Có người bảo: “Đạo Phật nói việc đầu thai thác sanh luân
chuyển lên xuống, lời ấy thật đáng ghét, sao có thể tin
được? Chỉ những kẻ ngu muội ở thế gian mới bị mê hoặc, hàng
trí giả đọc sách ắt không thể bị dối gạt.”
Nhất Nguyên hỏi: “Thế ông có phải thuộc hàng trí giả đọc
sách biết rộng đó chăng?”
Đáp: “Phải.”
Nhất Nguyên nói: “Ông là trí giả, ắt có thể thông suốt đến
tột cùng cái lý của vạn vật. Xin ông phân tích rõ hai việc
ấy.”
Người kia nói: “Việc mang thai và sanh sản ắt là do nơi vợ
chồng giao cảm mà có, làm sao lại có cái chi ở bên ngoài đầu
thai vào? Ví như có đi nữa, thì cũng phải thấy được là từ
đâu mà đến, từ đâu mà vào? Nên nói rằng có việc đầu thai
thác sanh thì quyết không thể tin được.
“Còn nói rằng có việc luân chuyển lên xuống, việc ấy thật
không có. Ví như có việc ấy, tại sao người chẳng sanh ra thú
vật, thú vật chẳng sanh ra người, chỉ thấy người sanh người,
thú sanh thú mà thôi? Xét hai việc ấy ắt là không thể tin
được.”
Nhất Nguyên cười mà nói rằng: “Ông đã nhận là hàng trí giả
thì chẳng nên tự làm mê muội lòng mình. Lão tăng ở núi này
tuy là quê mùa ngu dốt, nhưng chẳng thể bị ông lừa dối.”
Người kia nói: “Nếu thầy thông suốt lý ấy, sao không giảng
rõ cho tôi nghe?”
Nhất Nguyên đáp: “Được, tôi sẽ nói, ông hãy lắng nghe cho
kỹ. Ông vừa nói rằng việc đầu thai thác sanh đều là do nơi
sự giao cảm mà có, nhưng ở đời có những kẻ không con, dù đã
lấy rất nhiều vợ, đều có giao cảm, mà trọn đời cũng không có
con cái. Tại sao vậy?
“Nên biết rằng, trong việc đầu thai thác sanh, ắt phải do đủ
nhân duyên trong ngoài mới được thành tựu. Thế nào là nhân
duyên trong ngoài? Nghiệp lực của mỗi người, đó là nhân bên
trong. Hình thể cha mẹ ban cho, đó là duyên bên ngoài. Nhân
duyên trong ngoài hòa hợp mà có. Nếu không có nghiệp đời
trước làm nhân, thì không thể có việc thác sanh. Vì sao vậy?
Cha mẹ ví như nước và đất, thần thức ví như hạt giống. Nếu
không có hạt giống, chắc chắn không thể có sự nảy sanh.
“Ông không tin có cái chi ở ngoài vào mà đầu thai và thác
sanh; và ví như có thì cũng phải thấy được từ đâu mà đến và
từ đâu mà vào. Nay tôi lại đưa ra một ví dụ để dứt lòng nghi
cho ông. Ví như có người đang ở trong phòng kín, có mùi hoa
thơm từ ngoài bay vào. Người ấy nghe mùi hương, dường như
thấy được vậy. Nhưng hương hoa vốn không hình tướng, cũng
không bị ngăn ngại, gió thoảng đưa nó đến là tự nhiên vậy
thôi.
“Thần thức đầu thai cũng giống như vậy, cũng không có hình
tướng, cũng không bị ngăn ngại, cũng do ngọn gió nghiệp thổi
đến, cũng là tự nhiên vậy thôi. Lại như những ý tưởng lan
man trong tâm người, chúng có ngăn ngại gì đâu? Lại như
những việc xảy ra trong mộng, so với lúc tỉnh thức thì cảm
nhận cũng giống nhau, mà mộng cũng không có hình tướng, cũng
không bị ngăn ngại, cũng đều là tự nhiên vậy thôi.
“Thần thức đầu thai cũng giống như vậy. Nên biết rằng, bào
thai với nhà ở chẳng khác gì nhau. Thần thức đầu thai ví như
người ta đi vào nhà, cũng là tự nhiên vậy thôi.”
Người kia hỏi: “Nhà thì rất lớn, bào thai thì rất nhỏ, làm
sao dung chứa được cái thân?”
Nhất Nguyên đáp: “Thần thức là tánh linh không hình tướng.
Linh tánh ấy có thể lớn lên hay nhỏ lại. Khi lớn thì không
có bờ bến, khi nhỏ thì nhìn không thấy được. Thế nên khi vào
bào thai không thấy là nhỏ, khi vào nhà ở cũng chẳng cho là
lớn. Đó là lẽ tự nhiên, sao phải hoài nghi?
“Ông lại nói rằng, người sanh ra người, thú sanh ra thú, làm
gì có việc luân chuyển lên xuống? Ví như có, thì tại sao
người chẳng sanh ra thú vật, thú vật chẳng sanh ra người? Đó
là lời nói của kẻ không biết, hết sức ngu si! Ví như kẻ sĩ
muốn làm quan, ắt phải tìm cầu nơi cửa quan. Nếu rời bỏ cửa
quan mà được làm quan, thật là vô lý! Vả lại, như con người
tuy hình thể giống nhau, nhưng muốn theo các nghề nghiệp
khác nhau đều phải tùy theo từng chỗ thích hợp mới được. Như
tìm cầu không đúng nơi mà được thì thật là vô lý!
“Thần thức cũng vậy, đều là giống nhau, do chỗ tạo nghiệp
khác nhau nên có sự đầu thai khác nhau. Vào thai người thì
làm người, vào thai thú thì làm thú, sao có thể nói rằng
người sanh ra thú, thú sanh ra người?
“Cũng như tính chất của nước vốn là như nhau, nhưng tùy theo
chỗ chảy vào mà gọi tên khác nhau (như sông, hồ, suối...).
Lại như tính chất của vàng đều như nhau, làm ra các món đồ
khác nhau thì có hình dáng khác nhau. Thần thức đầu thai lên
xuống trong các cảnh giới cũng giống như vậy.”
Người kia thưa: “Lời thầy nói thật đã rõ ràng.”
Nhất Nguyên nói: “Lại còn rất nhiều cách thọ thai, không thể
nói hết. Ý nghĩa của hai việc trên chỉ nói sơ qua như vậy.
“Còn nói về việc thành hình, không chỉ có một cách sanh từ
bào thai, còn có những loài sanh ra từ trứng, từ nơi ẩm ướt,
hoặc do biến hóa mà sanh ra. Ông đọc sách của Nho gia, chỉ
riêng trong một cõi người này còn chưa biết hết, làm sao
biết được việc trong Mười cảnh giới?”
Người kia hỏi: “Những gì là mười cảnh giới?”
Nhất Nguyên đáp: “Đó là cảnh giới chư Phật, cảnh giới chư Bồ
Tát, cảnh giới Duyên giác, cảnh giới Thanh văn, cảnh giới
chư thiên, cảnh giới nhân loại, cảnh giới A-tu-la, cảnh giới
ngạ quỷ, cảnh giới súc sanh và cảnh giới địa ngục. Trong
Mười cảnh giới này, bốn cảnh giới đầu là thuộc về bậc thánh,
sáu cảnh sau là thuộc về bậc phàm.
“Nếu thần thức làm những việc tương ứng với cảnh giới chư
Phật thì sanh về cảnh giới chư Phật. Nếu làm những việc
tương ứng với cảnh giới Bồ Tát ắt sanh về cảnh giới Bồ Tát.
Nếu làm những việc tương ứng với cảnh giới Duyên giác, sẽ
sanh về cảnh giới Duyên giác. Nếu làm những việc tương ứng
với cảnh giới Thanh văn, ắt sanh về cảnh giới Thanh văn.
“Nếu tạo nghiệp cõi trời thì sanh lên cảnh giới chư thiên.
Nếu tạo nghiệp cõi người ắt sanh vào cảnh giới loài người.
Nếu tạo nghiệp a-tu-la, sẽ sanh vào cảnh giới a-tu-la. Nếu
tạo nghiệp ngạ quỷ, ắt sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Nếu tạo
nghiệp súc sanh thì sanh vào cảnh giới súc sanh. Nếu tạo
nghiệp địa ngục, ắt phải sanh vào cảnh giới địa ngục. Cho
nên nói rằng thần thức vốn không xác định, chỉ tùy theo
nghiệp mà thọ báo. Trong kinh Hoa Nghiêm có nói:
Nếu ai muốn rõ biết,
Ba đời, mười phương Phật.
Nên quán tánh Pháp giới,
Hết thảy đều do tâm.
“Chẳng phải đúng vậy sao?
“Nếu ông muốn thấu rõ chân lý, phải đọc qua kinh Phật, tự
suy xét bản tánh, mới có thể được xem là người có trí, học
rộng. Phải thận trọng chớ nên nhìn trời qua ống nhỏ rồi chê
bai Chánh pháp của đạo Phật!”
Người kia thưa: “Tôi tuy có đọc sách nhưng thật chưa đạt tới
lý lẽ này. Nay may gặp được thầy mở bày chỉ bảo, khác nào
như trong đêm tối có được ngọn đèn, như kẻ nghèo khổ bắt
được của báu.”
Nhất Nguyên nói: “Ông chẳng nên chấp chặt lấy chỗ thấy biết
hẹp hòi mà bỏ qua việc lớn sanh tử. Nên trở về tu tập các
nghiệp lành, phát nguyện được thoát ra khỏi vòng khổ não.
“Người xưa có dạy rằng:
Những bậc tài nhân giỏi văn chương,
Thương vì chẳng gặp đấng Pháp vương.
Uổng phí thông minh không lợi ích,
Chẳng thoát khỏi tay quỷ Vô thường.
“Lời ấy đúng lắm thay!
“Than ôi! Nay tôi sẽ dẫn vài tích xưa nhân quả để khuyên ông
thức tỉnh! Xưa có một vị tăng tên Minh Sâm, học thông cả
Phật pháp và các môn học thế tục. Ông thường vẽ hình rắn,
chế tác ra trận thế Thường sơn dựa theo hình rắn và bàn luận
việc rắn. Rồi ngay khi đang sống bỗng hoá hình thành rắn!
“Lại có Lý Bá Thời thường vẽ hình ngựa, chế tác trận thế
ngựa đá bánh xe. Rồi ngay khi đang sống bỗng hóa ra hình
ngựa.
“Dựa vào hai việc ấy thì thấy rõ rằng: niệm Phật nhất định
sẽ thành Phật, cầu sanh Tịnh độ thì nhất định được về Tịnh
độ. Sao ông lại không phát tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ?”
Người kia thưa: “Xin kính cẩn vâng lời thầy dạy, sẽ lo việc
tu trì.”
Rồi ân cần lễ kính, từ tạ ra về.