Câu chuyện này do người vợ góa của Graham Gambie, bà Anne Doneman kể lại, cho thấy sự bình tâm được trải nghiệm bởi một thiền giả đã gặt hái nhiều lợi lạc từ Dhamma. Đây là trích đoạn từ câu chuyện dài hơn ban đầu được đăng tải trong Realizing Change - Vipassana Meditation in Action, do Viện nghiên cứu Vipassana xuất bản tháng 7 năm 2003, trang 168.
This account by Graham Gambie’s widow, Anne Doneman, reveals the peace of mind experienced by a meditator who has reaped the benefits of Dhamma. It was excerpted from a longer piece originally published in Realizing Change—Vipassana Meditation in Action, Vipassana Research Institute, July 2003, p. 168.
Chúng tôi trở về nhà ở Australia vào tháng Hai và hướng dẫn một khóa thiền 10 ngày vào tháng Năm. Graham dường như trong trạng thái sắp ngã quỵ lúc bắt đầu khóa tu. Trong thiền đường, anh gần như không còn tỉnh táo lúc trên bục, và khi đưa ra lời hướng dẫn, anh không thể đặt câu chính xác. Buổi tối, hơi thở anh gần như không thể nghe được. Chúng tôi càng lúc càng lo lắng hơn và đã gọi điện thoại cho một bác sĩ thần kinh ở Sydney để sắp xếp cuộc hẹn vào ngày cuối khóa tu, dự tính sẽ bay đi New Zealand vào ngày kế tiếp.
We returned home to Australia in February and in May conducted a 10-day course. Graham appeared to be in a state of near-total collapse at the beginning of the course. In the meditation hall, he was barely conscious on the dais and when he gave instructions he could not construct a sentence correctly. At night his breathing was barely audible. Our concern grew, and so we telephoned a neurologist in Sydney and made an appointment for the day the course ended, intending to fly to New Zealand on the following day.
Thật may mắn, vào ngày thứ 10 Graham hoàn toàn tỉnh táo và hồi phục rõ rệt. Sau khóa tu, chúng tôi đến Sydney gặp vị bác sĩ khoa thần kinh. Thoạt đầu, ông cho rằng sự suy sụp rất có thể chỉ là chứng mất trí nhớ ngắn hạn đôi khi xảy ra cho những người làm việc văn phòng. Tuy nhiên, ông vẫn yêu cầu chụp CT não. Trong khi chờ đợi kết quả, Graham và tôi đã thưởng thức một bữa trưa đặc biệt. Chúng tôi quay trở lại gặp bác sĩ. Ông không nói một lời nào, chỉ rút những tấm phim từ hồ sơ ra, đặt lên máy chiếu. Ông chỉ ra một khối u dường như chiếm hết 50% bán cầu não trái. Trên đỉnh khối u là một u nang rất lớn.
Fortunately, by Day 10 Graham was fully alert and apparently totally recovered. After the course we traveled to Sydney and met the neurologist, who initially dismissed the lapse as probable short-term memory loss from which white-collar workers sometimes suffer. However, he ordered a CT brain scan, and while waiting for the results Graham and I enjoyed a special lunch. We returned to the neurologist who, without saying a word, took the films from their folder and placed them on a display panel. He pointed out a tumor that filled what seemed to be 50 percent of the brain’s left hemisphere. On top of the tumor was a very large cyst.
Tôi chết điếng cả người, không còn nhận biết được gì nữa cả. Đúng rồi, hẳn là chúng tôi phải hủy bỏ vé máy bay đi New Zealand. Đúng rồi, có lẽ chúng tôi phải đưa Graham thẳng vào bệnh viện chiều hôm đó. Rồi nỗi đau tê điếng vỡ òa thành nước mắt khi tôi gọi điện thoại để thu xếp chỗ ở với những người bạn thân ở Sydney. Tôi không nói rõ được với họ chuyện gì đã xảy ra, nên Graham cầm lấy điện thoại và tự thu xếp mọi việc. Anh bình tĩnh và tự chủ.
I was numb and uncomprehending. Yes, we would cancel our air tickets to New Zealand. Yes, we could get Graham directly into hospital that afternoon. The numbness turned to tears as I phoned to arrange accommodation with dear friends in Sydney. I wasn’t making sense explaining to them what was happening, so Graham took the telephone and made the arrangements himself. He was calm and collected.
Trong khi đưa Graham vào bệnh viện, để chắc chắn là anh được thoải mái, tôi gắng giữ vẻ ngoài vui tươi. Nhưng ngay lúc vừa rời anh là tôi lại rơi nước mắt. Buổi tối đó, trong khi ngồi thiền, một cảm giác bình an sâu sắc khởi sinh. Cảm giác này sẽ ở lại với tôi suốt thời gian Graham chịu khổ nạn. Đó không phải là sự bình an đến từ tư duy hay lý trí, mà chỉ là một điều gì đó “đột phát tự nhiên”.
While getting Graham into hospital and making sure he was comfortable, I somehow managed to be outwardly cheerful. But as soon as I left his company I was in tears again. That night, as I meditated, a deep sense of peace arose that was to stay with me throughout Graham’s ordeal. It was not the peace that comes from rationalization or intellectualization; it was just something that “kicked in.”
Hai ngày sau, Graham trải qua phẫu thuật. Bác sĩ phẫu thuật không thể loại bỏ toàn bộ khối u và do đó tiên lượng không tốt. Bác sĩ phẫu thuật thần kinh cho chúng tôi biết, vì tính chất của khối u thuộc loại tế bào hình sao (astrocytoma), anh chỉ có thể sống tối đa là 5 năm - và cuối cùng anh sẽ phải sống đời thực vật.
Within two days Graham was under the scalpel. The surgeons were not able to remove the entire tumor and, consequently, the prognosis was not good. The neurosurgeon told us that, due to the nature of the tumor, an astrocytoma, he had a maximum of five years to live—and by the end, mentally, he would be a vegetable.
Thật là tin thảm khốc, nhưng anh vẫn điềm tĩnh đón nhận. Có một lần, tôi nghe anh nói với khách đến thăm: “Làm sao tôi có thể bám víu vào tấm thân và khối óc này khi chúng không ngừng thay đổi? Không có gì để nắm giữ cả.” Những người bạn ký giả, đồng nghiệp, cảnh sát liên lạc và những người anh quen biết qua thiền tập đã đến thăm anh. Một bạn đồng nghiệp nêu nhận xét: “Tôi tưởng rằng đến đây để thăm một người bệnh nằm liệt giường và an ủi anh. Thay vì vậy, cuối cùng tôi lại kể lể với anh đủ thứ rối rắm của mình và quên mất vấn đề của anh.”
Such news was devastating, yet he took it in his stride. I once heard him say to visitors, “How can I be attached to this body and mind when they are constantly changing? There is nothing to hold onto.” Fellow journalists, workmates, police contacts, and those whom he knew through meditation came to visit him. One colleague remarked, “I came expecting to see a body on the bed and to console him. Instead I ended up telling him all about my problems and forgot about his.”
Nhiều ngày trôi qua, và tôi cảm thấy thật biết ơn vì mỗi ngày được ở bên cạnh anh. Anh được bệnh viện cho về, nhưng phải trở lại trong vòng 10 ngày. Anh gặp khó khăn với đôi chân đã trở nên quá yếu ớt gần như không thể bước đi.
The days passed—and I am grateful to have spent every one of them at his side. He was discharged from hospital but within 10 days was back in again. He was having difficulty with his legs, which had become so tender that he could barely walk.
Vào sáng ngày 27 tháng 6, sáu tuần sau khi khối u được chẩn đoán, tôi đến bệnh viện. Trong đầu tôi chỉ có một ước muốn là được kề cận bên anh ngày hôm đó - nhất định không chạy lăng xăng đi lo những việc khác. Chúng tôi đã có được những giây phút trìu mến bên nhau, và buổi tối đó trong lúc chia tay, tôi cảm thấy muốn được gần anh hơn nữa. Tôi lên ngồi một bên giường và bắt đầu thoa son. Anh hỏi: “Sao vậy?” Tôi trả lời là tôi muốn anh thấy tôi đẹp trong mắt anh. Thế là anh tiếp tục nói những lời ngọt ngào rằng tôi đã là một người vợ tuyệt vời như thế nào và anh cảm thấy thế nào. Tôi thấy mình hạnh phúc và anh cũng hạnh phúc. Chúng tôi nói lời từ biệt.
On the morning of June 27, six weeks after the tumor had been diagnosed, I arrived at the hospital. All I could think of was that I really wanted to be close to him that day—there would be no popping out to run errands. We had a lovely time together, and that night while saying goodbye I felt I couldn’t get close enough to him. I hopped up on the side of the bed and began to put on lipstick. He asked, “Why?” I said I wanted to look nice for him. He then went on to say the sweetest things about what a wonderful wife I was and how he felt. I was happy and he was happy. We said goodbye.
Sau buổi ăn tối hôm đó, tôi đang tận hưởng ngụm cuối cùng của ly sô-cô-la nóng. Tôi hít vào một hơi, cảm nhận sâu sắc sự bình an và tĩnh lặng hoàn toàn trong giây phút đó. Chuông điện thoại reo, một cô y tá phụ gọi hỏi tôi có thể đến ngay được không? Graham đang bị một cơn nhồi máu cơ tim (sau đó được biết là do một cục máu đông làm nghẽn mạch). Nhưng rõ ràng là không cần phải vội vã nữa. Anh đã ra đi.
After dinner that night I was enjoying the last sip of a hot chocolate. I took a breath and at that moment experienced a deep sense of absolute peace and tranquility. The phone rang, a junior nurse calling—could I come quickly? Graham was having a heart attack (later found to have been caused by a blood clot). But it was clear that there was really no need to hurry. He was gone.
Đó là ngày thứ Sáu, những phút cuối ngày. Khi tôi đến bệnh viện, những ngọn đèn neon sáng rực và nhiều người đang ra ngoài tản bộ, mua sắm, ăn uống. Cảm giác sợ hãi và yếu đuối bỗng sinh khởi. Bức tranh bất chợt của cuộc sống như thế không thể tin vào được. Những gì dường như rất thật, rất thường hằng, chỉ là ảo ảnh. Tất cả chúng ta đang bước trên lớp băng bề mặt rất mỏng, không thấy được sự thật là ta có thể sụp ngã xuyên qua đó bất cứ lúc nào.
It was Friday, late. As I traveled to the hospital, neon lights were shining and people were out strolling, window shopping, eating. Feelings of fear and vulnerability arose. Such a casual picture of life could not be trusted. What seemed so real, so permanent, was an illusion. We were all walking on very thin ice, blind to the fact that we could fall through at any moment.
Tôi đến bệnh viện và leo cầu thang lên phòng, nơi chúng tôi vừa trò chuyện chỉ vài giờ trước đó. Phòng trống không, nhưng ngay lập tức tôi bị lay chuyển bởi những rung động trong không gian. Hoàn toàn chắc chắn là không có ai ở đây. Mặc dù thân xác Graham còn nằm trên giường, nhưng trông giống như một chiếc áo choàng bị vất đi, không còn dùng được. Đó là tất cả những gì còn lại của một con người tôi vừa được chia sẻ bốn năm vô cùng đặc biệt trong cuộc đời mình.
I arrived at the hospital and went upstairs to the room where we had exchanged words only hours before. It was deserted, but I was immediately struck by the vibrancy of the atmosphere. It was entirely clear that no one was there. Though Graham’s body lay on the bed, it looked like a cast-off coat that could no longer serve its owner. This was all that remained of the person with whom I had just spent four very special years of my life.
Anh đã sống một cuộc đời tuyệt vời biết bao! Tôi nhận được những lá thư từ nhiều người đã biết anh trước đây, mỗi người nhắc lại một điều gì đó Graham đã từng giúp họ. Tôi nghe những mô tả về anh, như khi đến Ấn Độ anh sẵn sàng trao đồng rupee cuối cùng của mình cho ai đó cần đến, anh cho những trẻ em đường phố ăn với số tiền anh nhận được từ một khoản đầu tư ít ỏi của mình. Khi tôi hiểu ra anh đã yêu thương và giúp đỡ mọi người nhiều như thế nào trong suốt thời gian chúng tôi có nhau, thật hiển nhiên là những hành động tốt đẹp tuyệt vời anh đã từng làm giờ cũng đi theo cùng anh.
What a wonderful life he had lived. I received letters from people who knew him in the past, each one recounting something that Graham had done to help them. I heard how, when he was traveling in India, he would give his last rupee to someone who needed it, how he used to feed street children with money he received from a small investment he had. When I realized how much he had loved and helped others during the time we had together, it became evident that the wonderful good deeds he had performed had all gone with him.
Không còn nước mắt nữa. Sao có thể khóc chứ? Mối quan hệ yêu thương đã đến hồi kết trọn vẹn. Không có gì chưa nói ra hay chưa giải bày. Quả thật, đó là điều khó nhất tôi đã từng làm, nhưng kết quả thật quá nhiều và quá tuyệt vời. Tôi thật sự may mắn được chia sẻ một phần ngắn ngủi trong đời mình với một người như vậy.
There were no more tears. How could there be tears? The relationship had come full circle. There was nothing left unsaid or unresolved. Yes, it had been the hardest thing I had ever done, but the fruits were so great and so numerous. I was truly fortunate to have briefly shared my life with such a human being.
Trong tang lễ anh, những dãy ghế ngồi đều chật kín và người ta xếp hàng dọc theo bờ tường. Họ đã đến từ những tín ngưỡng khác nhau, từ mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội, mỗi người có một lý do riêng để viếng tang anh. Thật lạ lùng khi quay về nhà nhìn thấy quần áo anh chỉ như anh vừa mới cởi ra và biết rằng không còn ai là chủ sở hữu nữa.
At the funeral the pews were full and people lined the walls. They came from all persuasions, from all walks of life, each with his or her own personal reason for being there. It was strange to return home to see his clothes just as he had left them, and to know that there was no one to claim ownership.
Phuṭṭhassa lokadhammehi,
cittaṃ yassa na kampati,
asokaṃ virajaṃ khemaṃ;
etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
Phuṭṭhassa lokadhammehi, cittaṃ yassa na kampati, asokaṃ virajaṃ khemaṃ; etaṃ maṅgalamuttamaṃ.
—Maṇgala Sutta, Sutta Nipāta 2. 271
Khi đối diện với những thăng trầm trong cuộc sống,
Vẫn giữ được tâm kiên định,
Vượt thoát những sầu đau, bất tịnh hay sợ hãi.
Đó chính là hạnh phúc cao cả nhất.
- Kinh Hạnh phúc, Kinh Tập, Tiểu Bộ Kinh 2. 271
When faced with life’s vicissitudes, one’s mind is unshaken,
free from sorrow, impurity or fear.
This is the highest welfare.
—Maṇgala Sutta, Sutta Nipāta 2.271
Handadāni, bhikkhave, āmantayāmi vo,
vayadhammā saṅkhārā,
appamādena sampādetha.
—Mahāparinibbāna Sutta, Dīgha Nikāya 2. 185
Handadāni, bhikkhave, āmantayāmi vo, vayadhammā saṅkhārā,
appamādena sampādetha.
Này các tỳ-kheo, ta thúc giục các ông:
Hết thảy các pháp hữu vi đều mang bản chất hư hoại.
Hãy nỗ lực tinh cần.
—Kinh Đại Bát Niết-bàn, Trường Bộ Kinh (2. 185)
Now, monks, I exhort you:
All conditioned things have the nature of decay.
Strive on diligently.