Hộ niệm những người thân yêu lúc sắp chết
Supporting Loved Ones at the Time of Death
Câu hỏi của thiền sinh
Dường như mettā (tâm từ) có hiệu nghiệm, bởi vì trải nghiệm thông thường là khi ta gặp một con người thánh thiện, ta cảm thấy tốt hơn. Vậy khi ta chia sẻ mettā đến một người đã mất, liệu người đó có cảm thấy tốt hơn không? Cũng vậy, có người tin rằng khi cúng dường nhân danh người đã mất, ông bà hay bạn bè, việc lành đó sẽ lợi lạc cho họ. Niềm tin đó có phù hợp với Chánh pháp (Dhamma) không?
Student: It seems that mettā works, for it is a common experience that when we meet a saintly person we feel better. When we share mettā with someone who has died, does this person feel better? Also, there is a belief that, by giving dāna in the name of someone who has died, an ancestor or friend, it helps them. Does this belief accord with Dhamma?
Goenkaji trả lời
Khi quý vị nói tâm từ “có hiệu nghiệm”, điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là, nếu tâm quý vị thanh tịnh và đang thực hành mettā, đó là quý vị đang tạo ra những rung động của mettā. Những rung động này có thể đi đến bất cứ nơi đâu - đến cảnh giới này hay cảnh giới khác, đến một cõi thấp hơn hay cao hơn, bất cứ nơi đâu. Khi những rung động mettā của quý vị tiếp xúc với những người quý vị hướng đến, người ấy sẽ cảm thấy hạnh phúc vì đó là những rung động của Chánh pháp, của bình an, của hòa hợp.
Goenkaji: When you say that mettā “works,” what does this mean? It means that if your mind is pure and you are practicing mettā, you are generating vibrations of mettā. These vibrations can go anywhere—to this loka or that loka, to a lower field or a higher field, anywhere. When your mettā vibrations come in contact with the being to whom you direct them, he or she feels happy because these are vibrations of Dhamma, of peace, of harmony.
Khi quý vị hiến tặng nhân danh người đã khuất và nói “Nguyện cho công đức hiến tặng của tôi đến với người này...” Rõ ràng, bất kỳ những gì quý vị hiến tặng sẽ không đến với người đó, nhưng ý nguyện giúp đỡ là một từ tâm (mettā) và những rung động đó sẽ hướng đến cha ông hay bạn bè của quý vị, và các vị ấy sẽ cảm nhận được niềm hoan hỉ từ đó. Vì những rung động này có nền tảng là Chánh pháp nên sẽ có một điều gì đó xảy ra để giúp các vị ấy hướng về Chánh pháp trong kiếp này hay kiếp sau. Đó là cách chúng ta giúp đỡ những người đang ở trong những cảnh giới thấp hơn, hay thậm chí ở những cảnh giới cao hơn.
When you donate something in the name of someone who has passed away and say, “May the merit of my donation go to so- and-so,” whatever you donated obviously does not go to that person. However, your volition to help this person is one of mettā, and those vibrations will flow toward your ancestor or friend and he or she will feel a sense of elation from them. Because these vibrations have a base of Dhamma, something or other will happen to take him or her toward Dhamma in this or a future life. That is how we are helping those who are in lower fields, or even in higher ones.
Và như vậy, quý vị nên hiến tặng gì? Quý vị hiến tặng điều quý nhất mà quý vị có - sự thiền tập của quý vị. Do đó, vào cuối mỗi giờ thiền tập hay cuối khóa tu thiền, quý vị nên hướng tâm đến tất cả những người thân thiết hay những người đã mất và nguyện: “Tôi xin chia sẻ công đức thiền tập của tôi đến với quý vị.” Đó chính là tâm từ (mettā) của quý vị. Vì quý vị đã thực hành thiền, những rung động đến với người đó là những rung động mạnh mẽ của Chánh pháp. Quý vị đang chia sẻ công đức thiền tập với người đó. Đương nhiên là điều đó rất hữu ích.
And now, what do you donate? You donate the best thing you have—your own meditation. Therefore, at the end of your meditation hour or at the end of a meditation course, you remember anyone who is very dear to you or who has passed away, and you say, “I share the merits of my meditation with you.” This is your mettā. Because you have meditated, the vibrations going to that person are the strong vibrations of Dhamma. You are sharing your meditation with the person. Naturally it is very helpful.
Câu hỏi
Con lo sợ rằng những người đang già đi theo năm tháng sẽ tiếp tục đi trong luân hồi sinh tử bởi những bám chấp của họ - như mẹ con, người suốt đời không ngớt lo âu, và một cụ bà bạn gần đất xa trời luôn cảm thấy bà đã bị xử tệ trong suốt cuộc đời. Liệu có thể làm được điều gì [để giúp họ]? Có lẽ lòng từ có thể giúp chăng?
I worry that those who are getting on in years will keep going through continuous rounds of birth and death because of their attachments—my mother, who is attached to constantly worrying, and a friend very near death who feels that she has been wronged all her life. Can anything be done? Perhaps mettā?
Trả lời
Đúng vậy. Là tâm từ (mettā). Thêm vào đó, hãy tiếp tục giải thích luật tự nhiên: quý vị càng lo buồn càng có hại cho chính quý vị. Và có một kỹ thuật có thể giúp quý vị thoát khỏi sự lo buồn ấy.
Không ai có thể nói chắc, nhưng có thể những người này đã có hạt giống Chánh pháp từ trong quá khứ. Nếu họ nhận được thêm những lời khích lệ, có thể họ sẽ đến với Chánh pháp và học cách tự giải thoát mình khỏi khổ đau.
Yes. Mettā. In addition, keep explaining the law of nature: the more you worry the more you are harming yourself. And there is a technique that can relieve you of this worry.
One cannot say for sure, but they may have a seed of Dhamma from the past. If they get a few words of encouragement, they might be attracted to Dhamma and learn how to relieve themselves of their misery.
Câu hỏi
Nếu cha mẹ của con đã mất, con có thể làm lợi lạc cho họ bằng cách nào chăng?
If your parents have died, can you benefit them in some way?
Trả lời
Vâng, quý vị có thể làm được. Sau mỗi lần ngồi thiền, quý vị hãy nghĩ đến họ và chia sẻ công đức với họ: “Tôi xin chia sẻ bất kỳ công đức nào tôi có được với cha mẹ. Nguyện cho cha mẹ được bình an và hạnh phúc.” Những rung động đó sẽ đến với cha mẹ quý vị dù họ đang ở bất kỳ nơi nào. Không phải những rung động ấy tự nó sẽ làm được điều kỳ diệu nào cho họ; đúng hơn, cha mẹ quý vị sẽ được hướng về Chánh pháp, và biết đâu nhờ vậy họ có thể tìm được chánh đạo. Đây là cách duy nhất: hãy chia sẻ công đức của quý vị.
Yes, you can. After each of your sittings of meditation, remember them and share your merits with them: “I share with you whatever merits I have gained. May you also feel peaceful and happy.” These vibrations will touch them wherever they are. It is not the vibrations themselves that will work some wonder for them; rather, your parents will get attracted toward Dhamma and, who knows, they might find the path. This is the only way: share your merits.
Câu hỏi
Làm thế nào có thể giúp người thân trong gia đình vào lúc cận tử?
How can family members help at the time of death?
Trả lời
Nếu những thành viên trong gia đình là người hành thiền Vipassana thì điều đó luôn mang lại lợi ích cho người sắp mất. Cần sắp xếp để có mặt với người sắp ra đi để hành thiền và chế tác tâm từ. Khi mọi người bình tĩnh và yên lặng thì đó là một sự hỗ trợ tuyệt vời cho người sắp chết, và cũng sẽ giúp cho người ấy giữ được tâm an bình, thanh thản lúc từ trần.
It is always beneficial for the dying person if members of the family are Vipassana meditators. They should make a point of being present so they can meditate and generate mettā. When everybody is calm and quiet, this is wonderfully supportive for the dying person and will help him or her in retaining a calm and quiet mind at the time of death.
Câu hỏi
Những người sắp mất phải chịu nhiều đau đớn thường được cho dùng những loại thuốc giảm đau rất mạnh như là morphine. Đối với một thiền sinh, cố gắng chịu đựng cơn đau để giữ tâm tỉnh giác vào lúc chết có phải là điều tốt hơn không?
Quite often people who are dying in a lot of pain are given strong painkillers such as morphine. For a meditator, is it better to try to work with the pain so that the mind is clear at the moment of death?
Trả lời
Điều đó còn tùy thuộc việc thiền sinh ấy có thể chịu đau đến mức nào vào lúc đó. Nếu vì quá đau, người ấy phản ứng với sân hận: “Ôi, đau quá không chịu nổi!” thì không chắc gì người ấy sẽ ra đi với sự bình tâm. Do đó, hãy để người ấy dùng thuốc giảm đau.
It depends on how much the meditator can endure at the time. If, because of pain, the person is reacting with aversion: “Oh, I can’t bear this pain!” then you can’t be sure that he or she will die with equanimity. So offer some pain medication.
Tuy nhiên, nếu thiền sinh này giải quyết được nỗi đau với sự bình tâm, muốn quán sát mọi thứ đúng thật, thì đừng áp đặt bất kỳ điều gì. Khi một thiền sinh lúc lâm chung có thể quán sát nỗi đau một cách điềm nhiên mà không cần đến thuốc men, thì đó là sự chọn lựa của người ấy.
But if the meditator is working with the pain with a balanced mind, wanting to observe things as they are, then don’t impose anything. If a meditator is dying and observing calmly without taking medicine, that is his or her choice.
Lúc mẹ tôi sắp mất, bà không vui khi chúng tôi trao bà những viên thuốc ngủ, thường làm mắt bà trĩu nặng. Thậm chí sau khi uống thuốc, bà vẫn không ngủ. Bà nói: “Mẹ hoàn toàn vui dù không ngủ. Sao các con lại muốn cho mẹ ngủ?” Bà nghĩ rằng, thuốc giảm đau không cần thiết và gây trở ngại cho việc thiền tập của bà.
As my mother was dying, she was not happy when we gave her sleeping pills; they made her eyes heavy. Even after taking the sleeping pills, she didn’t sleep. She said, “I’m quite happy if I don’t get sleep. Why do you want me to sleep?” In her mind, pills were unnecessary and interfered with her meditation.
Đồng thời, có một bà cụ hàng xóm cũng sắp ra đi vì bệnh ung thư. Cơn đau đối với bà ấy là không thể chịu nổi. Phòng bà ở lầu bốn nhưng ở lầu một cũng có thể nghe tiếng la khóc của bà. Vì vậy, tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của người bệnh.
At the time, there was another old lady next door who was also dying of cancer. The pain for her was unbearable. Her room was on the fourth floor but her cries could be heard on the first. So it all depends on the attitude of the patient.
Câu hỏi
Nếu người sắp mất là một thiền sinh, chúng ta có thể giúp như thế nào?
If the dying person is a meditator, how can we help?
Trả lời
Điều này thật tuyệt vời. Hãy cùng thiền với người ấy. Hãy chia sẻ tâm từ. Cùng lắng nghe lời kinh tụng. Vì người ấy là một thiền sinh nên những điều này có thể thực hiện dễ dàng.
This is wonderful. Meditate with her. Give mettā. Listen to some chanting. Because she is a meditator, these things can be done easily.
Quý vị có thể nhắc nhở người ấy thực hành ānāpāna (quán hơi thở), hay nếu họ có thể ghi nhận cảm giác, hãy chú tâm đến những cảm giác đó. Tương tự như vậy, hãy nhẹ nhàng giúp họ duy trì sự tỉnh giác về anicca (vô thường). Là một thiền sinh nên người ấy sẽ tiếp nhận, vì thế hãy hướng dẫn họ ngay cả trong lúc hành thiền. Một thiền sinh có thể giúp làm việc này, trong khi những người khác có thể ngồi thiền. Cùng lắng nghe một đoạn kinh tụng nào đó, âm thanh nhỏ vừa đủ nghe, đừng quá lớn. Ngay cả với một thiền sinh nhiều kinh nghiệm thì âm thanh lớn quá vẫn có thể làm căng thẳng. Bài kinh Từ bi (Karaṇīya-mettā Sutta) và bài kinh Hạnh phúc (Maṅgala Sutta) hẳn sẽ mang lại nhiều lợi lạc.
You can ask her to practice ānāpāna or, if she can feel sensations, to stay with sensations. Like this, help her very gently to maintain the awareness of anicca. She will be receptive because she is a meditator, so offer her guidance even in meditating. Someone may do that; others can sit and meditate. Listen to some quiet chanting—not too loud; even an experienced meditator may find loud sounds too intense. The Karaṇīya-mettā Sutta and the Maṅgala Sutta would be beneficial.
Nếu không được vậy, hãy giữ yên lặng. Những thành viên trong gia đình, ngay cả khi họ không phải thiền sinh, cũng sẽ cảm nhận được thế nào là thiền. Họ sẽ biết rằng một thiền sinh Vipassana sắp lìa đời, và họ nên tránh tạo ra một không khí buồn thảm hay sầu đau có thể làm người sắp ra đi nhuốm thêm ưu phiền. Mọi người phải hết sức cẩn thận.
Otherwise, remain very quiet. Members of the family, even if not meditators themselves, will know what meditation is. They will know that a Vipassana meditator is dying, and they should abstain from creating an atmosphere of sadness or distress that might tend to make her a little sad as well. One has to be very careful.
Câu hỏi
Nếu người sắp mất không phải là thiền sinh, ta có thể đơn phương đưa ra lời khuyên Chánh pháp khi người này trong quá khứ đã không quan tâm đến Chánh pháp hay không?
If the dying person is not a meditator, can we presume to give Dhamma advice if he has shown no interest in the Dhamma in the past?
Trả lời
Không nên. Nếu người ấy vẫn không có chút niềm tin nào đối với Chánh Pháp mà quý vị đưa ra lời khuyên, người ấy có thể phát sinh phản ứng tiêu cực – “Những người này đang nói cái quái gì vậy?” - và việc này sẽ rất có hại. Đó là lý do vì sao ngay cả trong các khóa tu, chúng ta không giảng pháp trừ phi có người thỉnh cầu. Chánh pháp chỉ có thể trao cho những ai sẵn sàng tiếp nhận mà thôi. Nếu người ấy chưa sẵn sàng tiếp nhận, có nghĩa là người ấy không thỉnh cầu Chánh pháp và do vậy ta đang áp đặt. Vào lúc hấp hối, nếu quý vị cố áp đặt điều gì, những tiêu cực sẽ phát sinh trong tâm người ấy, như vậy là quý vị đang bắt đầu làm hại họ. Tuy nhiên, nếu quý vị cảm thấy người ấy có ý hướng tích cực hướng đến Chánh pháp, dù họ chưa từng tham gia khóa thiền, và họ có thể trân trọng những gì quý vị nói thì quý vị có thể chia sẻ đôi điều về Chánh Pháp.
No. If he still does not have any faith in Dhamma and you start giving advice, he could generate negativity—“What are these people talking about?”—and it will be harmful. That is why, even in courses, we cannot give Dhamma unless someone requests it. Dhamma should only be given to someone who is receptive. If he is not receptive, that means he is not requesting Dhamma and so we are imposing it. And if, at the time of death, you try to impose something and negativity arises in his mind, then you have started to harm him. However, if you feel that he is positive toward Dhamma, although he has not taken a course, and he can appreciate what you are saying, then you may say a few words about Dhamma.
Câu hỏi
Một thiền sinh Vipassana có thể giúp được bạn bè và người thân sắp mất không?
Can a Vipassana meditator help dying friends and relatives?
Trả lời
Nếu người sắp mất là một thiền sinh Vipassana, thì những thiền sinh khác có thể ngồi cạnh và hành thiền Vipassana. Điều này giúp làm cho bầu không khí có thêm những rung động tinh khiết mang tình yêu thương, lòng từ đến cho người bạn hay thân nhân này. Như vậy giúp cho người này giữ được tâm thanh tịnh lúc lâm chung. Điều này đã được chứng kiến nhiều lần. Cho dù người sắp ra đi không phải là một thiền sinh Vipassana, việc hành thiền vẫn giúp cho bầu không khí quanh người ấy được tinh khiết hơn, nhưng rõ ràng là sẽ không được hiệu quả như đối với một thiền sinh.
If the dying person is a Vipassana meditator, then other meditators can sit nearby and practice Vipassana. This helps to charge the atmosphere with vibrations of purity, love and compassion for this friend or relative. It helps the person retain her purity of mind at the time of death—this has been witnessed many times. If the dying person is not a Vipassana meditator, meditating still helps to purify the atmosphere around her, but obviously it is not as effective as with a meditator.
Jātipi dukkhā,
jarāpi dukkhā,
byādhipi dukkho,
maraṇampi dukkhaṃ,
appiyehi sampayogo dukkho,
piyehi vippayogo dukkho,
yampicchaṃ na labhati tampi dukkhaṃ,
saṇkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā.
- Dhammacakkappavattana Sutta,
Saṃyutta Nikāya 5.1081
Jātipi dukkhā, jarāpi dukkhā, byādhipi dukkho,
maraṇampi dukkhaṃ, appiyehi sampayogo dukkho, piyehi vippayogo dukkho,
yampicchaṃ na labhati tampi dukkhaṃ, saṇkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā.
Sinh là khổ.
Già là khổ.
Bệnh là khổ.
Chết là khổ.
Nhận chịu cảm thọ khó chịu là khổ.
Mất đi cảm thọ dễ chịu là khổ.
Không đạt được điều mong cầu là khổ.
Tóm lại, năm uẩn bám chấp là khổ.
- Kinh Chuyển Pháp Luân,
Tương Ưng Bộ Kinh, 5.1081
Birth is suffering, aging is suffering, sickness is suffering, death is suffering,
association with the unpleasant is suffering, dissociation from the pleasant is suffering, not to get what one wants is suffering:
in short, the five aggregates of attachment are suffering.
—Dhammacakkappavattana Sutta, Saṃyutta Nikāya 5.1081