Tông Bổn tôi sanh ở nhà họ Trần nơi xứ Tứ Minh, nhờ ơn cha
mẹ nuôi dưỡng và rước thầy dạy dỗ từ nhỏ. Đến lúc vào trường
đèn sách, cha nghiêm huấn, thầy chỉ bảo, nên cũng hiểu thông
được văn chương lễ nghĩa.
Năm 15 tuổi, có người anh họ là Hủ Mộc, nhân có bệnh nhẹ mà
qua đời, thi thể còn đặt nơi nhà trống. Tôi đi ngang qua
cửa, thấy cái thân tứ đại của anh mình thì sợ sệt, lo buồn,
tự than rằng: “Ôi! Hình tướng ở đời không hề bền chắc, mạng
sống chỉ như ngọn đèn trước gió. Vô thường xảy tới, trốn
tránh khó thay!” Liền muốn xuất gia học đạo, cầu được siêu
thoát luân hồi.
Nhưng chẳng biết khởi sự tu hành như thế nào, nên lòng còn
do dự. Liền đến ngôi chùa nhỏ trong vùng mà lễ Phật. Bỗng
gặp một vị tăng đang ngồi thẳng lưng dáng vẻ uy nghi, tôi
liền cúi đầu làm lễ thưa hỏi rằng: “Đại đức là ai?”
Vị tăng đáp: “Tôi là người tu thiền đi du phương.”
Tôi nghe được lời ấy, mừng khôn kể xiết. Tức thì thỉnh vị
tăng ấy về nhà, sắm đủ hương hoa và các thứ vật thực cúng
dường.
Lễ cúng dường đã xong, tôi quỳ lạy thiền sư mà thưa hỏi
rằng: “Đệ tử muốn thoát khỏi vòng sanh tử, chưa biết nên tu
theo pháp gì?”
Thiền sư liền hỏi rõ họ tên và tuổi tác. Tông Bổn này thưa
rằng: “Đệ tử họ Trần, tên là Tĩnh Tu, năm nay được mười lăm
tuổi.”
Thiền sư khen ngợi rằng: “Tuổi còn nhỏ mà phát tâm cao, thật
là ít có trong đời! Này thiện nam tử họ Trần, hãy giữ một
lòng tịch tĩnh mà nghe ta nói đây: Duy có một pháp tu thẳng
tắt là chỉ cần niệm đức Phật A-di-đà mà thôi.”
Tông Bổn này hỏi lại: “Niệm Phật A-di-đà có thể vượt thoát
được sanh tử hay sao?
Thiền sư đáp: “Cứ tin theo lời Phật dạy thì trong các pháp
tu thoát khổ, chẳng pháp nào bằng niệm Phật. Nếu chẳng niệm
Phật, khó mà vượt thoát được sanh tử.”
Tông Bổn lại hỏi: “Pháp môn niệm Phật này do đâu mà có?”
Thiền sư đáp: “Pháp môn niệm Phật chẳng phải chỉ có dạy
trong một kinh mà thôi. Trong vô số kinh điển, không có kinh
nào lại chẳng nói đủ về pháp môn niệm Phật. Nếu y theo phép
này mà tu, chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tịnh độ.”
Lại hỏi: “Công đức niệm Phật được bao nhiêu mà có thể vãng
sanh về Tịnh độ?”
Đáp rằng: “Nếu có người đem bảy món báu trong bốn cõi thiên
hạ mà cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Duyên giác, Thanh văn, La
hán, phước đức rất nhiều. Như có người khuyên người khác
niệm Phật một tiếng, phước đức lại còn nhiều hơn thế nữa.”
Lại hỏi: “Niệm Phật một tiếng, làm sao phước đức lại có thể
nhiều hơn?”
Thiền sư đáp: “Sách Vạn thiện đồng quy dẫn lời trong Trí
luận nói rằng: ‘Ví như có người vừa sanh ra rơi xuống đất đã
có thể đi được mỗi ngày ngàn dặm, đi như vậy trọn ngàn năm,
dùng hết thảy bảy món báu trong các cõi thế giới mình đã đi
qua mà dâng cúng Phật, cũng không bằng có người ở đời ác
trược về sau xưng niệm được một câu Nam mô A-di-đà Phật.
Phước của người niệm Phật còn hơn cả phước của người kia. Tự
mình niệm Phật còn được như thế, huống chi còn khuyên người
khác niệm?”
Lại hỏi: “Tuy biết là đức độ của Phật lớn lao như thế, nhưng
kẻ phàm phu nghiệp ác vốn đã nhiều, làm sao chỉ niệm Phật
trong một đời mà có thể vãng sanh về Tịnh độ?”
Đáp: “Kinh Thập lục quán nói: “Chí tâm niệm một tiếng Nam mô
A-di-đà Phật có thể diệt được tội nặng trong tám mươi ức
kiếp sanh tử. Có người trọn đời tạo năm tội nghịch, làm mười
điều ác, nhưng lúc lâm chung niệm được mười câu Nam mô
A-di-đà Phật còn được vãng sanh. Huống chi người trọn đời ăn
chay, giữ giới và niệm Phật?”
Tông Bổn lại hỏi: “Do đâu mà đức Phật A-di-đà lại có công
đức và hạnh nguyện rộng lớn như vậy?”
Đáp: “Long Thư Tăng Quảng Tịnh độ văn có dẫn kinh Đại
A-di-đà nói rằng: ‘Một ngày nọ, đức Phật Thích-ca dung nhan
khác thường. Thị giả là A-nan lấy làm lạ, bèn thưa hỏi. Phật
dạy rằng: ‘Lành thay câu hỏi của nhà ngươi, còn hơn là cúng
dường cho các vị Thanh văn và Duyên giác trong một cõi thiên
hạ, cùng là bố thí cho chư thiên, nhân dân, cho đến những
loài chúng sanh nhỏ bé nhất. Dầu cho trải qua rất nhiều kiếp
cúng dường và bố thí như vậy, lại đem công đức ấy nhân lên
gấp trăm, ngàn, muôn, ức lần, cũng chẳng bằng công đức của
câu hỏi này. Tại sao vậy? Bởi vì chư thiên, vua chúa, nhân
dân, cho đến những loài chúng sanh nhỏ bé nhất đều sẽ do nơi
câu hỏi này mà được độ thoát.’
“Theo đó suy ra, đây chính là lúc Phật Thích-ca muốn khởi
thuyết về đức Phật A-di-đà. Ngài vừa khởi lên điều ấy trong
tâm, mà đã hiện ra vẻ mặt khác với ngày thường, thì mối giao
cảm của đức Phật A-di-đà đối với chư Phật đã là phi thường,
huống chi là chỗ giao cảm với hết thảy chúng sanh.
“Vì sao vậy? Xét theo lời phát nguyện ban sơ của đức Phật
A-di-đà có nói rằng:
Nguyện khi ta thành Phật.
Danh vang khắp mười phương.
Trời, người vui được nghe.
Cùng sanh về nước Phật.
... ... ...
Địa ngục, quỷ, súc sanh.
Cũng sanh về nước Phật.
“Theo đó thì đã có thể biết rằng hết thảy những chúng sanh
đang luân hồi trong ba cõi, sáu đường, không một ai mà ngài
chẳng muốn cứu độ. Đức Phật A-di-đà hiện ở tại thế giới Cực
Lạc bên phương tây và các cõi thế giới trong mười phương mà
giáo hóa hàng trời, người số đông không kể xiết, cho đến
những loài chúng sanh nhỏ bé nhất. Như đến các loài chúng
sanh nhỏ bé nhất mà Phật còn hóa độ, huống chi là loài
người!
“Đức Phật A-di-đà lại có phát nguyện như thế này: ‘Như ai
niệm danh hiệu ta, ắt sanh về cõi Phật của ta. Nếu chẳng
được như vậy, ta thề không làm Phật.’ Do đó mà ngài rộng độ
khắp chúng sanh, không có giới hạn. Người phát tâm quy y chỉ
trong một niệm, rốt lại cũng được sanh về cõi Phật của ngài.
Theo đó mà suy ra, công đức niệm Phật thật không thể nghĩ
bàn hết được.
“Đức Phật A-di-đà lại có dạy rằng: Nếu chúng sanh nào muốn
sanh về cõi Phật của ta vào hàng thượng phẩm, thì nên tu tập
hạnh từ bi, không giết hại, thương xót che chở hết thảy mọi
sanh linh, giữ tròn giới hạnh, đọc tụng kinh điển Đại thừa,
hiểu thấu nghĩa chân thật, rõ thông lý sâu xa, cúng dường
Tam bảo, hiếu kính mẹ cha, thương xót những kẻ nghèo khổ,
giáo hóa hết thảy hữu tình, ăn uống giữ theo đúng pháp, rộng
làm việc bố thí cho quỉ thần, không làm các điều ác, thường
làm các việc lành. Nếu ai niệm Phật được như vậy, chắc chắn
vãng sanh vào hàng Thượng phẩm thượng sanh, thẳng đến quả vị
Phật.
“Còn như chưa đủ sức làm như vậy, tự mình hãy bền chí ăn
chay giữ giới, nhất tâm niệm Phật. Nếu có thể nhất tâm niệm
Phật không gián đoạn, thì cũng có thể vãng sanh ở vào hàng
Trung phẩm.
“Pháp niệm Phật này chẳng phân biệt kẻ hiền người ngu, kẻ
sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, cũng chẳng phân biệt
nam nữ, già trẻ, tăng tục, chẳng kể xa gần, hết thảy đều có
thể niệm Phật.
“Phương thức niệm Phật cũng chẳng có chi bó buộc: hoặc niệm
lớn tiếng, hoặc niệm nhỏ tiếng, hoặc niệm liên tục như nước
chảy, hoặc niệm khi đảnh lễ, hoặc nhiếp tâm mà niệm, tham
cứu mà niệm, quán tưởng mà niệm, hoặc lần chuỗi hạt niệm,
hoặc đi nhiễu quanh điện Phật mà niệm, hoặc đứng thẳng niệm,
hoặc ngồi yên niệm, hoặc nằm nghiêng mà niệm, hoặc niệm thầm
hay niệm rõ tiếng, hoặc niệm ngàn lần, muôn lần, thảy đều là
một niệm. Điều quan trọng nhất là phải có lòng tin chắc
quyết và cầu sanh Tịnh độ. Nếu hành trì được như vậy, cần gì
phải cầu tìm bậc tri thức khác?
“Như vậy có thể nói là:
Thuyền đi quyết định do người lái,
Nước Phật đón người rõ phép tu.
Tông Bổn lại hỏi rằng: “Thế gian có nhiều người thường nói
rằng: Việc nhà bận rộn, việc đời vướng vít, đợi lúc tuổi già
rồi sẽ lo niệm Phật. Xin thầy nói cho nghe về hạng người
ấy.”
Thiền sư đáp rằng: “Khổ thay! Khổ thay! Lời nói ấy thật ngu
muội, sai lầm biết bao! Chẳng nghe thiền sư Tử Tâm nói đó
sao? Những người thế gian có của báu như núi, thê thiếp đầy
nhà, ngày đêm vui thỏa, há lại chẳng muốn sống hoài ở đời
hay sao? Nhưng ngặt nỗi đời sống có giới hạn, cái chết luôn
chờ chực, mạng dứt phải đi, chẳng thể trì hoãn được. Diêm
vương chẳng thuận tình người, quỷ vô thường chợt đến có ai
thấy mặt?
“Hãy cứ xét nơi những việc mắt thấy tai nghe của hết thảy
mọi người: đường trước ngõ sau, họ hàng thân thích, bạn hữu
anh em, có biết bao người chết vào độ tuổi xuân cường tráng!
Chẳng nghe người xưa đã nói sao:
Chớ đợi tuổi già theo học đạo,
Mồ hoang bao kẻ mái đầu xanh!
“Từ những năm tuổi trẻ, vất vả bon chen để nuôi dưỡng vợ
con, tạo lập nhà cửa, nếm đủ muôn cay ngàn đắng. Chợt khi
hơi dứt mạng vong, cũng chưa thể nhất thời dứt sạch. Nếu như
con cháu hiếu thuận, biết lo thỉnh thầy làm chay, tụng kinh
siêu độ, lại giữ lệ mùa xuân tháng ba, mùa thu tháng chín,
vọng cúng vài chén cơm canh, khóc thương mấy tiếng, cũng gọi
là thương cha nhớ mẹ. Nếu gặp phải đứa con ngỗ nghịch thì
cha mẹ vừa mới qua đời, xương đầu còn ấm nó đã phá tan tài
sản, bán sạch ruộng vườn, thỏa ý ăn chơi.
“Lấy đó mà suy ra thì việc tu niệm cần phải gấp rút, khẩn
thiết biết bao! Con cháu vốn tự có nghiệp báo thiện ác riêng
của chúng, chẳng cần phải vì chúng mà lo xa tính toán.
“Cổ đức có thơ rằng:
Đáng cười lão nhà giàu.
Đời bon chen hối hả.
Gạo trong bồ sanh mọt.
Tiền để mục trong kho.
Ngày cân đong đo đếm.
Tối chong đèn tính sổ.
Thân gầy mòn ốm yếu,
Khư khư giữ nết cũ.
“Thiền sư Tử Tâm đã hết lòng khuyên dạy như thế, há lại có
thể cho rằng nên đắm mê thế tục, đợi đến lúc già mới niệm
Phật hay sao? Phải thường suy xét rằng, đời sống con người
thật chẳng được bao lâu, chỉ thoáng qua như nháng lửa, như
điện xẹt, vừa chớp mắt đã qua rồi! Vậy nên phải nhân khi
tuổi già chưa đến, còn đang độ thanh xuân tráng kiện mà phấn
phát thân tâm, dẹp bỏ việc đời. Được sáng suốt một ngày thì
niệm Phật một ngày, được công phu một lúc thì tu nghiệp lành
một lúc. Cho dù lúc phút lâm chung có lành hay dữ, chỉ quan
trọng nhất là hành trang đã chuẩn bị được đầy đủ, thì con
đường sắp tới chắc chắn được yên ổn. Nếu chẳng lo liệu từ
trước, sau ăn năn chẳng kịp, hãy suy ngẫm cho kỹ điều đó!
“Đáng mừng là, Di-đà rất dễ niệm, Tịnh độ rất dễ vãng sanh!
Tuy rằng làm người rất khó tránh khỏi những lo toan tính
toán việc nhà, nhưng cũng nên sớm chiều đốt hương niệm Phật.
“Pháp môn niệm Phật này, ai ai cũng có thể làm theo. Ví như
căn nhà tăm tối lâu năm, chỉ cần một ngọn đèn thắp lên liền
sáng tỏ; dầu là những người giết bò mổ heo, buông dao xuống
liền có thể tu tập.
“Phép tu này không khó, lại cũng không ngăn trở những sự
nghiệp của người ta trong thế sự. Người làm quan niệm Phật
cũng không trở ngại cho chức nghiệp, hàng trí thức niệm Phật
cũng không trở ngại việc học hỏi, người thương gia niệm Phật
cũng không trở ngại việc buôn bán, người nông dân niệm Phật
cũng không trở ngại việc cấy trồng. Người phụ nữ niệm Phật
cũng không trở ngại bổn phận trong gia đình. Nơi cơ quan Nhà
nước, niệm Phật không làm trở ngại việc vâng lệnh cấp trên.
Nơi chùa chiền, niệm Phật không làm trở ngại việc tham
thiền.
“Nói chung, người tu theo pháp niệm Phật thì hết thảy mọi
công việc đều không ngăn trở. Hoặc có thể lễ bái niệm Phật
vào lúc sáng sớm hoặc chiều hôm, hoặc cũng có thể trong lúc
đang làm việc, dù là gấp rút hay chậm rãi đều có thể niệm
Phật. Mỗi ngày hoặc niệm trăm ngàn tiếng, hoặc niệm năm ba
trăm tiếng, hoặc niệm mười tiếng... Cốt yếu là phải phát
nguyện hướng về việc vãng sanh Tây phương. Nếu được lòng
thành như vậy, việc vãng sanh có thể xem như chắc chắn.
“Này thiện nam tử họ Trần! Nếu như ngươi ăn chay giữ giới
tinh nghiêm, một lòng niệm Phật mà chẳng sanh về Tịnh độ,
thì ta đây ắt phải đọa vào Địa ngục rút lưỡi.”
Tôi thấy thiền sư phát lời thề rất nặng nên sợ hãi quì lạy,
cảm tạ ơn ngài đã mở mang chỉ bảo cho pháp môn niệm Phật.
Thiền sư dạy rằng: “Nếu nói về pháp môn Tịnh độ, cho dầu có
nói trong trăm ngàn kiếp cũng chẳng cùng. Cho nên ta chỉ
lược nói ra đây những điều cơ bản nhất mà thôi.
“Người xưa nói rằng:
Kẻ trí một lòng tin chắc.
Mọi việc tức thì hiểu rõ.
Người ngu chẳng dứt mối nghi.
Nghe nhiều lại càng thêm nghi.
Lời ấy đúng thật biết bao!
Những ai đã thật lòng tin chắc tu hành, muốn được vãng sanh
Tây phương Tịnh độ, chẳng thể chỉ nói suông rồi bỏ qua. Cần
phải ôm ấp trong lòng như việc lớn của một đời, quyết chí
phải làm cho được!
Như có thể phát khởi được lòng tin, thì từ nay trở đi phải
hết sức dũng mãnh, hết sức tinh tấn, chẳng cần lưu tâm đến
việc biết hay là chẳng biết, thấy tánh hay không thấy tánh,
chỉ bền giữ trong lòng một câu Nam mô A-di-đà Phật mà thôi,
như dựa vào ngọn núi Tu-di, dù có bị quấy rối hay lay chuyển
cũng vẫn giữ yên chẳng động. Chỉ một niệm ấy là vị thầy dắt
dẫn. Chỉ một niệm ấy là đức Phật hóa thân. Chỉ một niệm ấy
là vị tướng mạnh mẽ phá tan địa ngục. Chỉ một niệm ấy là
lưỡi gươm báu chém lũ tà ma. Chỉ một niệm ấy là ngọn đèn
sáng soi vào chỗ tối. Chỉ một niệm ấy là con thuyền lớn vượt
qua biển khổ. Chỉ một niệm ấy là vị thuốc hay cứu thoát sanh
tử. Chỉ một niệm ấy là con đường tắt ra khỏi Ba cõi. Chỉ một
niệm ấy là Phật A-di-đà trong tự tánh. Chỉ một niệm ấy là
cõi Tịnh độ ngay trong tâm mình.
Cốt yếu là phải luôn nghĩ nhớ đến một câu A-di-đà Phật,
chẳng lúc nào xao lãng. Lúc nào cũng duy trì niệm ấy, lúc
nào cũng có niệm ấy trong tâm. Lúc vô sự cũng niệm như vậy,
lúc hữu sự cũng niệm như vậy, lúc yên vui cũng niệm như vậy,
lúc đau khổ cũng niệm như vậy, lúc đang sống cũng niệm như
vậy, lúc sắp chết cũng niệm như vậy. Một niệm sáng suốt rõ
ràng như vậy, cần gì phải hỏi thăm đường về ở nơi người
khác?
Như vậy có thể nói là:
Một niệm Di-đà không xen tạp,
Thảnh thơi phút chốc đến Tây phương.
Thiền sư lại dặn kỹ rằng: “Này thiện nam tử họ Trần! Nay ta
đem pháp môn nói về mười pháp giới mà truyền giao cho ngươi,
ngươi phải dùng pháp môn này mà mở mang chỉ bảo cho người
sau, cùng nhau tinh tấn tu hành cho đến khi thành tựu quả
Phật.”
Tông Bổn thưa rằng: “Con xin mang pháp ấy giảng rộng cho
người sau, mong rằng sẽ mang lại lợi ích trong tương lai.”
Thiền sư dạy rằng: “Lành thay, lành thay! Mười pháp giới ấy
là: pháp giới của chư Phật, pháp giới của các vị Bồ Tát,
pháp giới của hàng Duyên giác, pháp giới của hàng Thinh văn,
pháp giới của chư thiên, pháp giới của loài người, pháp giới
của loài a-tu-la, pháp giới của loài ngạ quỉ, pháp giới súc
sanh và pháp giới địa ngục.
“Mười pháp giới ấy, trong tâm mỗi người đều có đủ. Tùy nơi
chỗ đã tạo ra mà tự thọ nhận lấy, nhân nào quả nấy không sai
chạy. Việc làm lành, làm dữ là nhân thế gian, mà ba cõi, sáu
đường là quả thế gian vậy. Việc giữ giới, niệm Phật là nhân
ra khỏi thế gian, mà cõi Tịnh độ, được thành Phật, đó là quả
ra khỏi thế gian.
Trong cõi trời người, việc tu phước là nên làm trước nhất.
Trong biển khổ sanh tử, việc niệm Phật là hơn hết. Như muốn
hưởng sự khoái lạc trong cõi trời người mà không tu phước,
muốn ra khỏi biển khổ sanh tử mà không niệm Phật, chẳng khác
nào chim không cánh mà muốn bay, cây không rễ mà muốn được
tươi tốt, há có thể được sao?
Cho nên, điều cốt yếu là phải lấy việc niệm Phật gieo trồng
nhân chính, lấy việc tu phước làm pháp hỗ trợ. Phước đức và
trí huệ đều cùng tu mới có thể thành bậc Chánh đẳng Chánh
giác. Đó chính là nhân tạo thành quả, quả hoàn toàn phụ
thuộc ở nhân; nhân quả không sai khác, trước sau chẳng hề
nhầm lẫn. Vì sao vậy? Hình thẳng thì bóng ngay, âm thanh hài
hòa thì tiếng vang dễ nghe. Nên biết rằng nhân chân thật thì
quả không hư dối. Như cuộc sống thường ngày là nhân, phút
lâm chung là quả. Thường ngày làm việc ác, khi lâm chung
cảnh ác hiện ra trước mắt; thường ngày niệm Phật, khi lâm
chung cõi Phật tự nhiên hiện đến.
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng:
Nếu ai muốn rõ biết,
Ba đời, mười phương Phật,
Nên thấy tánh pháp giới,
Thảy đều do tâm tạo.
Chính là nói lên nghĩa ấy đó.
Tông Bổn hỏi rằng: “Bạch thầy, tu theo pháp nào thì được quả
Phật?”
Thiền sư đáp: “Nên biết rằng chúng sanh trong sáu đường đều
sẵn có chân như Phật tánh, bình đẳng như nhau. Đối với hết
thảy chúng sanh đều quán xét rằng đó là chư Phật, đó là các
bậc cha mẹ của mình. Không phân biệt oán thù hay thân thích,
đều nguyện cứu độ hết thảy. Từ nay mãi mãi về sau luôn thực
hiện theo hạnh nguyện của đức Bồ Tát Phổ hiền. Nếu tu hành
được như vậy là có thể ngang bằng với chư Phật.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tu theo pháp nào có thể đạt đến pháp
giới của các vị Bồ Tát?”
Thiền sư dạy: “Tu theo hạnh bố thí trừ được lòng tham lam,
bủn xỉn; giữ theo giới hạnh trừ được sự hủy phạm; thực hành
nhẫn nhục trừ được lòng sân nhuế; nỗ lực tinh tấn trừ được
sự giải đãi, lười nhác; thực hành thiền định trừ được sự hôn
mê, tán loạn; tu dưỡng trí huệ trừ được ngu si. Nếu tu hành
được như vậy là có thể ngang bằng với các vị Bồ Tát.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tu theo pháp nào chỉ có thể đạt đến
pháp giới của hàng Duyên giác?”
Thiền sư dạy: “Những người trong hạng Trung thừa, vui thích
cảnh tịch tĩnh một mình, tuy rõ biết nhân duyên các pháp
nhưng chẳng thực hành việc cứu độ chúng sanh, cho nên chỉ có
thể đạt đến pháp giới của hàng Duyên giác mà thôi.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tu theo pháp nào chỉ có thể đạt đến
pháp giới của hàng Thanh văn?”
Thiền sư dạy: “Những người trong hạng Tiểu thừa, khiếp sợ
sanh tử như loài hươu nai trốn chạy, chẳng dám ngó lại. Vì
chỉ muốn mau mau ra khỏi Ba cõi, cầu lấy cảnh giới Niết-bàn
cho riêng mình, cho nên chỉ có thể đạt đến pháp giới của
hàng Thanh văn, La-hán mà thôi.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tu theo pháp nào chỉ có thể được sanh
lên cõi trời?”
Thiền sư dạy: “Tu theo Mười thiện nghiệp sẽ được sanh lên
cõi trời.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tu theo pháp nào chỉ có thể được sanh ở
cõi người?”
Thiền sư dạy: “Tu theo Ngũ giới sẽ được sanh ở cõi người.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tạo tội nghiệp gì phải đọa lạc vào cảnh
giới của loài A-tu-la?”
Thiền sư dạy: “Những ai tu theo thiện nghiệp mà còn giữ lòng
tranh chấp hơn thua, hờn giận, khinh ngạo kẻ khác, sẽ đọa
vào cảnh giới của loài A-tu-la.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tạo tội nghiệp gì phải đọa lạc vào cảnh
giới của loài ngạ quỉ?”
Thiền sư dạy: “Những ai không xả bỏ được tâm tham lam, bỏn
sẻn, khinh thường đại chúng, giành lấy miếng ăn cho riêng
mình, sẽ đọa vào cảnh giới của loài ngạ quỷ.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tạo tội nghiệp gì phải đọa lạc vào cảnh
giới của loài súc sanh?”
Thiền sư dạy: “Những ai tạo các nghiệp ngu si, tà ngụy, độc
ác, chắc chắn phải đọa vào cảnh giới của loài súc sanh.”
Lại hỏi: “Bạch thầy, tạo tội nghiệp gì phải đọa lạc vào cảnh
giới địa ngục?”
Thiền sư dạy: “Những ai chê bai phỉ báng Tam bảo, làm các
điều dữ, nhất định sẽ đọa lạc vào cảnh giới địa ngục.
“Mười Pháp giới như vừa nói đó, thảy đều là do nơi việc làm
và sự tu tập của mỗi người.”
Tông Bổn liền đảnh lễ, cảm tạ thầy và nói rằng: “Nếu chẳng
phải duyên may từ đời trước, làm sao được gặp bậc minh sư mở
mang chỉ bảo như thế này?”
Khi từ biệt, thiền sư lại còn dạy rằng: “Nếu như ngươi còn
có điều gì nghi nan chưa dứt, nên tìm đọc những bộ sách như:
Liên Tông Bảo Giám, Tịnh độ chỉ qui, Long Thư Tịnh độ văn,
Vạn thiện đồng qui tập, Trí Giả Đại sư Thập nghi luận, Thiên
Như Tắc Thiền sư hoặc vấn, Thần Thê An Dưỡng phú, Tịnh độ
quyết nghi luận. Nói chung, hết thảy những kinh sách tán
dương pháp môn Tịnh độ đều nên tìm đọc.”
Tông Bổn thưa rằng: “Kính vâng lời thầy, con xin tin nhận và
hết lòng làm theo như vậy.”