Bà Nguyễn Thị Hai sinh năm 1947, nguyên quán huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Cha là cụ ông Nguyễn Văn Bền, mẹ là cụ bà Lê Thị Tư.
Khi đến tuổi trưởng thành, bà kết hôn với ông Nguyễn Tấn Thành, sinh được một trai và một gái, cư ngụ tại ấp Mỹ Phú, xã Định Mỹ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Gia đình bà sống bằng nghề làm mướn.
Theo tập tục cổ lệ, bà dùng chay kỳ mỗi tháng bốn ngày, sáng chiều cũng lễ Phật, niệm Phật nhưng thời gian rất ngắn.
Bà có đức tính hiền hòa, đối với lối xóm chưa hề cãi vã mích lòng một ai.
Ngày 18 tháng 12 năm 2013, đột nhiên bà phát bịnh nặng, đưa đến Bệnh Viện Đa Khoa huyện Thoại Sơn, hai ngày sau chuyển ra Bệnh Viện Đa Khoa An Giang. Bác sĩ chẩn đoán là “Khối u gan ác tính” nên đề nghị gia đình làm thủ tục chuyển lên Sài Gòn. Nhưng gia đình nghèo khó, không đủ điều kiện chữa trị nên xin xuất viện, nhằm ngày 23 tháng chạp.
Về nhà bà liền phát tâm trường chay, ông chồng cũng hưởng ứng ăn chay theo bà để hồi hướng cho vợ mình.
Không bao lâu, đến ngày 16 tháng 2 năm 2014 bịnh tái phát dữ dội, người thân đưa bà vào Bệnh Viện Đa Khoa Thoại Sơn. Ở đây được 6 ngày, bác sĩ khuyên ông chồng:
- “Thôi! Chú đem cô về đi! Lên thành phố vô hóa chất rụng tóc hết mà sống được một năm rồi cũng chết hà! Hơn nữa, chú không có khả năng, nghèo quá… nên thôi đi!”
Về nhà, bà quyết lòng niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Ông chồng luôn ở bên cạnh để đốc thúc bà cố gắng hành trì.
Sau rằm tháng 3, bà nhờ chồng mời Ban Hộ Niệm. Ngày 23 tháng 3 năm 2014, Ban Hộ Niệm của liên hữu Sáu Phúc đến cộng tu, suốt một tháng rồi ngưng một tuần. Đợt sau, đến cộng tu và hộ niệm thêm 10 ngày nữa thì bà mãn phần.
Những ngày mới cộng tu, có lần bà nghe văng vẳng bên tai có tiếng nói:
- “Thôi! Niệm Phật đầy bụng rồi, đừng có niệm nữa!”
Biết đây là oan gia trái chủ nên đồng đạo đã khai thị, hướng dẫn bà phóng sanh và sám hối, một lòng thành tâm khẩn thiết niệm Phật, nguyện sanh Cực Lạc. Sau đó thì không còn nghe nữa.
Thân quyến của bà đi hốt thuốc Nam và mua thuốc Tàu cho bà uống, hầu giảm đi những cơn đau hành hạ, nhưng đến ngày mùng 2 tháng 5 năm 2014 khi người nhà sắc thuốc bưng đến thì bà không chịu uống, khi hỏi lý do thì bà trả lời:
- “Bây giờ không uống thuốc nữa, chỉ mong chết được vãng sanh mà thôi!”
Bỡi thấy thuốc không còn tác dụng, và không muốn bị phân tâm nên bà luôn hoan hỉ chấp nhận trả nghiệp, càng đau thì càng niệm Phật, không hề rên than. Mắt bà luôn chăm chú hướng về tấm ảnh Đức Phật A Di Đà mà Ban Hộ Niệm đã treo trên vách, tay luôn lần chuỗi, miệng luôn nhép môi niệm Phật, có khi niệm ra tiếng,chồng con luôn kề cận hộ trợ liên tục. Bởi vì, bà đã quá chán ngán cõi trầm luân qua lời khai thị của Cổ Đức:
“Kiếp chúng sanh vô thường,
Cõi thế gian mộng mị.
Cứ nối nhau sanh thành,
Cứ nối nhau tiêu hủy.
Không phải là mới đây,
Mà đã từ vô thủy.
Khổ lão không thể ngăn,
Khổ tử không thể trị.
Thời đại có khác nhau,
Sống chết vẫn một lý.
Đen trắng khác mặt mày,
Vui buồn đồng tánh ý,
Sống theo lối cảm tình,
Sống theo lòng ích kỷ.
Nào tha thiết ái ân,
Nào mong cầu danh vị.
Kẻ trẻ chưa vừa lòng,
Người già chưa mãn ý.
Ai cũng muốn trường sanh,
Ai cũng muốn phú quí.
Bệnh tật ai cũng ghê,
Chết chóc ai cũng kỵ.
Nhưng bệnh tật khó lìa,
Nhưng chết chóc khó tị.
Ai cũng tốn công lao,
Ai cũng hao tâm trí.
Thân sống không giữ còn,
Muốn ham chẳng được phỉ.
Định mạng của người đời,
Xưa nay không sai dị.
Người cũng nên tỉnh hồi,
Người cũng nên suy nghĩ.
Giải thoát kiếp vô thường.”
Nên:
“Kiếp này nguyện cõi Tây Phương trực chỉ,
Đức Di Đà thọ ký mới là ưng.
Cánh sen vàng đem thay cái nhục thân,
Kiếp sanh tử luân trầm không còn nữa!”
Đến ngày mùng 9 tháng 5 năm 2014, nhận thấy thể trạng của bà đã cạn kiệt vì đã hai tuần lễ ngưng ăn nên Ban Hộ Niệm tập trung toàn bộ lực lượng, hộ niệm cho bà. Tới gần 5 giờ chiều, bà đang niệm Phật thảnh thót theo đại chúng, bỗng dưng niệm đến chữ Đà thì dừng lại. Ai cũng ngỡ bà ra đi ngay lúc ấy, nhưng kéo dài hơn mấy mươi phút mà vẫn chưa dứt hơi. Ông chồng bèn đề nghị Ban Hộ Niệm tạm ngưng, ra ngoài nghỉ một tí để cho cô con gái tắm rửa, vệ sinh cho bà. Sau khi xong xuôi, mọi người trở vào, tiếp tục hộ niệm thì bà cũng chấp tay nhép môi niệm Phật theo mọi người. Khoảng 15 phút sau thì bà mỉm cười hai lần, rồi nhẹ nhàng vãng sanh, đúng vào lúc 5 giờ 30 chiều ngày mùng 9 tháng 5 năm 2014. Bà hưởng thọ 67 tuổi.
Cuộc hộ niệm vẫn tiếp tục duy trì cho đến sáng hôm sau. Khi khám nghiệm, các khớp xương đều mềm mại, đặc biệt là gương mặt xinh đẹp lạ thường.
(Thuật theo lời Nguyễn Tấn Phương, chồng của bà)
**********
Có hai bạn đồng tu cảm kích, kính tặng bà vài dòng thi như sau:
“Chị Hai mang bịnh ngặt nghèo,
Khối u ác tính nó đeo vào mình.
Khốn thay hoàn cảnh gia đình,
Gạo tiền giới hạn cảnh tình rất nguy!
Sâu duyên, chị quy y Tam Bảo,
Nguyện trường chay trực đáo Tây Phang.
Đêm ngày Phật hiệu ngân vang,
Bịnh đau mặc kệ thuốc thang chẳng màng.
Tháng năm, mùng chín rõ ràng,
Chiều năm giờ rưỡi nhẹ nhàng dứt hơi.
Mỉm cười hai lượt tuyệt vời,
Giã từ cõi thế về nơi Liên Đài.
Hộ niệm thêm chân tay mềm dịu,
Mặt đẹp xinh hơn lúc bình thường.
Dường như nhắn khách trần dương,
Tin sâu - Nguyện thiết Tây Phương có phần!”