Sau đây là bản dịch một bài viết của ngài Goenkaji, ban đầu được đăng trên Bản tin Vipassana bằng tiếng Hindi (Hindi Vipaśhyana Patrika), số tháng 2 năm 1994.
What follows is the translation of an article by Goenkaji, originally published in the February 1994 issue of the Hindi Vipaśhyana Patrika.
Cuộc đời tôi đã trải qua 70 mùa thu. Ai biết được sẽ còn lại bao nhiêu mùa thu nữa? Làm thế nào để thời gian còn lại có thể được sử dụng tốt nhất? Mong cho sự tỉnh giác này luôn được duy trì.
My life has seen 70 autumns. Who knows how many more are left? How can the ones that remain be best used? May this awareness be maintained.
Trong dịp này, tôi chợt nhớ đến những lời dạy đầy lợi lạc của đức Phật. Những lời này được ngài nói ra ở thành Xá-vệ (Sāvatthī), trong vườn Kỳ thọ Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika’s Jetavanarāma).
On this occasion some beneficial words of the Buddha come to mind. They were spoken in Sāvatthī, in Anāthapiṇḍika’s Jetavanarāma.
Vào lúc đêm tối, một vị thiên tử cõi trời đến gặp Phật. Vị này bày tỏ những cảm nghĩ của mình với đức Phật qua hình thức một bài kệ bốn câu:
At nighttime a devaputta came to meet the Buddha. He expressed his thoughts to the Buddha in the form of a gāthā of four lines:
Accenti kālā, tarayanti rattiyo
Vayoguṇā anupubbaṃ jahanti
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno
Puññāni kayirātha sukhāvahāni
Accenti kālā, tarayanti rattiyo
Vayoguṇā anupubbaṃ jahanti
Etaṃ bhayaṃ maraṇe pekkhamāno
Puññāni kayirātha sukhāvahāni
(Thời gian trôi qua, đêm tối trôi qua.
Đời sống trôi dần đến sự chấm dứt.
Quán sát nỗi sợ cái chết đang đến gần,
Hãy thực hành thiện hạnh để được thiện quả tốt đẹp.)
Time is passing, nights are passing.
Life is gradually coming to an end.
Observing the fear of (approaching) death
Perform meritorious deeds that yield pleasant fruits.
Ai đó đã nói rất đúng: “Sáng tối thấm thoắt thay nhau, đời sống này cũng chấm dứt nhanh như vậy.” Vì thế, đừng để kiếp người quý báu này luống qua vô ích. Thực hành thiện hạnh mang đến thiện quả, ngay cả khi ta làm điều đó chỉ vì nỗi khiếp sợ cái chết đang đến gần. Nếu ta làm những điều hiền thiện, chúng sẽ mang lại hạnh phúc. Nếu ta làm những điều xấu ác, chúng sẽ mang đến khổ đau. Đây là quy luật tự nhiên không thể chống lại. Vì vậy, để tránh khổ đau và được hưởng hạnh phúc, tốt hơn hết là hãy làm những điều tốt lành và không làm những việc xấu ác.
Someone rightly said, “Morning comes, evening comes; in the same way the end of life comes.” Therefore do not let this priceless human life end in vain. Perform meritorious deeds that yield pleasant fruit, even if only out of fear of approaching death. If we perform wholesome deeds, they will result in happiness; if we perform unwholesome deeds, they will result in suffering for us—this is an unbreakable law of nature. Therefore, to avoid suffering and enjoy happiness, it is better to do wholesome deeds rather than unwholesome deeds.
Chúng ta không thể biết được bao lâu ta đã từng bị nghiền dưới bánh xe luân hồi không ngừng thay đổi, không biết được mức độ hạnh phúc và khổ đau trong đời sống thế gian này, cũng không biết được vòng xoay của những hạnh phúc và khổ đau này sẽ tiếp tục bao lâu nữa trong tương lai.
We do not know how long we have been crushed under the ever-changing wheel of existence—neither the extent of worldly happiness and suffering in this life, nor for how long this wheel of worldly happiness and suffering will continue in future.
Đức Phật đã khám phá ra một con đường đơn giản và trực tiếp để giải thoát hoàn toàn khỏi vòng xoay sinh tử này và tạo điều kiện dễ dàng cho bất cứ ai cũng có thể đi theo con đường ấy. Ngài dạy mọi người phương pháp Vipassana dẫn đến sự giải thoát. Bằng cách thực hành phương pháp này, người ta có thể tự cứu mình thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi và đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng, bất biến, tối thượng của Niết-bàn tịch tịnh - nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ – niềm an lạc tối thượng của Niết-bàn – tuyệt đối siêu việt hết thảy mọi niềm vui thế tục.
The Buddha discovered a simple and direct path to full liberation from this wheel of existence and made it easily accessible to all. He taught people the liberation-endowing technique of Vipassana, by the practice of which they can free themselves from the wheel of existence and attain the eternal, unchanging, nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ—ultimate happiness, the ultimate peace of nibbāna—infinitely superior to all worldly pleasures.
Nhưng sự giải thoát này chỉ có thể đạt đến sau khi đã dứt trừ được thói quen buông thả chạy theo những dục lạc thế gian. Và đây chính là điều mà Vipassana giúp chúng ta làm được: dứt trừ những hành nghiệp (saṅkhāra) tầng tầng lớp lớp của tham lam và sân hận vốn nằm sâu trong ý thức của chúng ta. Vipassana giúp trừ bỏ những hành nghiệp của sự tham muốn dục lạc và chán ghét khổ đau. Vipassana xóa bỏ thói quen lâu đời của sự phản ứng mù quáng.
But this liberation is only possible when the habit of heedlessly running after the enjoyment of worldly pleasures is broken. And this is what Vipassana enables us to do: break the habit of multiplication of the saṅkhāras of craving and aversion that lie in the depths of the subconscious mind. It digs out the saṅkhāras of craving for pleasure and aversion toward suffering. It eradicates the longstanding habit of blind reaction.
Khi sự tham muốn dục lạc vẫn còn thì sự chán ghét sẽ tiếp tục khởi sinh đối với những khổ đau thế tục. Do tham muốn và chán ghét nên bánh xe sinh tử sẽ tiếp tục luân chuyển. Chỉ khi bánh xe sinh tử bị phá vỡ thì mới có thể đạt đến sự an lạc tối thượng, [vì sự an lạc này] vốn là siêu thế - vượt ngoài thế tục, vượt ngoài luân hồi, vượt ngoài phạm trù các giác quan. Chính vì mục đích như thế mà đức Phật đã giảng dạy phương pháp Vipassana thiết yếu này.
As long as craving for sensual pleasures remains, aversion will continue to arise toward worldly suffering, and because of craving and aversion the wheel of existence will continue to roll. Only when the wheel of existence breaks can ultimate peace, which is supramundane—beyond worlds, beyond the round of existence, beyond the field of the senses—be attained. For this purpose the Buddha taught the indispensable technique of Vipassana.
Vì vậy, sau khi nghe qua bài kệ, đức Phật liền thay đổi dòng kệ thứ tư:
Therefore, upon hearing the gāthā, the Buddha changed the fourth line:
Lokāmisaṃ pajahe santipekkho
Lokāmisaṃ pajahe santipekkho
(Người mong cầu an lạc tối thượng phải từ bỏ sự tham muốn những hạnh phúc thế tục.)
One who hopes for ultimate peace should give up the desire for worldly happiness.
Chỉ bằng cách nỗ lực nhiệt thành thực hành phương pháp Vipassana chúng ta mới có thể trừ bỏ được những tham muốn thế tục. Trong khi thực hành Vipassana, thiền sinh phải duy trì sự tỉnh giác về cái chết chắc chắn phải đến của mình, nhưng không mảy may sợ hãi. Bất cứ khi nào cái chết xảy đến, ta phải liên tục chuẩn bị đón nhận với một tâm thức bình thản.
Only by the ardent practice of Vipassana can one eradicate worldly desires. While practicing Vipassana, a meditator should maintain awareness of his impending death, but there should not be a trace of fear. Whenever death comes, one should be constantly prepared for it with a tranquil mind.
Vào sinh nhật của mình, một thiền sinh chắc chắn phải xem xét lại quá khứ. Người ấy phải khởi lên quyết tâm mạnh mẽ không bao giờ lặp lại những lỗi lầm đã mắc phải, và tiếp tục thực hành những thiện hạnh trong suốt phần đời còn lại của mình. Thiện hạnh quan trọng nhất là sự thực hành phương pháp giải thoát Vipassana. Hãy tinh tấn thực hành Vipassana. Đừng xao nhãng. Sự thực hành của hôm nay đừng hoãn lại đến ngày mai. Hãy để những lời Phật dạy sau đây vang vọng mãi bên tai như một lời cảnh giác:
On his birthday, a Vipassana meditator should certainly consider the past. He should make a firm resolution not to repeat mistakes previously committed, and to continue to perform wholesome deeds for the rest of his life. The most important wholesome deed of all is the practice of the liberating technique of Vipassana. Diligently practice it; do not neglect it. Do not postpone today’s practice to tomorrow. Let these words of the Buddha constantly echo in your ears like a warning:
Ajjeva kiccamātappaṃ
Kojaññā maraṇaṃ suve
Ajjeva kiccamātappaṃ
Kojaññā maraṇaṃ suve
Hãy thực hành ngay công phu thiền định của hôm nay.
(Đừng trì hoãn.) Ai biết được, cái chết có thể đến vào ngày mai.
Perform the work of meditation today itself. (Do not postpone it.)
Who knows, death might come tomorrow.
Chúng ta không mời gọi cái chết, nhưng khi nó đến cũng không cần sợ hãi. Chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng trong từng giây phút.
One does not invite death, but when it comes there is no need to be afraid of it. Let us be prepared every moment.
Thỉnh thoảng, chúng ta nên thực hành pháp tử tùy niệm (maraṇānusati - tỉnh giác về cái chết). Theo kinh nghiệm của riêng tôi, điều này rất lợi lạc. Khi thực hành pháp tu này, chúng ta nên tự quán xét tâm ý mình: “Nếu ta chết vào sáng mai, phẩm chất của tâm thức ta trong giây phút cuối cùng sẽ như thế nào? Liệu có còn bất kỳ sự bám chấp nào không, ngay cả là bám chấp vào việc hoàn tất một pháp sự nào đó?
From time to time we should practice maraṇānusati (awareness of death). By my own experience I have seen that this is very beneficial. While practicing, one should examine one’s mind: “If I die tomorrow morning, what will be the nature of my last mind-moment of this life? Will any clinging remain, even to complete some Dhamma mission?”
Bất cứ khi nào hành nghiệp mãnh liệt của một cảm xúc nào đó khởi sinh trong tâm thức, chúng ta nên lập tức thực hành pháp tử tùy niệm này và nhận hiểu: “Nếu ta chết đi ngay vào giây phút tiếp theo đây, cảm xúc này sẽ làm chệch hướng dòng tâm thức tái sinh theo khuynh hướng đáng sợ nào?” Ngay khi sự tỉnh giác này khởi sinh, ta dễ dàng thoát khỏi cảm xúc đó.
Whenever a saṅkhāra of some intense emotion arises in the mind, we should immediately practice maraṇānusati and understand, “If I die in the very next moment, in what fearful direction will this emotion deflect the stream of becoming?” As soon as this awareness arises, it is easy to be free of that emotion.
Còn một lợi ích khác nữa của việc thỉnh thoảng thực hành pháp tử tùy niệm. Chúng ta suy nghĩ: “Ai biết được ta trôi lăn trong luân hồi đã bao kiếp sống rồi? Kiếp này, nhờ kết quả của thiện nghiệp nào đó, ta đã có được thân người quý giá này, ta cũng gặp được Chánh pháp thuần tịnh, ta đã phát triển được niềm tin vào Chánh pháp, thoát ra khỏi những tập tục, lễ nghi, triết lý vô nghĩa và vượt qua rào chắn phân biệt tông phái. Thế nhưng ta đã được lợi lạc gì từ những điều này?”
There is another advantage to practicing maraṇānusati from time to time. One thinks, “Who knows for how many lives I have been rolling in this cycle of existence? This time, as a result of some wholesome deed, I have obtained the invaluable life of a human being; I have come in contact with pure Dhamma; I have developed faith in Dhamma, free from meaningless rituals, philosophies, and sectarian barriers. But what benefit have I derived from this?”
Sau khi có sự suy xét đánh giá như vậy, bất kỳ khiếm khuyết nào được nhận biết, ta sẽ phát triển được nhiệt tâm để tu sửa. Liệu cái chết sẽ đến vào sáng mai hay sau trăm mùa thu nữa, ta không biết. Nhưng bất kể ta còn phải sống bao nhiêu ngày nữa, ta sẽ sử dụng thời gian này để hoàn thiện các ba-la-mật (pāramitā) với một tâm mãn nguyện và làm cho cuộc đời ta đầy ý nghĩa. Bất kỳ kết quả như thế nào, cứ để chúng xảy đến. Bất kỳ khi nào chúng đến, cứ để chúng xảy đến. Và ta sẽ phó thác cho Dhamma. Về phần ta, với nỗ lực tốt nhất trong khả năng của mình, ta sẽ vận dụng tốt thời gian còn lại trong cuộc sống quan trọng này.
Having made this assessment, whatever shortcomings one finds, one develops enthusiasm to correct them. Whether death will come tomorrow morning or after 100 autumns, I do not know. But no matter how many days I have to live, I will use them to perfect my pāramitās with a contented mind and make my human life meaningful. Whatever results come, let them come; whenever they come, let them come then—I leave that to Dhamma. For my part, let me continue, to the best of my ability, to make good use of the time I have remaining in this important life.
Với mục đích này, chúng ta hãy ghi nhớ mãi những lời khuyến hóa của đức Phật:
For this purpose, let these inspiring words of the Buddha remain with us:
Uttiṭṭhe nappamajjeyya dhammaṃ sucaritaṃ care.
Uttiṭṭhe nappamajjeyya dhammaṃ sucaritaṃ care.
(Hãy nỗ lực! Sống đời Chánh pháp với tinh cần.)
Arise! Live the Dhamma life with diligence.
Cứ tiếp tục sống đời Chánh pháp thì kết quả tự nhiên sẽ là lợi lạc.
Keep living the life of Dhamma and the results will naturally be beneficial.
Tumhehi kiccaṃātappaṃ,
akkhātāro tathāgatā; paṭipannā pamokkhanti, jhāyino mārabandhanā.
—Dhammapada 20.276
Tumhehi kiccaṃātappaṃ,
akkhātāro tathāgatā;
paṭipannā pamokkhanti,
jhāyino mārabandhanā.
Tự mình phải nỗ lực.
Bậc giác ngộ chỉ là người chỉ đường.
Người thực hành thiền định sẽ tự cứu mình
thoát khỏi xiềng xích của cái chết.
—Kinh Pháp cú, phẩm 20, kệ số 276
You yourself must make the effort;
the Enlightened Ones only show the way.
Those who practice meditation
will free themselves from the chains of death.
—Dhammapada 20.276
Sabbapāpassa akaranaṃ,
kusalassa upasampadā;
sacittapariyodapanaṃ,
etaṃ buddhāna sāsanaṃ.
—Dhammapada 14.183
Sabbapāpassa akaranaṃ,
kusalassa upasampadā;
sacittapariyodapanaṃ,
etaṃ buddhāna sāsanaṃ.
Không làm các việc ác,
Thành tựu các hạnh lành.
Giữ tâm ý trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.
—Kinh Pháp cú, phẩm 14, kệ số 183
Abstain from evil actions;
perform pious actions;
purify your mind.
This is the teaching of all the Buddhas.
—Dhammapada 14.183
Đức Phật không dạy pháp khổ đau. Ngài chỉ dạy con đường dẫn đến hạnh phúc. Nhưng ta phải nỗ lực hết sức mình bước đi không do dự. Cho dù chân đau mỏi, đừng bỏ cuộc. Hãy biết rằng những bậc trí giả trong quá khứ đều đã bước đi trên chính con đường này.
—Venerable Webu Sayadaw
The Buddha did not teach suffering.
He taught the way leading to happiness.
But you have to work with full effort and without wavering.
Even though your limbs ache, do not give up.
Know that wise people of the past have walked on the same path.
—Venerable Webu Sayadaw