Ông Trần Văn Tôn sinh năm 1928, cư ngụ tại Bích Vàm, thuộc ấp Qui Thạnh II, xã Trung Nhứt, huyện Thốt Nốt tỉnh Cần Thơ. Cha tên Trần Văn Chi, mẹ là Mai Thị Tám. Ông có hết thảy bốn anh em và đứng thứ Tư trong gia đình.
Năm lên 27 tuổi, ông thành hôn với bà Nguyễn Thị Hoằng, sinh được sáu người con, ba trai, ba gái. Hai ông bà canh tác mấy công ruộng làm phương kế sinh nhai.
Ông có bản tính hiền lành, thật thà, chất phác mộc mạc. Ngay thuở còn thơ ấu, ông đã biết tin tưởng Phật Trời, lý nhân quả tội phước.
Tư cách đối nhân xử thế của ông rất mực từ hòa, trung hậu, từ trong nhà ra ngoài hàng xóm, chưa từng có chuyện cự cãi mích lòng. Vì thế nên ông được mọi người tôn kính mến thương.
Ông rất ưa xem kinh sách, vừa ứng dụng vào đời sống hằng ngày, vừa giáo dưỡng con cái, dạy con trau sửa thân tâm, luôn hướng về giải thoát. Nhưng nền tảng căn bản vẫn là “Đạo Làm Người”. Ông đã dùng thân hạnh của mình làm gương cho chúng noi theo, hơn là ngôn ngữ, lý luận suông.
Ông luôn ôn hòa, dịu dàng chỉ dạy con cái từ ly từ tý: “Phải thương yêu, đùm bọc lẫn nhau…” Mỗi khi chúng có lỗi lầm, đến chiều tối, ông kêu lại giải bày lẽ tốt xấu, hay dở, đúng sai… để cho con hiểu rồi tự nguyện, tự giác sửa lỗi.
Đối với giấy có chữ và chân nhang, không được vất bỏ bừa bãi, mà phải cho vào thúng, chừng nào đầy đem đốt, thả tro xuống sông.
Ông thường kể cho các con nghe những chuyện về nhân quả, lợi ích của sự niệm Phật… Đặc biệt, là cách thức hành trì trong đời sống hằng ngày:
- “… Con người sống đây như cõi tạm, con ơi! Đầy khổ sở!… Ráng niệm Phật cầu vãng sanh!”
- “… Môn niệm Phật dễ hành lắm, con ơi! Cuốc từng cuốc đất, bước từng bước đi, mình đều niệm Phật được. Vừa đi vừa niệm Phật thanh nhàn lắm con ơi!..”
Sau năm 1975, hai ông bà đồng phát tâm trường chay tu hành. Ngoài hai thời lễ Phật sớm chiều, ông còn tham gia cầu an, cầu siêu các nơi và dự khóa niệm Phật định kỳ mỗi tháng, ở nhà chư đồng đạo đó đây.
Nhà đối diện bên kia rạch, có người cháu sống độc thân, tu hạnh giải thoát, ông thương vị này lắm. Vị này thỉnh thoảng cũng sang chơi, ông thường khuyến khích:
- “Bác rất tin tưởng nơi cháu! Được thân người là dịp may muôn thuở… ráng tu mà giải thoát kiếp này! Ráng niệm Phật cầu vãng sanh… Cuộc đời này khổ lắm, ráng tu đừng có chậm trễ. Nếu để thời gian trôi qua rồi đâu kéo lại được, xong mất một đời, uổng lắm…!”
Ông còn đem kinh sách cho vị này tham khảo. Vì biết tuổi trẻ rất khó giữ vững lý tưởng giác ngộ, dễ bị sắc hương rù quyến, danh lợi cuốn lôi… nhất là những khi đường xa gánh nặng, mỏi bước chùn chân.
“ Có nhiều kẻ ngã lòng bỏ cuộc,
Dù đường tu đã bước bao năm.
Nhưng vì thiếu tự tín tâm,
Cho nên mới bị đời làm bỏ tu.
Những hôm sớm công phu từ trước
Khác nào cây thường được tưới tăng.
Gần ngày có trái sắp ăn,
Tự tay người nỡ chặt phăng cội cành.”
Những năm tháng về chiều, công phu hành trì của ông càng cần chuyên tinh tấn. Thỉnh thoảng, ông cũng đan vài cái rổ, cái xề cho bà đi theo lối xóm bán, để đổi tàu hủ, tương chao… Ông làm với tính cách thể dục, vừa làm vừa niệm Phật nên rất thư thả, thong dong. Bởi ông đã hạ quyết tâm:
“An phận nghèo,
Vui với Đạo!
Buông bỏ muôn duyên trần giả tạo.
Kiếp người định số đã an bày,
Quyết thẳng về Tây Phương ngồi sen báu.”
Và:
“Tóc sương thay mái đầu xanh,
Một đời sự nghiệp nghĩ thành không hoa!
Soi bổn phận, lánh đường tà.
Âm thầm thời tiết đổi.
Lặng lẽ tháng ngày qua.
Kíp mau tìm đến chơn thường lộ,
Dám chậm chờ xem bệnh tử mà!
Cõi Phật đâu xa cách?
Về chăng chỉ tại ta!
Mỗi niệm chỉ cần không thối chuyển.
Ao vàng đã sẵn có Liên Hoa.
Thân tàn về cõi báu,
Sen nở thấy Di Đà!”
Năm 2000, lúc này ông 72 tuổi. Đêm nọ trong cơn ngủ nửa tỉnh nửa mê, ông nghe tiếng ồn ào của đoàn người đi ngang qua nhà. Có tiếng bước chân của ba, bốn người ghé vào gần tới cửa định gõ. Họ nói với nhau:
- “Bắt ông này đi! Bắt ông này đi!”
Bỗng, có tiếng của một ông cụ, cũng từ trong đoàn người ấy vọng lại:
- “Thôi! Ông già đó niệm Phật, hiền muốn chết mà bắt cái gì!”
Ông chợt giật mình thì hay trời đã giữa khuya.
Sức khỏe của ông rất tốt, quanh năm suốt tháng ít khi bệnh, dù chỉ bệnh xoàng.
Vào khoảng rằm tháng 10 năm 2002 ông bị cảm sốt dây dưa. Vài ngày sau, gia quyến đưa ông đi Bệnh Viện Đa Khoa Thốt Nốt điều trị mười ngày. Buổi đầu, bác sĩ chẩn đoán là viêm phổi. Sau đó, xác định là lao phổi, liền chuyển qua khoa lao. Vài ngày, khám kỹ lại thì bác sĩ chẩn đoán là không có lao, mà cũng không còn viêm phổi, bèn cho xuất viện ra về. Lúc này, sức khỏe của ông trở lại bình thường.
Về nhà được ba hôm, sáng ngày mùng 1 tháng 11 năm 2002 khoảng 10 giờ, ông lên cơn mệt, gia quyến chạy đi cho đồng đạo hay, cùng kéo đến hộ niệm. Ông nhờ người nhà thay y phục, đồng thời nói với mọi người:
- “Một giờ tui đi! Đi trước đám mưa!”
Chương trình trợ niệm bắt đầu từ 12 giờ, ông nhép môi niệm theo. Niệm mãi cho đến 1 giờ 20 chiều, ông tự sửa tay chân, nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng, gương mặt tươi đẹp, nhuận sáng lạ thường. Ông hưởng thọ 74 tuổi.
Cũng cùng lúc đó, bầu trời đang quang đãng, bỗng nhiên kéo mây rồi đổ một cơn mưa. Mưa vài phút, vừa đủ ướt áo thì nắng chói chang trở lại.
Đồng thời cũng lúc này, một đám con nít vào đầy chật cứng cả nhà, đứng xếp hàng chấp tay niệm Phật, giọng rất đều và rất thành khẩn trang nghiêm!
Một liên hữu có mặt hết sức kinh ngạc qua hiện tượng kỳ lạ hiếm có này!
**********
Bà vợ của ông tên là Nguyễn Thị Hoằng, hạnh đức và sự hành trì đại để tương tự như ông. Khi ông đã qua đời, bà thường hay nói:
- “Chừng nào tao mất, con cháu khỏi phải lo thuốc men, nuôi nấng, giặt giũ đồ đạt gì cho tao hết!”
Bà có thói quen là mỗi trưa đều đi tắm, tắm xong tự giặt đồ, rồi đến trước ngôi Tam Bảo lễ Phật.
Chiều mùng 3 tháng 2 năm 2004, bà hơi mệt. Các con đưa bà đến bác sĩ Huỳnh Lợi, ở Thốt Nốt chích thuốc. Tối về, bà khỏe lại bình thường.
Trưa hôm sau, khi tự tắm giặt xong, bà lên cơn mệt trở lại, giây lát thì từ trần. Lúc ấy đúng 12 giờ trưa, ngày mùng 4 tháng 2 năm 2004, bà hưởng thọ 72 tuổi. Quả đúng y như điều hằng ngày bà thường nhắn nhủ.
(Thuật theo lời Trần Văn Hiền, Trần Văn Long,
các con của hai ông bà và liên hữu Ba Tốt)