Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Học Phật trước hết phải học làm người. Làm người trước hết phải học làm người tốt. (學佛先要學做人,做人先要學做好人。)Hòa thượng Tinh Không
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Nghệ thuật chết »» Xem đối chiếu Anh Việt: Mãi mãi tri ân »»

Nghệ thuật chết
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Mãi mãi tri ân

Donate

(Lượt xem: 5.729)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Mãi mãi tri ân

Undying Gratitude



Năm 1989, khi John Wolford 18 tuổi, cha anh là Carl đã ban tặng cho anh món quà Dhamma. Những gì anh được học và thực hành đã làm phong phú đời sống của anh kể từ ngày đó. Năm 2005, ở độ tuổi 34, John được chẩn đoán có bướu não ác tính và được phẫu thuật không lâu sau đó. Từ lúc biết được căn bệnh của mình cho đến tháng 11 năm 2007, anh đã quyết lòng dành trọn cuộc đời mình cho việc gắn bó hơn nữa với Dhamma và chia sẻ Pháp với một ý thức biết ơn nhiều hơn, ngay cả cảm thấy biết ơn căn bệnh của mình.
John Wolford (1971–2007)
In 1989, when John Wolford was 18, his father Carl gave him the gift of Dhamma. What he learned and practiced enriched his life from then on. In 2005, in his mid-thirties, he was diagnosed with a malignant brain tumor and surgery soon followed. From the moment he first learned of his illness until November 2007, he purposefully dedicated his life to an increased engagement with Dhamma and to sharing it with a greater sense of gratitude, even finding gratitude for his illness.
Căn bệnh ung thư lan dần đến cột sống và cuối cùng giết chết anh. Tuy nhiên, điều này giúp anh chết một cách có ý thức thay vì trong cơn hôn mê sâu, như rất thường gặp ở các bệnh nhân bị bướu não.
The cancer eventually spread to his spine, ultimately causing his death. However, this allowed him to die consciously rather than in a coma, as is more usual with brain tumor patients.
Ban đầu, John không trải qua những bất ổn tinh thần hay thể chất đáng kể. Những cơn đau đầu hay các triệu chứng khác, vốn thường gặp ở những người bị bướu não, chỉ xuất hiện với anh vào rất gần giai đoạn cuối. Trong phần lớn thời gian, anh luôn duy trì được sự mạnh mẽ và tràn đầy sinh lực, và nhờ đó có thể đáp ứng trọn vẹn với ý thức mới hình thành về sự thôi thúc tâm linh của mình.
Initially John did not experience significant mental or physical problems. The headaches and other symptoms, which are so common among people with brain tumors, set in only at the very end. He remained, for the most part, strong and energetic, and was therefore able to respond fully to his new- found sense of spiritual urgency.
May mắn thay, anh đã có thể từ bỏ công việc, tự mình dành trọn thời gian để ngồi thiền và phục vụ các khóa thiền Vipassana, bao gồm cả một khóa thiền 10 ngày song ngữ Anh-Miến mà anh phục vụ chung với vợ mình là Dhalie, được tổ chức ở Dhamma Torana, Ontario, chỉ 3 tháng trước khi anh qua đời. Anh phục vụ trong nhà bếp nhưng phải thường xuyên vắng mặt vì loại thuốc trị bệnh uống vào mỗi buổi sáng khiến anh buồn nôn. Dù vậy, trong suốt khóa thiền này anh đã sắp xếp biên soạn xong những mẩu chuyện cùng với file âm thanh mà anh thu thập được trong chuyến đi Miến Điện, để có thể tạo thành đĩa DVD gồm các pháp liệu này, dành cho những thiền sinh Miến Điện trong khóa thiền. Mỗi đêm anh hầu như đều không ngủ trước khi đèn tắt vào lúc 10 giờ. Do điều này và vô số những cử chỉ hành vi khác, sự ân cần, rộng lượng và lòng biết ơn của anh đã truyền sang cũng như gợi hứng khởi cho tất cả những ai được quen biết anh.
Fortunately, he was able to give up his job and devote himself full-time to sitting and serving Vipassana courses, including the 10-day Burmese-English course he served with his wife Dhalie at Dhamma Toraṇa, Ontario, only three months before he died. He worked in the kitchen, but had to absent himself regularly because the oral chemotherapy he took each morning made him nauseous. Still, during this course, he managed to compile the stories and audio files that he had collected while traveling in Burma so he could create DVDs of this Dhamma material for the Burmese students on the course. He hardly rested until the lights went out at 10 pm each night. By this and countless other gestures, his thoughtfulness, generosity, and gratitude infused and inspired all who knew him.
Sau đây là những lá thư của John và mẹ anh.
Following are letters from John and his mother.

Thư của John

Thầy Goenkaji kính mến,
Dear Goenkaji,
Con thấy thật khó để kể lại với thầy câu chuyện của con, vì có quá nhiều điều gắn liền với câu chuyện và con cũng khó biết cách thể hiện đầy đủ tầm quan trọng của lòng biết ơn mà con dành cho thầy.
It’s difficult for me to tell you my “story” as there are so many aspects to it, and hard also to know how to express adequately the magnitude of my gratitude to you.
Cách đây nhiều năm, cha con đưa con đến dự khóa thiền Vipassana đầu tiên trong đời con, do Arthur Nichols tổ chức. Lúc ấy, con biết rằng đây là điều quan trọng nhất trong cuộc đời con, nhưng vẫn luôn phải có những tranh đấu giằng co theo nhiều hướng. Điều này đã thay đổi vào tháng 2 năm 2005, khi con bất ngờ được chẩn đoán có một khối u ác tính lớn trong não. Thực sự là toàn bộ cuộc đời con đã thay đổi kể từ đó.
Many years ago my father brought me to my first Vipassana course, conducted by Arthur Nichols. I knew then that this was the most important thing in my life, but it has always been a struggle in various ways. This changed in February 2005, when I was unexpectedly diagnosed with a large, malignant brain tumor. Actually, my whole life has changed since then.
Dựa trên chẩn đoán đầu tiên, lúc đó các bác sĩ cho rằng con sẽ chết trong khoảng từ 9 đến 12 tháng. Dĩ nhiên, đây là một cú sốc nặng, nhưng nó cũng thúc đẩy con theo những hướng rất tích cực. Trong thực tế, Vipassana đã “kiểm soát tình hình” và giúp con tức thời bình tĩnh lại. Ngay lập tức, con cảm thấy biết ơn về việc mình đang chết vì bướu não, bởi vẫn có được một quãng thời gian để tiến hành mọi việc, còn hơn là phải chết khi thấy mình ở trước một chiếc xe hơi đang lao tới và chỉ có vài khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi nó cán lên người mình.
Based on that first diagnosis the doctors thought for some time that I would be dead in nine to 12 months. This was a shock, of course, but it also shook me in some very positive ways—in fact, Vipassana just “took over” and calmed me then and there. I was instantly grateful that I was dying of a brain tumor, which would give me some time to process things, rather than finding myself in front of an oncoming car and having mere moments before it ran me over.
Trong vài ba tháng sau đó, các bác sĩ kéo dài thêm tiên lượng của họ từ 9 đến 12 tháng thành nhiều thập kỷ, và rồi lại thu ngắn còn từ 7 đến 10 năm. Con còn nhớ tâm trạng biết ơn ngay lúc đó vì con vẫn còn thời gian để thực hành Dhamma tốt nhất trong khả năng của mình. Và con cũng thấy biết ơn vì pháp tu tập vô giá này đã được truyền trao cho con rất lâu trước đó.
During the next few months the doctors lengthened their prognosis from nine to 12 months to decades, and then shortened it again to seven to 10 years. I remained all the while grateful that I had time left to use the Dhamma as best I could. And I was grateful too that I had this invaluable tool given to me so long ago.
Con cũng biết ơn vợ con, Dhalie, cũng là một thiền sinh. Ban đầu con nghĩ rằng những gì con phải trải qua chỉ là việc của riêng con, bởi chỉ có con là người bị bướu não. Nhưng không bao lâu, con đã thấy rõ ràng là Dhalie luôn ở bên con trên suốt chặng đường. Chúng con trở nên hết sức trầm tĩnh trong nội tâm, hết sức bình thản, và ngay lập tức nhận ra lợi ích lớn lao của điều này. Chúng con biết ơn về cơ hội được đưa đẩy tới để củng cố Dhamma trong chúng con, để phát triển Dhamma trong chúng con, và để vận dụng Dhamma trong chúng con. Điều này vô cùng hữu ích cho chúng con, và tiếp tục giúp chúng con tự nâng đỡ mình cũng như giúp đỡ lẫn nhau.
I was grateful for and to my wife, Dhalie, also a meditator. I initially thought what I was going through was mine alone, as it was I who had the tumor. But it quickly became clear that Dhalie was with me the whole way. We both became so quiet inside, so calm, and realized immediately what a huge advantage this was. We were grateful for the opportunity it presented to support the Dhamma in us, to develop the Dhamma in us, and to use the Dhamma in us. It helped us tremendously, and continues to help us help ourselves, and help each other.
Con cũng biết ơn về việc mẹ con, người lúc nào cũng quan tâm đến nhưng “chưa bao giờ có thời gian” để tham gia một khóa thiền, giờ đây đã quan tâm đến việc thực sự tham gia. Người ta có thể dễ dàng hình dung được, hung tin về chứng bệnh bướu não này là điều khó khăn cho bà hơn so với bất cứ ai khác, và bà đã tìm kiếm trong vô vọng một con đường giúp bà thoát khỏi khổ đau. May mắn thay, bà đã có một quyết định tuyệt vời, và chỉ trong vòng mấy tuần lễ sau lần phẫu thuật đầu tiên của con, mẹ con đã tham gia khóa thiền đầu tiên của bà cùng với Dhalie và con, với sự tham gia phục vụ của cha con.
I was also grateful that my mother, who had always been interested but “never had time” to take a course, was now interested in doing so. As one can imagine, the news of this tumor came harder for her than anyone else, and she was desperately looking for a way out of her misery. Fortunately she made a wonderful decision, and within weeks of my first operation my mother was sitting her first course with Dhalie and me, and with my father serving.
Cho đến lúc đó, con đã cảm thấy yên lòng với vợ con, cha con và em con. Họ đều đã tham gia ngồi thiền và phục vụ nhiều khóa thiền, con biết rằng cho dù có điều gì xảy ra, cuối cùng họ cũng đều sẽ ổn. Nhưng con không thể nghĩ như vậy với mẹ con. Giờ đây con cảm thấy hạnh phúc vì mẹ con đã tham gia một khóa thiền, đã gieo trồng hạt giống Dhamma, và vì con đã có thể góp sức vào việc này theo một cách nào đó.
Up till then I was content that my wife, father, and brother had all sat and served courses, and I knew that however things turned out they would be OK at the end—but I couldn’t say that for my mother. Now I was happy that she was taking a course, taking the seed of Dhamma, and that I could contribute in some way.
Tiếp theo sau đó, mẹ con đã tham gia thêm hai khóa thiền 10 ngày và một khóa thiền học Kinh Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Sutta). Con được may mắn tham gia phục vụ trong tất cả các khóa thiền này. Mẹ con duy trì sự thực tập mỗi ngày một cách dễ dàng, và bây giờ gần như bà không đọc gì khác ngoài các sách Giáo pháp. Chúng con trò chuyện về Dhamma suốt ngày. Mẹ con đón nhận tất cả, giống như một miếng bọt biển thấm nước, không bao giờ phản kháng theo kiểu như “Đủ lắm rồi, mẹ không nhận thêm được nữa!” Và con trở thành một phần trong sự đón nhận của mẹ.
She has subsequently attended two more 10-day courses and a Satipaṭṭhāna Sutta course, and I have been fortunate to serve on all of them. She has maintained her daily practice easily, and now reads hardly anything but Dhamma books. We converse about Dhamma all the time—she soaks it up like a sponge, never protesting, “I’m saturated; I can’t take any more.” And I get to be a part of that.
Con biết ơn công ty bảo hiểm y tế đã đồng ý hỗ trợ con về tài chánh, và nhờ đó con có thể nghỉ việc. Giờ đây, con có thời gian hoàn toàn tự do để dành cho gia đình, bạn bè và Dhamma. Dhalie, mẹ con và con cùng ngồi thiền với nhau một cách đều đặn.
I’m grateful that my health insurance company agreed to support me financially, and I have therefore been able to stop working. My time now is completely freed up to spend with family, friends, and the Dhamma. Dhalie, my mother, and I sit together regularly.
Đối với thầy, Goenkaji, người cha Dhamma của con, con đã nợ thầy quá nhiều và con vô cùng biết ơn về việc con có thể tiếp tục đền đáp bằng cách thay thầy phục vụ Dhamma trong nhiều cách khác nhau. Con đang gieo nhân lành với tất cả khả năng mình, phục vụ để giúp thầy truyền bá Dhamma càng xa rộng càng tốt.
To you, Goenkaji, my Dhamma father, I have a huge debt, and am exceedingly grateful that I can continue repaying it by serving the Dhamma on your behalf in different ways. I am planting as many good seeds as I am able, serving to help you spread the Dhamma as far and wide as possible.
Con đang cố hết sức mình thực hiện đúng đắn lời dạy của thầy bằng cách phát triển Dhamma trong con. Con cố gắng giữ giới luật một cách nghiêm cẩn, chú ý nhiều nhất đến việc này. Định và Tuệ vô cùng quý báu, vô cùng giá trị, đã giúp con thấu hiểu và củng cố việc trì giới. Con đã phát triển được một nhận thức rõ rệt hơn nhiều về sự giải thích của thầy, vì sao “ba chân của cái kiềng [Giới, Định, Tuệ] đều hỗ trợ cho nhau”.
I am, as best I can, doing your service justice by developing Dhamma in me. I try to keep sīla scrupulously, giving it now the utmost attention. Samādhi and paññā are so precious, so valuable, and help me understand and strengthen my sīla. I have developed a much greater appreciation for your explanation of how “all the legs of the tripod support each other.”
Tất cả những điều này chỉ có thể làm được khi có thời gian, và một lần nữa con vô cùng biết ơn về bất kỳ thời gian nào con còn lại. Căn bệnh ung thư có thuyên giảm, nhưng gần đây chúng con phát hiện khối u có thể đang bắt đầu lớn lên trở lại. Chúng con cần sớm kiểm tra việc này. Căn bệnh này có thể rút ngắn cuộc đời con, nhưng ai mà biết được, cũng có thể khối u không lớn lên nữa nhưng thay vì vậy con sẽ chết vì một nguyên nhân khác.
All of this can only be done with time, and again I am so grateful for whatever I have left. The cancer has been in remission, but recently we found that the tumor may have started growing again—we need to check this soon. This disease will probably shorten my life but, who knows, maybe the tumor won’t grow again and I’ll die of something else instead.
Cho dù thế nào đi nữa, hiện giờ con đang ở đây và hiện con đang thể nghiệm cảm giác. Con sẽ cố hết sức để tự giúp mình, và con rất biết ơn để nói rằng, giúp mình tự nhiên cũng có nghĩa là giúp đỡ người khác.
Whatever the case may be, I am here now, I have sensations now. I shall do my best to help myself, which, I’m so grateful to say, automatically means helping others as well.
Xin cảm ơn thầy, Goenkaji, về tất cả sự giảng dạy Dhamma của thầy. Nhờ đó mà cha con, mẹ con, em con, vợ con, bạn bè con và hàng ngàn người không quen biết khác trên thế giới này có thể giúp đỡ chính họ, điều đó có nghĩa là đến lượt họ sẽ giúp đỡ vô số người khác.
Thank you, Goenkaji, for all your Dhamma teaching. Because of it, my father, mother, brother, wife, friends, and unknown thousands of people in the world are able to help themselves, which means they in turn will help countless others.
Với lòng biết ơn vô hạn
và với tâm từ,
John
With so many thanks, and with mettā,
John
Thư của mẹ John
From John’s Mother:
Thầy Goenkaji kính mến,
Dear Goenkaji,
Con biết nói gì đây để bày tỏ lòng biết ơn của con về những lợi lạc vô song mà gia đình con và bản thân con đã nhận được thông qua món quà tặng Dhamma vô giá? Con xin gửi đến thầy, một người kể chuyện quá tuyệt vời, vài ba mẩu chuyện ngắn để minh họa cho năng lực của Dhamma trong cuộc sống của con.
What can I say to express my gratitude for the invaluable benefits my family and I have gained through receiving the priceless gift of Dhamma? I am sending a few short stories to you, such a wonderful story-teller, to illustrate the power of Dhamma in my life.
Câu chuyện thứ nhất
First story
Tháng Một năm ngoái, khi con biết tin con trai trưởng của con là John, 34 tuổi, có một khối u lớn trong não, con đã hoàn toàn bị sốc nặng và kinh hoàng. Đến tháng Hai, John được đưa vào bệnh viện để phẫu thuật não. Trái ngược với những phản ứng của con, con nhận thấy rõ ràng thái độ của John là can đảm và chấp nhận không kháng cự. Thay vào đó, John biểu lộ lòng từ ái và quan tâm đến chúng con, những người đang quá đau khổ trước những sự kiện bất ngờ này.
Last January, when I learned that my eldest son, John, at 34, had a large brain tumor, I was filled with shock and horror. By February he was admitted to hospital for brain surgery. In contrast to my own reactions, I could not fail to notice his courageous and unprotesting attitude. Instead, he showed compassion and caring for those of us who were so distressed by these unexpected events.
Ngay sau ca phẫu thuật kéo dài khoảng 5 giờ liền, con đến thăm John trong phòng hồi sức. Câu đầu tiên con hỏi là: “John, con cảm thấy thế nào?” Với đôi mắt nhắm nghiền và một nụ cười nhẹ thoáng trên khuôn mặt, John đáp lại: “Cảm giác đang sinh khởi, cảm giác đang mất đi.” Sau đó, khi con nhắc lại chuyện này thì John hoàn toàn không nhớ mình đã nói như vậy. Nhưng John kể với con là trước khi vào phòng phẫu thuật, cháu đã bắt đầu việc quan sát cảm giác trong cơ thể với ý định duy trì thực hành này trong suốt thời gian phẫu thuật, cho đến lúc còn có thể.
Shortly after the surgery, which lasted about five hours, I visited him in the recovery room. The first thing I asked was, “John, how are you feeling?” With his eyes closed and a small smile on his face, he replied, “Sensations are rising; sensations are passing away.” Later, when I spoke with him about it, he could not remember saying those words. But he told me that, before entering the operating room, he started observing sensations in his body with the intention of maintaining that practice throughout the surgery, to whatever extent possible.
Con biết rằng điều đáng kể nhất trong nỗi lo lắng của con là sự bất lực không bảo vệ được con trai khỏi biến cố này. Nhưng con đã nhận biết được là Dhamma có thể làm điều đó. Nhờ vào những lợi ích của sự thực hành thiền, con trai con đã chuyển hóa một sự kiện khủng khiếp thành một phương tiện, một quà tặng quý giá để giúp nó thăng tiến trên con đường Dhamma.
I know that a significant aspect of my agitation was my helplessness to save my son from this vicissitude. But I was learning that Dhamma could. Through the benefits of practice, my son was transforming something terrible into a tool, a precious gift to advance on the Dhamma path.
Câu chuyện thứ hai
Second story
Vài ngày sau cuộc phẫu thuật của John, con đến bệnh viện thăm nó. Con đã hỏi về việc thực hành thiền Vipassana. Con muốn biết làm thế nào mà việc hành thiền mang lại cho John sức mạnh đáng kể khi đối mặt với căn bệnh khủng khiếp này. Khi nói về những kinh nghiệm thực hành thiền Vipassana của mình, John bảo con rằng trong một thời gian dài nó vẫn luôn ao ước là ngày nào đó con sẽ tham gia một khóa thiền và nó sẽ phục vụ trong khóa thiền đó.
A few days after John’s surgery I visited him at the hospital. I asked him about his practice of Vipassana. I wanted to know how it gave him remarkable strength in the face of this terrible disease. As he spoke of his experiences with Vipassana, he told me that for a long time he had maintained a wish that one day I would take a course and he would serve on that course.
Trước đây, cả John và em trai nó, Dharma, đều gợi ý rằng con sẽ được lợi ích khi tham gia một khóa thiền. Lẽ tự nhiên là trong nhiều năm con lúc nào cũng quá bận rộn! Đột nhiên, con thấy không còn bận rộn nữa. Dù không biết là John có bao giờ rời khỏi bệnh viện hay không, con vẫn bảo John là khi nó tham gia khóa thiền sắp tới, con sẽ có mặt ở đó. Có vẻ như điều này là đáp ứng một mong ước nhỏ nhoi và là cách để ủng hộ John.
In the past, both he and my younger son Dharma had suggested that I could benefit from attending a course. Naturally, for years I was always too busy! Suddenly, I wasn’t busy any more! Not knowing if John would ever leave the hospital, I told him that the next course he went to, I would be there too. It seemed a small wish to grant and a way to offer my son support.
Con chẳng bao giờ có thể đoán biết những lợi ích con sẽ có được, cũng không ngờ rằng con trai con lại một lần nữa đã chuyển hóa căn bệnh ung thư của nó thành một phương tiện cho món quà của sự giải thoát - món quà của con.
I could never have guessed the benefits I would gain, nor that my son was again transforming his cancer into a vehicle for the gift of liberation—mine!
Câu chuyện thứ ba
Third story
Khoảng ba tháng sau, con cùng đi trên một chiếc xe hơi với John, vợ John là Dhalie và cha John là Carl. Họ đều là những thiền sinh Vipassana nhiều kinh nghiệm. Chúng con đang cùng đi đến Dhamma Kuñja ở bang Washington, nơi con sẽ tham gia khóa thiền đầu tiên trong đời mình. Một khóa thiền kinh khủng! Con đã bị thiêu đốt bởi sự giận dữ và bực tức với những thứ mà thậm chí con không thể gọi tên. Làm sao con trốn thoát được? Làm sao con có thể bỏ chạy khi con trai trưởng của con đang ngồi đó, trong cùng một căn phòng, với một khối u lớn ép chặt bên trong não?
About a month later, I found myself in a car with John, his wife, Dhalie, and his father, Carl, all seasoned Vipassana meditators. We were traveling to Dhamma Kuñja in Washington state, where I was to take my first course. What a course that was! How I burned with rage and resentment against things I could not even name. How could I escape? How could I run away when my eldest son was sitting in the same room, a large tumor pressing on his brain?
Con đã ở lại, và bằng cách nào đó, trong khoảng thời gian ngắn ngủi giữa những lần bị nhấn chìm trong các phản ứng hỗn loạn của chính mình, con đã cố gắng vận dụng phương pháp mà con đang học. Vào khoảng giữa của giai đoạn 10 ngày, con tự hỏi không biết làm sao để nói với con trai rằng con đường này không thích hợp với mẹ nó. Nhưng đến cuối khóa thiền, con lại tự hỏi không biết phải bao lâu mình mới được quay trở lại tham gia lần nữa!
I stayed, and somehow in the small intervals between being engulfed in my own chaotic reactions I tried to apply the technique I was learning. In the middle of the 10 days I wondered how I would tell my son that this path is not for me; by the end of the course I wondered how soon I might return to do it again!
Kể từ đó, con đã tham gia thêm hai khóa thiền 10 ngày và duy trì sự thực hành hằng ngày. Trong một tuần lễ, con dự tính sẽ tham gia một khóa thiền có học kinh Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) ở Dhamma Surabhi, British Columbia. John sẽ tham gia phục vụ ở khóa thiền đó. Để có thể bắt đầu phụng sự Dhamma theo một phương cách nào đó, con đang được huấn luyện để trở thành người làm việc trực tuyến, giúp việc ghi danh các thiền sinh khi họ nộp đơn tham gia khóa thiền.
Since then I have attended two more 10-day courses and maintain a daily practice. In a week I plan to sit a Satipaṭṭhāna Sutta course at Dhamma Surabhi, British Columbia. John will serve on that course. So that I can start to serve Dhamma in some way, I am being trained as an on-line worker to help register students as they apply for courses.
Có lần sau khóa thiền đầu tiên đó, con bảo John rằng: “Con đã ném cho mẹ một sợi dây cứu sinh, nhưng lần đầu tiên khi vừa chộp được rồi nắm lấy, mẹ có cảm giác nó giống một sợi dây điện hơn, và ở đầu này sợi dây mẹ thấy nóng bỏng, vừa chộp vào rồi giật nẩy lên.”
Sometime after that first course I told John that he had thrown me a lifeline, but that when I first grabbed hold it felt more like a live wire, with me sizzling, snapping, and popping on the other end!
Sau khi trở về nhà, con nhận thấy cuộc sống thay đổi tốt hơn theo nhiều cách. Gia đình và bạn bè đều bảo con là họ thấy được một sự thay đổi tốt hơn nơi con. Điều quan trọng nhất là con có thể chia sẻ những giây phút quý giá trong đời sống, biết rằng chúng tất yếu sẽ trôi qua, và đối mặt với khổ đau mà không bị nhấn chìm hoàn toàn trong sự lo âu và sợ hãi.
After returning home, I noticed my life changing for the better in many ways. Family and friends have told me they see a change for the better in me. Most important, I can share the precious moments in life knowing they must pass, and face the suffering without being totally engulfed in anxiety and fear.
Thưa thầy Goenkaji, con cho rằng tất cả những lợi ích này và còn nhiều hơn thế nữa, đều là nhờ vào sự chuyển hóa nội tâm con có được sau khóa thiền đầu tiên. Mối quan hệ giữa con với mọi thành viên trong gia đình đều được cải thiện, và con thật may mắn có thể cùng ngồi thiền với John và Dhalie một cách thường xuyên cũng như thích thú với những buổi trò chuyện về Dhamma với cả hai.
I attribute all these benefits, and more, Goenkaji, to the inner transformation brought about by taking that first course! My relationship with all my family members has improved, and I am fortunate to be able to sit with John and Dhalie on a frequent basis and to enjoy Dhamma conversations with them as well. Their practice-in-action and their loving-kindness have been a constant inspiration to me.
Sự hành trì thực tiễn và lòng từ ái của cả hai là nguồn hứng khởi liên tục đối với con. Thật vô cùng thoải mái khi thấy John đang sử dụng rất tốt thời gian. Vì đã được thôi việc nên thay vào đó hằng ngày John làm việc để truyền bá Dhamma. Giờ đây, các bác sĩ nghĩ rằng khối u trong não của John đã bắt đầu phát triển trở lại. Nhưng nếu sức khỏe cho phép, John sẽ đi Ấn Độ cùng vợ là Dhalie. Và Dhalie sẽ tham gia khóa thiền tự luyện dành cho các thiền sư phụ tá ở Dhamma Giri vào tháng 11. John cũng đã ghi tên vào danh sách chờ để được phục vụ trong cùng khóa thiền đó. Trong tháng Một, con và chồng con sẽ bay sang Miến Điện để gặp vợ chồng John ở đó. Chúng con sẽ viếng thăm nhiều địa điểm thiền Vipassana và hy vọng sẽ tham gia khóa thiền tại một trung tâm ở đó. Chúng con đã được chấp thuận tham gia một khóa thiền 10 ngày ở Dhamma Giri vào cuối tháng Một trước khi quay trở về Vancouver. Những dự tính này có xảy ra hay không thì còn phải chờ xem. Nhưng dù sao đi nữa, sự thật là cuộc đời con đã thay đổi tốt hơn vượt ngoài sức tưởng tượng.
It is a great comfort to see John making the best use of his time. Since he is free from working a regular job, he works instead to spread the Dhamma every day. The doctors now think that his tumor might be starting to grow again. But if his health permits, he will travel to India with Dhalie, and she will sit the Teacher’s Self-Course at Dhamma Giri in November. John is on the waiting list to serve the same course. In January, my partner and I will fly to Burma and join them. We shall visit various Vipassana sites and, we hope, sit a course at a centre there. We have been accepted to sit a 10-day course at Dhamma Giri at the end of January before returning to Vancouver. That these things will happen remains to be seen. Nonetheless, it remains true that my life has changed for the better beyond anything I could have imagined.
Con biết là vẫn còn phải vượt qua một quãng đường dài để phá tan vô minh và chế ngự được những tập khí tham lam, sân hận. Với tất cả những lợi lạc đã có được, con vẫn còn phải rất lâu mới đạt đến sự bình tâm trước một số sự thật nhất định trong cuộc đời, trong đó có cả sự thật là John bị ung thư và các bác sĩ không thể làm được gì để giúp cháu. Con đã quay sang Dhamma như một chiếc bè của cuộc đời con khi sóng to gió lớn. Con sẽ tiếp tục nỗ lực hết sức mình để chèo chống đi về phía trước.
I know I have a long way to go to dispel my own ignorance and to overcome habits of craving and aversion. With all the benefits, I am still far from equanimous about certain facts of life, including the fact that John has cancer and the doctors can do nothing to help him. I have turned to Dhamma as my life raft in these turbulent seas. I will continue to make my best efforts to sail onward.
Giống như con mong muốn được thoát khỏi tham ái, đớn đau và khổ sở, con cầu mong cho tất cả chúng sinh cũng đều được thoát khỏi tham ái, đớn đau và khổ sở.
As I wish to be free from craving, suffering, and misery, May all beings be free from craving, suffering and misery!
Cầu mong cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc.
May all beings be happy!
Với lòng kính trọng và biết ơn,
Một thiền sinh Vipassana kém cỏi.
Laurie Campbell
With respect and gratitude, a humble student of Vipassana,
Laurie Campbell

Ba năm sau

Three years later:
Bà Virginia thân mến,
Dear Virginia,
Tôi rất vui được chia sẻ lá thư tôi đã viết cho thầy Goenkaji. Một thời gian sau khi tôi trao lá thư này cho John để mang đi gửi, John đã hỏi tôi xem liệu tôi có cho phép một phần lá thư được in lại trong một bản tin hay đâu đó đại loại như vậy. Lúc đó tôi đã sẵn sàng đồng ý và sẽ rất vui nếu lá thư này có thể giúp ích được cho bất cứ ai. Bà thấy đó, lá thư của John cũng có ở đây.
I’m happy to share the letter I wrote to Goenkaji. Sometime after I gave it to John to arrange for delivery, John asked if I’d give permission for some part to be printed in a newsletter or some such. I readily agreed at the time and would be happy if it might help anyone else. John’s letter is here too, as you see.
Tôi biết ơn bà đã chia sẻ những câu chuyện của John như một thiền sinh trẻ. Điều này khiến tôi cảm thấy vui.
I appreciated your sharing some stories of John as a young student. It brought a smile to my face.
Tôi còn có thêm một câu chuyện nữa để chia sẻ. Khi John vào bệnh viện lần cuối cùng, đã có lúc tôi nhận ra rằng John rất khó có thể trở về nhà lần nữa. Lúc ấy là đầu tháng 11 năm 2007. Tôi còn nhớ, có một hôm tôi bảo John rằng nếu con sống được qua sinh nhật của mẹ thì từ nay về sau, mỗi năm mẹ đều sẽ thắp cho con một ngọn nến trong tim mẹ. Khi nhớ lại, điều tôi nói đó có vẻ như thật kỳ lạ và đáng sợ. Tôi cũng không biết vì sao mình lại nói thế.
I have one more story to share. When John was in hospital for the last time, at some point I became aware that he was unlikely to go home again. It was early November 2007. I remember saying to him one day that if he were to pass on my birthday, I would light a candle for him in my heart every year thereafter. In retrospect, it seemed a strange, macabre thing to say. I have no idea why I said it.
John qua đời ngày 20 tháng 11, đúng vào sinh nhật lần thứ 59 của tôi. Tôi trải nghiệm sự ra đi của John như món quà cuối cùng dành cho tôi. Tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì để con trai tôi được sống lâu hơn tôi. Tôi biết rất rõ như vậy. Nhưng tôi không có khả năng làm cho điều đó xảy ra, cũng không thể quyết định được điều gì là tốt nhất cho John. Thật ra, tôi cũng không quyết định được điều gì là tốt nhất cho chính tôi.
John died on November 20, my 59th birthday. I experienced his going as his last gift to me. I would have done anything to have my son outlive me—I know that through and through. But I was not in a position to make that happen, nor to decide what was for his own highest good. Nor, actually, what was for mine.
Vào lúc ấy, tôi nghĩ việc John ra đi vào ngày đặc biệt ấy là món quà và một thông điệp kỳ diệu trực tiếp cho tôi – cuối cùng thì John đã thoát khỏi đau đớn, và những tuần lễ cuối cùng, những ngày cuối cùng thật là khủng khiếp với những gì John phải chịu đựng.
At the time, I thought his going on that particular day was an incredibly direct gift and message to me—he was free from suffering at last, and those final days and weeks were terrible for what he endured.
Kể từ đó, [mỗi năm] khi sinh nhật của tôi đến gần, tôi suy ngẫm rất nhiều cả về tình yêu thương rộng lớn đáng kinh ngạc của John, cũng như về cái chết đang tiến đến gần không thể tránh khỏi của chính mình. Tôi biết rằng John đã giúp cho thời điểm buông bỏ [cuộc đời này] của chính tôi được dễ dàng hơn, bất cứ khi nào thời điểm ấy đến. Và trong khi chờ đợi, sự nhận hiểu của tôi về vô thường đã được sâu sắc hơn.
Since then, as my birthday approaches, I reflect both on John and his amazing loving generosity of spirit, and on my own approaching, inevitable death. I know he’s made my own time of letting go easier, whenever it will come. In the meantime, my understanding of anicca has been profoundly deepened.
Kể từ thời điểm John biết mình bị bướu não cho đến lúc qua đời, tiến trình tăng trưởng và phát triển [tâm linh] của chính John được thúc đẩy rất nhanh. Thật tuyệt vời khi quan sát được những khía cạnh gay gắt khó chịu của John dần dần tan biến, và chứng kiến cũng như tận hưởng năng lượng yêu thương mà John chia sẻ không giới hạn với bất cứ ai có dịp gặp gỡ cháu. Gần đến ngày cuối cùng, thật là một đặc ân khi được nhìn thấy sự tan rã của “cái tôi” ích kỷ và sự hiển lộ hoàn toàn bản chất của hiện hữu: lòng thương yêu.
From the moment John learned he had a brain tumor, through to his death, his own personal process of growth and development accelerated. It was amazing to watch his sharp edges melt away, and to witness and enjoy the loving energy he so freely shared with whomever he came in contact. Near the end, it was a privilege to watch the dissolution of his ego and the complete emergence of the essence of being: love.
Không có gì phải ngờ vực, phương tiện mà John đã dùng để chuyển hóa chính là sự thực hành Vipassana. John đã tham gia một khóa học cấp tốc về nghệ thuật sống và đã hoàn tất thật tốt đẹp.
The vehicle for his transformation was his practice of Vipassana, there is no doubt. John took a crash course in the art of living and came through in fine form.
John đã cực kỳ may mắn khi nhận được món quà Dhamma thông qua cha mình. Ta không thể nhìn thấy sự kỳ diệu trong lộ trình của John nếu không có ảnh hưởng của cha là Carl. Và trong lòng mình, tôi nợ Carl một món nợ lớn của lòng biết ơn vì đã đưa cả hai đứa con trai của tôi đến với Dhamma. Tôi mãi mãi mắc nợ anh ấy, nhưng rồi như anh ấy đã chỉ ra cho tôi, những sự thăng trầm và món nợ này còn phải mở rộng để bao gồm cả những người đã giúp đỡ anh ấy trên con đường tu tập, và tiếp tục trở ngược lên nữa đến các bậc thầy và thiền sinh trước đây, mãi cho đến điểm khởi đầu từ đức Phật.
It was his great good fortune to receive the gift of Dhamma through his father. One can’t see the miracle of John’s journey exclusive of Carl’s influence, and in my heart I owe Carl a huge debt of gratitude in bringing both of our sons to Dhamma. I am forever in his debt, but then, as he has pointed out to me, the ripples and the debt spread out to include all who helped him along the path, back and back through teachers and students, all the way to the Buddha.
Quả thật là một hành trình tuyệt vời – dù đau đớn nhưng thật phong phú với những món quà của lòng yêu thương và bi mẫn. Rất nhiều điều đã đến với tôi, bao gồm cả lòng tốt của nhiều người đã xúc động trước John và đến lượt họ lại hào phóng cởi mở chính bản thân họ với tôi.
It has been an amazing journey—painful, and yet rich with gifts of love and compassion. So much has come my way, including the loving-kindness of many who were touched by John and in turn magnanimously extended themselves to me.
Mặc dù vậy, tôi e rằng tôi hoàn toàn không giống với một số tác giả khác xuất hiện trong quyển sách của bà. Khi ngày giỗ của John đến gần, tôi nhận biết nỗi đau đớn khủng khiếp của sự mất mát, sự trỗi dậy của nỗi buồn đau hầu như không che giấu. Bất kể là tôi lão luyện như thế nào trong việc vận dụng lý trí để biện rõ lý lẽ, và ngay cả trong những lúc có nhiều tri thức trọn vẹn hơn, thì sự thật cay đắng về cái chết của John vẫn khiến tôi đau đớn không thể nói hết bằng lời.
I’m afraid, though, that I’m not at all like some of the writers who people your book. As the anniversary of John’s death approaches I’m aware of the awful pain of loss, the resurfacing of barely concealed grief. However adept I may be at employing my intellect to make sense of it all, and even in times of more integrated knowing, the harsh fact of his ending still grieves me beyond speech.
Tôi không được bình tâm và điều tốt nhất tôi có thể làm là ngồi xuống cùng với nỗi đau, cố gắng vận dụng lòng bi mẫn đối với sự bám chấp dường như bất trị của tôi. Tôi biết tất cả nỗi đau này [khởi sinh] chỉ là do ở chính tôi, những gì tôi muốn, cách thức tôi ao ước vũ trụ này được sắp xếp. Liệu tôi có nên đau buồn về việc con trai tôi thoát khỏi cuộc sống khổ đau này? Về việc con trai tôi đã chuyển hóa thành công phần thô xấu nhất của kim loại thành vàng ròng? Liệu tôi có nên đau buồn về việc con trai tôi nuôi dưỡng được lòng yêu thương ngày càng lớn mạnh đến mức cuối cùng chỉ duy nhất có yêu thương còn lại?
I am not equanimous, and the best I can do is sit with the pain, endure, and try to apply compassion to my seemingly intractable clinging. I know the grief is all to do with me, what I want, how I wish the universe to be ordered. Should I grieve that my son is free of this lifetime’s suffering? That he was successful in transforming the basest of metals to gold? Should I grieve that he grew and grew in love until that was all that remained?
Khi tôi nghĩ về các con, tôi thật kinh ngạc. Chúng đã là những bậc thầy trên quá nhiều cấp độ, và tôi thật lạ lùng là bằng cách nào đó tôi đã có được chúng trong cuộc đời tôi. Đến nay, John ra đi đã gần ba năm rồi, nhưng theo nhiều ý nghĩa, cháu vẫn đang ở bên tôi, ảnh hưởng đến tôi và dẫn dắt tôi. Tôi thật là người mẹ may mắn nhất!
When I think of my children, I am amazed. They have been teachers on so many levels, and I’m in awe that somehow I have had them in my life. John has been gone almost three years now, yet in many ways he is with me still, influencing and guiding. I am a most fortunate mother.
Với tất cả tâm từ,
Laurie
With all the mettā,
Laurie

    « Xem chương trước «      « Sách này có 26 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vô niệm (Pháp bảo Đàn kinh)


Gió Bấc


Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 2


Sống đẹp giữa dòng đời

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.16.70.247 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...