Có người hỏi: “Lương Võ đế trọn đời thờ Phật, sau phải mất 
					nước tán thân. Tại sao có việc như vậy?”
				  Vô Tận đáp: “Đáng thương thay cho những người không rõ định 
					nghiệp. Thuở xưa, Khuê Thiền sư ở núi Tung Nhạc nói rằng: 
					‘Có ba việc Phật làm được và ba việc không thể làm được.
				  “Phật có thể xem tất cả hình tướng đều là không, thành tựu 
					trí tuệ biết hết tất cả, nhưng không thể diệt trừ định 
					nghiệp.
				  “Phật có thể rõ biết tâm tánh chúng sanh cùng mọi sự việc 
					trong muôn ngàn kiếp, nhưng không thể giáo hóa những kẻ 
					không có duyên.
				  “Phật có thể cứu độ hết thảy hữu tình, nhưng không thể độ 
					hết các cõi chúng sanh.
				  “Đó là ba việc mà Phật làm được và không thể làm được.”
				  “Nay có những kẻ trong lòng hừng hực, miệng ấm ức, nghe đến 
					tiếng Phật dường như oán thù, nhìn thấy chư tăng dường như 
					rắn rết. Đối với hạng người ấy, tôi thật chẳng biết làm sao! 
					Cho đến Phật còn không giáo hóa được những kẻ vô duyên, thì 
					tôi biết làm gì giúp họ?
				  “Những kẻ nghị luận đều cho rằng vua Lương Võ đế thờ Phật mà 
					mất nước. Những người nói như vậy thảy đều là chưa học hiểu 
					lẽ Phật, chưa đủ sức để cùng nghị luận. 
				  “Vận nước dài hay ngắn, việc đời được an ổn hay loạn lạc, ta 
					nào biết được là do đâu? Như vua Nghiêu, vua Thuấn là bậc 
					đại thánh, mà ở ngôi chỉ có một đời. Về sự truyền ngôi đó, 
					do nơi con của hai ngài không tốt nên mới truyền ngôi cho 
					người khác. Con cái không tốt, lẽ nào là lỗi của trời hay 
					sao? Từ thuở mở nước cho đến đời Hán Minh đế, đạo Phật chưa 
					đến Trung Hoa, thế mà đất nước vẫn gặp nhiều ách nạn, đó là 
					tại sao vậy? 
				  “Theo ghi chép của Trương Yến Công đời Đường thì triều Lương 
					có bốn vị đại thần rõ biết hết mọi việc biến hóa của trời 
					đất, quỉ thần, như nhìn trong lòng bàn tay. Thái tử Chiêu 
					Minh cũng được tôn xưng là bậc thánh. Đối với các bậc thánh 
					nhân như thế thì việc trị nước, giữ thiên hạ chẳng qua chỉ 
					là chút kiến thức dư thừa, lẽ nào không đủ sáng suốt để thấy 
					biết trước mà thận trọng chọn lấy những việc nên làm để bảo 
					cho Võ đế biết hay sao? Chỉ vì định nghiệp không thể tránh 
					khỏi đó thôi.
				  “Than ôi! Với định nghiệp thì không thể làm gì được, cũng 
					như không thể nhảy vào chỗ nước lửa! Nghiệp báo đúng kỳ thì 
					đến, cũng như bốn mùa không hề sai chạy. Như ngài Sư Tử Tôn 
					giả ở Ấn Độ, ngài Nhị tổ Đại sư ở xứ này, đều không tránh 
					được quả báo. Lại nữa, chẳng những ngài Sư Tử và ngài Nhị 
					tổ, cho đến Phật Thích-ca cũng không tránh khỏi nghiệp báo 
					phải ăn lúa ngựa, huống chi những kẻ phàm phu sơ học!
				  “Cho nên, người tu tập là thay đổi lỗi lầm ngày trước, tu 
					sửa việc ngày sau. Nếu nghiệp xưa đã phải trả, thì điều lành 
					trong tương lai lẽ nào lại không đến với ta? Như người hiện 
					nay mang thân nữ, quả thật có nhiều điều kém hơn nam giới. 
					Dù có gắng sức theo Phật tu trì, lẽ nào có thể biến hình 
					thành nam giới được sao? Tất nhiên phải chịu trải qua cho 
					hết thân nữ trong hiện tại, nguyện lực dù có cũng phải đợi 
					đến đời sau vậy.
				  “Lương Võ đế thọ 86 tuổi, không phải yểu mạng. Ông chết vì 
					bệnh, không đến mức đại ác. Chỗ sai lầm đến nỗi bỏ mạng là 
					khi thấy trước có họa sắp đến, bói được quẻ Càn, nơi thượng 
					cửu có biến, lấy theo ý là “sang quý mà không có ngôi vị, ở 
					trên cao mà không có dân” nên vua tự cho mình kém cỏi, muốn 
					mưu việc ngăn họa cầu phước. Lương Võ đế tự mình hiểu sai 
					như vậy, nào có liên quan gì đến Phật pháp?
				  “Lương Võ đế vốn căn khí Tiểu thừa, chỉ tin nơi nhân quả hữu 
					vi, nên không nhận hiểu được đại pháp của ngài Đạt-ma. Vua 
					lại quá câu nệ theo lối cũ, làm theo không chút quyền biến, 
					cũng có thể là do định nghiệp xui khiến như vậy chăng? Hơn 
					nữa, bậc thánh nhân lập nên Chánh pháp là vì cả thiên hạ đời 
					sau, nào phải chỉ riêng vì một người?
				  “Khổng tử nói: ‘Người nhân được sống thọ.’ Ngài cũng hết lời 
					khen ngợi Nhan Hồi là người nhân. Thế mà Nhan Hồi lại chết 
					yểu! Lẽ nào cho rằng lời của Khổng tử không đúng sao? Chẳng 
					qua lời ấy không phải chỉ nói riêng cho một người. Việc 
					Lương Võ đế thờ Phật cũng giống như đức nhân của Nhan Hồi đó 
					thôi!
				  “Quân loạn Hầu Cảnh tới mà chỉ tập họp các vị sa-môn tụng 
					kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật, đó là quá tin vào tích xưa mà 
					không có sự quyền biến thích hợp. Thật giống như Hướng Hủ 
					đời Hậu Hán, khi Trương Giác làm loạn lại dâng tờ biểu tiện 
					nghi, phần nhiều chê trách các quan tả hữu. Ông cho rằng 
					không cần hưng binh chống cự, chỉ dẫn binh tướng đến Hà 
					Thượng, quay mặt về hướng bắc mà đọc Hiếu Kinh, giặc sẽ tự 
					nhiên lui mất. 
				  “Lại như truyện Cái Huân đời Hậu Hán kể rằng, niên hiệu 
					Trung Bình thứ nhất, người Khương ở phía bắc và bọn Biên 
					Chương nổi loạn ở Lũng Hữu, Phù Phong. Quan thái thú là Tống 
					Kiêu lo sợ vì có nhiều kẻ phản loạn liền bảo Cái Huân: ‘Dân 
					Lương Châu ít học nên người phản loạn rất nhiều. Nay phải 
					cho chép thật nhiều Hiếu kinh, buộc mỗi nhà đều phải học 
					tập, may ra sẽ làm cho họ biết việc nghĩa.’ Đó cũng là người 
					dùng không đúng cách, lẽ nào lại đổ lỗi cho Hiếu kinh hay 
					sao?
				  “Lại biết đâu rằng nghiệp trước của Lương Võ đế lẽ ra phải 
					chịu tai họa không chỉ chừng ấy, nhưng nhờ ngài làm việc 
					lành nên đã giảm bớt đi mới sống thọ được như thế.
				  “Vua thường hỏi thiền sư Chí Công về vận nước dài hay ngắn. 
					Thiền sư chỉ đưa tay chỉ vào nơi cổ họng. Đó là lời đoán 
					trước cái nạn Hầu Cảnh. Khi ngài Chí Công sắp viên tịch, 
					Lương Võ đế lại gạn hỏi việc sắp tới. Chí Công nói: ‘Khi nào 
					ngôi tháp của bần tăng hư hoại, xã tắc của bệ hạ cũng mất 
					theo.’ 
				  “Sau khi ngài Chí Công viên tịch, người vâng lệnh vua làm 
					tháp vừa xong, Võ đế bỗng nghĩ rằng: ‘Tháp bằng cây gỗ làm 
					sao được lâu bền?’ Liền ra lệnh phá bỏ để xây tháp bằng đá, 
					có ý muốn cho không bị hư hoại, mong được ứng với lời của 
					Chí Công. Ngờ đâu việc phá tháp vừa xong thì quân loạn Hầu 
					Cảnh cũng vừa vào thành! Bậc chí nhân há chẳng biết trước đó 
					sao? Lại như các vị An Thế Cao, Bạch Pháp Tổ, cố ý trả 
					nghiệp đời trước nên không chịu tránh né, tự đi vào chỗ 
					chết, vì biết rằng định nghiệp không thể trốn tránh. Hoặc 
					như Quách Phác đời Tấn (265-420) cũng biết mình chẳng khỏi 
					định nghiệp. Huống chi người biết rõ lẽ hư huyễn, xem cái 
					chết như chỗ đi về! Lẽ nào biết rõ có nợ đời trước mà đời 
					này lại muốn tránh né hay chống cự để khỏi trả hay sao?”