Ông Thái Nguyên thưa hỏi rằng: “Chu tử chú giải sách thường 
					dẫn nhiều lời trong kinh Phật, không biết có những sách nào, 
					ông ấy dùng từ ngữ nào của Phật để chú giải?”
				  Thiền sư Không Cốc đáp: “Những từ ngữ của đạo Phật mà Hối Am 
					thường dùng như là “hư linh bất muội”, “bất khả hạn lượng”, 
					“tự thị nhi phi”. Trong sách Đại học bổ khuyết thì dùng 
					những câu như là “thủy ngôn nhất lý, trung tán vi vạn sự, 
					mạt phục hiệp vi nhất lý”, hoặc nói “chân thật vô vọng, chân 
					thật chi lý”, hoặc nói “hữu thị lý nhi phục hữu thị sự”, 
					hoặc nói “thiên địa chi lý, chí thật vô vọng”, hoặc nói 
					“thánh nhân chi tâm chí thật vô vọng”, hoặc nói “năng tri 
					giác, sở tri giác”, hoặc nói “thiên thánh tương truyền tâm 
					pháp”, hoặc nói “thoát nhiên hữu ngộ xứ, hựu phi kiến văn tư 
					lự chi khả cập dã”, hoặc nói “vật ngã nhất lý, cố hữu chi 
					tánh, tâm chi thể dụng”, hoặc nói “ngô tâm chánh, nhi thiên 
					địa chi tâm diệc chánh”, hoặc nói “vạn vật chi bổn nguyên, 
					nhất tâm chi diệu dụng” hoặc nói “hoạt bát bát địa, triệt 
					đầu triệt vĩ tố công phu”, hoặc nói “đáo giá lý”, “giảo thái 
					căn”, “vô phùng tháp”. Hoặc dùng ba câu để phá trừ bệnh chấp 
					trước là: “một đao chặt đứt làm đôi”, “đánh một gậy để lại 
					một lằn” và “một cái tát in dấu bàn tay máu”. 
				  “Khi chú giải quẻ phục, Hối Am dẫn lời trong kinh Lăng 
					Nghiêm làm chứng cứ rằng: Không chỉ là năm có sự biến đổi, 
					mà tháng cũng có biến đổi.
				  “Những sách mà Hối Am chú giải, chỉ riêng có một quyển Mao 
					thi là do sức học của ông làm thành mà thôi, ít dùng đến 
					Phật pháp. Ngoài ra, trong sự chú giải các sách Tứ thư cũng 
					như trước tác, Hối Am đều dùng đến Phật pháp. Ông dùng rất 
					nhiều lời trong kinh Phật và các Thiền ngữ, chỉ thay đổi 
					hình thức, biến đổi câu văn, nhưng vẫn giữ lấy ý tứ. Cách 
					dùng như vậy phổ biến trong khắp các sách của ông. Hối Am đã 
					sử dụng những từ ngữ trong đạo Phật như vậy, lại sợ các ông 
					Chu tử và Trình tử làm sáng rõ lời Phật, thật chẳng biết 
					lòng dạ của ông ta như thế nào?
				  “Hối Am trước theo học với Lý tiên sanh ở Diên Bình. Sau 
					giận vì học lâu mà không có chỗ sáng rõ, lại tìm hỏi các bậc 
					trưởng thượng, ai nấy đều hướng về Thiền học. Do đó ông mới 
					tìm học khắp các bậc tiền bối trong nhà Thiền. Ông có cùng 
					với Lữ Đông Lai và Trương Nam Hiên đến hỏi đạo nơi ngài 
					thiền sư Đại Huệ.
				  “Năm 18 tuổi, Hối Am cùng với Lưu Bình Sơn dạo chơi. Bình 
					Sơn có ý cho rằng Hối Am lưu tâm về đường khoa cử, bèn lục 
					tìm trong rương của Hối Am, nhưng chỉ thấy có một bộ ngữ lục 
					của thiền sư Đại Huệ mà thôi. Qua năm sau, Hối Am thi đỗ.
				  “Hối Am gửi thư cho thiền sư Khiêm ở chùa Khai Thiện nói 
					rằng: ‘Chu Hy này nhờ ơn thiền sư Đại Huệ chỉ bày cho câu 
					thoại đầu tánh Phật của con chó, nhưng chưa có chỗ ngộ nhập. 
					Xin ngài ban cho một lời để gợi mở chỗ mà Chu Hy chưa hiểu 
					được.’ Thiền sư Khiêm viết thư đáp rằng: ‘Cứ nắm chặt lấy 
					một niệm nêu lên cái thoại đầu con chó ấy, không cần so đo 
					tính toán, mạnh mẽ xông về phía trước, một đao chặt đứt làm 
					đôi.’ Hối Am xem thư có chỗ thức tỉnh.
				  “Hối Am tụng kinh Phật nơi mái hiên chùa Trúc Lâm, có làm 
					bài thơ rằng:
				  Nghiêm cẩn sống riêng, lòng rỗng không,
				  Lần dở Phật kinh, lướt đôi dòng.
				  Bụi trần tạm phủi trong thoáng chốc,
				  Vượt lên cùng Đạo bỗng tương thông.
				  Cửa chùa khép lại chiều buông tối,
				  Núi vắng mưa xong tiếng chim rền.
				  Pháp vô vi ấy vừa thấu suốt,
				  Thân tâm cùng tĩnh lặng như như.
				  “Hối Am có thư nói với thiền sư Quốc Thanh rằng: ‘Khi nào 
					thơ của Hàn Sơn Tử khắc xong, xin thầy sớm gửi cho tôi.’
				  “Hối Am lại có gửi cho một vị tăng ẩn cư trên núi bài thơ 
					rằng: 
				  Mái thiền thanh thản mấy thanh ngang,
				  Nước trong êm chảy trước lan can. 
				  Đệm cỏ, ghế tre, ngồi suốt sáng,
				  Quét đất, xông hương, ngày ngủ càn.
				  Đất hẹp không đón người khách lớn,
				  Nhà trống sao trời chẳng rải hoa?
				  Trong ấy có lời không ai biết,
				  Đâu phải chuyện thiền khắp muôn phương?
				  “Các ông Lục Văn An, Công Cửu Uyên đều đã cùng tranh luận 
					với Hối Am về thuyết Thái cực đồ, đều biết chỗ học thiền của 
					Hối Am, nên nói rằng Hối Am có chỗ chứng ngộ thì người đời 
					đều chê cười việc ấy.
				  “Có người hỏi: ‘Hiện nay kẻ sĩ đều lần hồi bỏ đạo Nho vào cả 
					trong nhà Thiền, việc ấy thế nào?’ 
				  “Hối Am đáp: ‘Những người ấy thấy biết hơn ông đó. Bình sanh 
					ông đọc biết bao nhiêu sách vở, học thuộc bao nhiêu áng văn 
					chương, chỉ là để mưu cầu được công danh lợi lộc mà thôi. 
					Đến chỗ thiết yếu nhất trong đời thì những việc ấy đều chẳng 
					cậy nhờ được gì cả. Vì thế nên bị những người kia vượt qua 
					cả rồi.
				  “Vương Giới Phủ bình sanh học rộng đạo lý, đến khi được tỏ 
					ngộ rồi thì biến nhà mình thành cảnh chùa. Cũng trong đời 
					Tống này, hãy xem các ông Lý Văn Tĩnh Công, Vương Văn Chánh 
					Công, Lưu Nguyên Thành, Lữ Thân Công... là người như thế nào 
					mà đều theo vào Thiền học cả?
				  “Những điều Phật dạy về Sáu căn, Sáu trần, Sáu thức, Bốn 
					đại, Mười hai duyên sanh... đều hết sức tinh vi mầu nhiệm, 
					nên người theo đạo Nho nói rằng Đức Khổng tử không thể theo 
					kịp. Mười hai duyên sanh được giảng rõ trong bộ Hoa nghiêm 
					hiệp luận. Phật dạy căn bản là phải buông bỏ hết muôn việc 
					nơi thế gian, sau lại dạy rằng chỗ chân thật nhất là không 
					hề vướng một mảy may bụi trần, nhưng đối với muôn việc diễn 
					ra trước mắt không bỏ qua việc nào! Tổ Đạt-ma phá sạch mọi 
					khuôn mẫu cứng nhắc, khởi xướng Thiền học, so với cái học 
					ngữ nghĩa rất khác xa, thật cao siêu mầu nhiệm. 
				  “Đại ý kinh Kim cang chỉ ở nơi hai câu hỏi của ông Tu-bồ-đề: 
					Nên trụ tâm vào đâu? Làm thế nào để hàng phục tâm? Vậy nên 
					Phật dạy rằng: Không nên trụ nơi pháp mà sanh tâm. Không nên 
					trụ vào sắc mà sanh tâm...
				  “Thiền tông có lời rằng:
				  Có vật sanh trước trời đất,
				  Không hình tướng, vốn lặng yên;
				  Chi phối khắp thảy hiện tượng,
				  Chẳng theo bốn mùa tàn suy.
				   
				  Đánh rụng không là vật khác
				  Dọc ngang chẳng phải bụi trần;
				  Khắp cả núi sông, cõi đất,
				  Hiện bày toàn thân Pháp vương.
				  “Nếu ai nhận biết được tâm thì khắp cõi đất này cũng chẳng 
					có lấy một tấc đất. Hãy xem kiến thức của người ta là thế 
					nào, nay cứ bo bo giữ lấy kiến thức của hạng tiểu nho thì 
					làm sao ra khỏi tay người, tránh sao khỏi bị người đánh 
					ngã?’
				  Hối Am đã học biết rộng về Phật học như vậy, nhưng lại dạy 
					người từ bỏ Phật học, thật chẳng biết tâm ý của ông ấy là 
					thế nào?”
				  (Trước đây có nói rằng Hối Am tự mình sử dụng từ ngữ của đạo 
					Phật, nhưng lại sợ các ông Chu tử và Trình tử giảng rõ lời 
					Phật; tự mình học rộng về đạo Phật, nhưng lại dạy người ta 
					từ bỏ Phật học. Hai điểm này đều làm lộ rõ chỗ tâm bệnh của 
					Hối Am.)
				  Thiền sư Không Cốc lại nói với Vương Trung rằng: “Nếu ông có 
					thể thâm nhập hòa hợp, quán chiếu thấu suốt, thấy được một 
					cách toàn diện, thì mới biết rằng các ông Chu, Trình, 
					Trương, Tạ, Du, Dương và Hối Am thảy đều làm như vậy. Trong 
					khi viết sách, đặt câu, những chỗ thuyết dạy đạo lý thì mỗi 
					việc đều lấy ý tứ trong kinh Phật, lời Thiền. Há chẳng nghe 
					Trung Túc Công có nói rằng: ‘Học thuyết tánh lý do thầy Đông 
					Lâm truyền cho Liêm Khê, những lời dạy ấy đều thấy có trong 
					khắp các kinh Phật.’
				  “Gần đây, thảng hoặc có đôi kẻ chỉ vào Thiền ngữ mà nói 
					rằng: ‘Chương sách này sao giống với lời lẽ của Tống nho! 
					Những câu này cũng giống với văn chương Tống nho!’ 
				  “Than ôi! Họ chưa từng biết rằng ngôn ngữ của Tống nho đều 
					từ nơi Thiền tông mà ra vậy!”
				  Thái Nguyên thưa rằng: “Những lời thầy vừa nói đó đều lấy từ 
					sách Nho, nên chẳng phải theo ý riêng, mà quả thật là công 
					bằng. Vả lại, những người đời bài bác đạo Phật, có thể là do 
					sức học chưa được sâu rộng hay chăng? Có thể là do lý lẽ 
					chưa được thông suốt hay chăng? Có thể là do công phu học 
					Phật chẳng đến nơi đến chốn nên trở lại bài bác hay chăng? 
					Có thể là do sự dụng tâm như Kỷ Xương ngày xưa hay chăng? 
					Cũng có thể là do trói buộc nơi tâm lượng hẹp hòi, không thể 
					giáo hóa làm cho lớn rộng, thông suốt được hay chăng?”
				  Thiền sư Không Cốc nói: “Than ôi! Với người tầm thường còn 
					chẳng dám coi khinh, huống chi lại chỉ vì muốn chuốc lấy 
					chút hư danh mà cố tình thiên lệch để bài bác nền Đại pháp 
					cứu độ nhân sanh của bậc Đại thánh nhân trong Ba cõi? Tôi 
					thật lấy làm lo lắng cho những kẻ bài bác kia phải suy tổn 
					âm đức cho đến mức cùng cực vậy.