảo - Tequila
. Bùi Thụy
Đào Nguyên : - Tuổi
xuân
. Bảo Quyên
: - Dáng
Chiều Xưa
. Tuyền
Linh: - Ngay
Cả Khi Nhắm Mắt
. Phanxipăng
: - Trắng
- Một thoáng Long An
. Hồ Thụy
Mỹ Hạnh: -Điệp
Khúc Trong Đêm - Em
Chỉ Là... - Giai
Điệu Mùa Thu - Lá
Thư Không Gửi...
. Cát Hoàng:
- Qua đèo Hải Vân
- Trăng và
bão Durian - Bấc
nến - Xin
lổi - Với
Trà Vinh - Bông
Rong
. Cao Quảng
Văn : - Qua
Kinh Bắc - Bềnh
bồng Hạ Long - Chim
én gọi người - Khi
không còn đôi mươi - Thơ
lên lộc biếc - Dòng
thơ mây trắng - Hương
tháng Giêng - Một
sớm
. Tạ Hùng
Việt : - Những
mảnh mùa ở lại - Mạch
mùa phía bão - Cỏ
đắng - Lá đa miền
cũ - Lời
nguyện mong manh - Ngày
quên - Bến đợi
- Sương lạnh đầu
đông - Hoang nguyên
- Qua nơi cửa Phật
- Hồn lá
. Phạm Hồng
Ân : - Những
Tiếng Hát Bão Giông - Mùa
xuân ra biển ngó trời - Buồn
không đề - Trăng
- Thổ mộ - Tình
khúc lỡ - Bẻ
gãy gươm nhìn lịch sử quay
. Tâm Minh
Ngô Tằng Giao chuyển ngữ : - Hoa
sen / Lotus (Rabindranath Tagore) - Linh
hồn Tường Đá / The Spirit Of The Wall (Judy Gorman King)
|