Trong nhiều thế kỷ, con người đã phát minh ra vô số những sản phẩm trong nỗ lực nhằm cải thiện vẻ ngoài của cơ thể, che giấu mùi hôi, ngăn chặn sự phân hủy, che giấu những nỗi đau về thể chất cũng như tinh thần. Tất cả đều nhằm tạo ra một ảo tưởng về sự đẹp đẽ, hạnh phúc và thường hằng. Trên thị trường có đủ các thứ đồ trang sức, quần áo thời trang, thuốc nhuộm tóc, đồ trang điểm, kem dưỡng da, thuốc khử mùi hôi, nước hoa, rượu, ma túy... và nhiều thứ khác nữa.
For centuries, humans have devised countless products in an attempt to improve the appearance of the body, disguise its odor, halt its decay, mask its physical and mental pain—all to create an illusion of beauty, happiness, and constancy. Markets flourish selling jewelry, fashionable clothing, hair dyes, makeup, anti- wrinkle creams, deodorants, perfumes, alcohol, drugs, and more.
Sự thật về thân thể vật chất này đã bị chôn sâu trong vô thức và sản phẩm do thân này tạo ra chỉ còn là những nắm đất phủ lên quan tài. Đức Phật đã nêu ra sự thật về thân thể vật chất này. Ngài nhận biết qua kinh nghiệm thân chứng sự phân hủy trong từng khoảnh khắc nối tiếp nhau của cơ thể và sự già cỗi nói chung dẫn đến cái chết. Và ngài khám phá ra sự thật về vô thường (anicca) trong thân thể chính là chìa khóa dẫn đến Niết-bàn (nibbāna).
The truth of the material body has been buried deep in the unconscious mind, and its products are the soil that covers the casket. The Buddha unearthed the truth of material form. He understood experientially its moment-to-moment decay and the overall withering that leads to death, and discovered that the truth of anicca within the body was the key to nibbāna.
Tất cả chúng ta đều có những manh mối dẫn đến sự thật này, nhưng luôn lẫn tránh nó. Bởi vì nó làm phơi bày một nỗi sợ hãi sâu sắc bao trùm của sự mất mát, gắn chặt cùng những tham luyến mạnh mẽ của ta, với nhận thức sai lầm về một thân thể thường tồn là trú xứ của bản ngã vĩnh hằng.
We all have inklings of this truth but hide from it, because it exposes a deeply pervasive fear of loss entangled with our strong attachment to the mistaken perception of a permanent body housing an eternal “I.”
Thiền tập Vipassana quán chiếu bản chất thực sự của thân tâm với tính chất thay đổi không ngừng của nó - sự vô thường. Phát triển sự bình tâm đối với thực tại thân tâm này chính là phương tiện dứt trừ sự bám luyến với thân tâm và đưa ta đến giải thoát.
Vipassana meditation brings the mind-body’s true nature into view, with its incessant changing quality—anicca. Developing equanimity towards the reality of the mind-body is what breaks down our attachment to it and leads us to liberation.
Thời Phật còn tại thế, Ambapālī là một kỹ nữ nổi tiếng xinh đẹp tuyệt trần. Bà có một người con trai, về sau trở thành một bậc trưởng lão nổi bật trong Tăng đoàn của đức Phật. Một hôm, bà được nghe người con trai thuyết pháp và xúc động vì chân lý trong bài giảng ấy nên từ bỏ đời sống thế tục để xuất gia làm một vị tỳ-kheo ni. Thông qua việc quán chiếu sự hư hoại của thân thể vốn đã từng một thời xinh đẹp của mình, bà nhận hiểu được lẽ vô thường đến mức độ rốt ráo và chứng quả A-la-hán.
At the time of the Buddha, Ambapālī was an exquisitely beautiful and famous courtesan. She had a son who became an eminent elder in the Buddha’s monastic order. One day she heard her son give a discourse on Dhamma and was inspired by its truth to renounce the world and ordain as a bhikkhunī. Through observation of the decay of her once-beautiful body, she understood the law of impermanence to its full extent and became an arahant.
Dưới đây là một số vần kệ được chọn lọc từ bài kệ của bà, mô tả những thay đổi làm chuyển biến thân thể khi tuổi già.
This selection of her verses describes the changes that transform the body in old age.
252. Mái tóc xưa đen nhánh,
Như màu đen ong mật,
Mỗi sợi đều uốn cong.
Giờ đây do tuổi già,
Đã trở thành thô xấu,
Như những sợi chỉ gai.
Hoàn toàn đúng như lời,
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật.
My hair was black,
the color of bees,
each hair ending in a curl.
Now, on account of old age,
they have become like fibers of hemp.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
253. Bao phủ đầy hoa thơm,
Ôi mái đầu thơm ngát,
Như hộp chứa hương thơm.
Giờ đây do tuổi già,
Hôi hám như lông chó.
Hoàn toàn đúng như lời,
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật.
Covered with flowers,
my head was fragrant
like a casket of delicate scent.
Now, on account of old age,
it smells like the fur of a dog.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
256. Lông mày xưa xinh đẹp,
Cong vút như vầng trăng,
Được họa sĩ khéo vẽ.
Giờ đây do tuổi già,
Rũ xuống xếp thành hàng,
Trên vầng trán nhăn nheo.
Hoàn toàn đúng như lời,
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật.
Formerly my eyebrows were beautiful,
like crescents well painted by an artist’s hand.
Now, on account of old age,
they droop down, lined by wrinkles.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
257. Sáng đẹp như ngọc quý,
Mắt xanh thẫm vuốt dài.
Giờ đây do tuổi già,
Vẻ đẹp đã biến mất.
Hoàn toàn đúng như lời,
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật.
Brilliant and beautiful like jewels,
my eyes were dark blue
and long in shape.
Now, hit hard by old age,
their beauty has utterly vanished.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
260. Hàm răng trước xinh đẹp,
Trắng nõn như búp non.
Giờ đây do tuổi già,
Vàng ố và gãy rụng.
Hoàn toàn đúng như lời,
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật.
Formerly my teeth looked beautiful,
the color of plantain buds.
Now, on account of old age,
they are broken and yellow.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
265. Ngực căng tròn xinh đẹp,
Săn chắc và nhô cao.
Giờ đây đã trệ xuống,
Treo như túi nước rỗng.
Hoàn toàn đúng như lời,
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật.
Formerly my two breasts were beautiful,
swollen, round, compact, and high.
Now they hang down and sag,
like a pair of empty water bags.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
266. Thân thể trước xinh đẹp,
Như vàng lá đánh bóng,
Giờ đây đầy nhăn nheo.
Hoàn toàn đúng như lời,
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật.
Formerly my body was beautiful,
like a well-polished sheet of gold.
Now it is all covered with wrinkles.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
269. Đôi bàn chân xinh đẹp,
Như bông gòn trắng mịn.
Giờ đây do tuổi già,
Nứt nẻ và nhăn nheo.
Hoàn toàn đúng như lời
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật
Formerly my feet looked beautiful,
as if made of cotton wool.
Now, because of old age,
they are cracked and wrinkled all over.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
270. Thân này là như thế,
Nay già suy hư hoại,
Chất chứa bao nỗi khổ.
Như căn nhà cũ kỹ,
Vôi vữa đều tróc rơi.
Hoàn toàn đúng như lời,
Đấng Tuyên Thuyết Sự Thật.
—Khuddaka Nikāya, Therīgāthā 13. 252–270,
(Tiểu Bộ Kinh, Trưởng Lão Ni Kệ, 13. 252 -270)
Amadeo Solé-Leris dịch sang Anh ngữ
Such is this body,
now decrepit,
the abode of a jumble of suffering.
It is nothing but an aged house
from which the plaster has fallen.
Not otherwise is the word of the Speaker of Truth.
—Therīgāthā 13.252–270, Amadeo Solé-Leris, translator
Dưới đây là bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu:
252. Ðen như sắc con ong,
Tóc dài ta khéo uốn,
Nay biến đổi vì già,
Như vải gai, vỏ cây,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
253. Thơm như hộp ướp hương,
Ðầu ta đầy những hoa,
Nay biến đổi vì già,
Hôi như lông con thỏ,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
256. Trước lông mày của ta,
Chói sáng khéo tô vẽ,
Nay biến đổi vì già,
Nhăn nheo, rơi suy sụp,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
257. Mắt ta xanh và dài,
Sáng đẹp như châu báu,
Nay biến đổi vì già,
Hư hại không chói sáng,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
260. Trước răng ta sáng chói,
Như búp nụ chuối hoa,
Nay biến đổi vì già,
Bể gãy vàng như lúa,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
265. Trước vú ta sáng chói,
Căng thẳng và tròn đầy,
Nay biến đổi vì già,
Trống rỗng treo lủng lẳng,
Như da không có nước,
Trống không, không căng tròn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
266. Trước thân ta chói sáng,
Như giáp vàng đánh bóng,
Nay biến đổi vì già,
Ðầy vết nhăn nhỏ xíu,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
269. Trước chân ta chói sáng,
Với lông mềm như bông,
Nay biến đổi vì già,
Nứt nẻ đầy đường nhăn,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
270. Thân này là như vậy,
Nay già chứa nhiều khổ,
Ngôi nhà đã cũ kỹ,
Vôi trét tường rơi xuống,
Ðúng như lời giảng dạy,
Của bậc nói sự thật.
Dvipādakoyaṃ asuci,
duggandho parihārati;
Nānākuṇapaparipūro,
vissavanto tato tato.
Etādisena kāyena,
yo maññe uṇṇametave;
Paraṃ vā avajāneyya
kimaññatra adassanāti.
- Sutta Nipata 1.207-208
Dvipādakoyaṃ asuci,
duggandho parihārati;
Nānākuṇapaparipūro,
vissavanto tato tato.
Etādisena kāyena,
yo maññe uṇṇametave;
Paraṃ vā avajāneyya kimaññatra adassanāti.
Thân nhơ nhớp, hai chân,
Mang đầy mùi hôi hám,
Với bao thứ bất tịnh,
Thải ra qua nhiều lối.
Với thân thể như thế,
Nếu người tự đề cao,
Hay khinh thường người khác,
Còn nguyên do nào khác,
Ngoài lẽ quá ngu si?
- Tiểu Bộ Kinh, Kinh Tập 1. Kệ số 207-208
This two-footed dirty body,
carrying about a bad odor and full of impurities that pour out from different places— with a body like this, if one thinks highly of oneself and looks down upon others, to what can this be due, except ignorance? —Sutta Nipata 1.207-208
Thân này với hai chân,
Bất tịnh và hôi thúi,
Ðầy xác chết, chảy nước,
Lại được giữ, nâng niu.
Với thân thể như vậy,
Ai lại nghĩ đề cao,
Hay khinh miệt kẻ khác,
Trừ kẻ không thấy gì.
- Bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu