Một hôm, Nhất Nguyên đang đóng cửa ngồi yên tịnh, bỗng có 
					mấy người cư sĩ đến gõ cửa hỏi rằng: “Nhân duyên ba hội Long 
					Hoa như thế nào, xin thầy chỉ bày cho.”
				  Nhất Nguyên hỏi lại: “Vì sao các ông đến hỏi tôi việc này?”
				  Cư sĩ nói: “Chúng tôi từ nhỏ đã thường ăn chay niệm Phật, 
					nguyện đến thắng hội Long Hoa sẽ chứng quả Bồ-đề. Vì thế mới 
					hỏi về việc này.”
				  Nhất Nguyên cười đáp rằng: “Nếu các ông cầu sanh Tịnh độ thì 
					hỏi như vậy muộn quá, còn như cầu sanh vào hội Long Hoa thì 
					hỏi câu ấy sớm quá.”
				  Cư sĩ hỏi: “Thế nào gọi là sớm với muộn?”
				  Nhất Nguyên đáp: “Ví như ngay hôm nay thành Phật, muốn làm 
					hóa chủ cõi Lạc bang cũng đã là muộn rồi, sao còn mong muốn 
					điều ấy? Huống chi còn phải đợi cho hết kiếp luân hồi, há 
					chẳng phải muộn quá hay sao? 
				  “Còn đức Phật Di-lặc, phải đợi năm mươi sáu ức vạn năm mới 
					giáng sanh tại hội Long Hoa, há chẳng là hỏi việc ấy sớm quá 
					hay sao? 
				  “Các ông đã biết ăn chay niệm Phật, chỉ nên ngay trong đời 
					này cầu sanh Tịnh độ, mau chóng chứng quả Bồ-đề, vì sao phải 
					đợi cho đến hội Long Hoa sau này?”
				  Cư sĩ thưa rằng: “Chúng tôi thường nghe nhiều người nói về 
					hội Long Hoa, nên mới theo đó mà phát nguyện như vậy.”
				  Nhất Nguyên nói: “Chẳng cầu Tịnh độ mà cầu Long Hoa, cũng 
					chẳng biết còn phải chịu bao nhiêu nỗi khổ xoay vần nữa, 
					phát nguyện như thế thật không phù hợp.”
				  Cư sĩ nói: “Chúng tôi nhờ ơn thầy trừ dứt chỗ nghi ngờ, từ 
					nay xin theo con đường tắt cầu sanh Tịnh độ.”
				  Nhất Nguyên nói: “Chỉ cần có lòng tin chắc, quyết không bị 
					dối gạt.”
				  Cư sĩ thưa: “Không biết chúng tôi có thể may mắn được nghe 
					thầy chỉ dạy về pháp cầu sanh Tịnh độ hay chăng? Hơn nữa, 
					chúng tôi cũng mong được nghe về ba hội Long Hoa.”
				  Nhất Nguyên đáp: “Nếu nói thật đủ thì nhiều việc rườm rà, 
					còn lược bớt đi thì thiếu phần nghĩa lý. Nay tôi sẽ dựa theo 
					một bản kinh do Pháp sư La-thập dịch để trình bày với mọi 
					người.
				  “Kể từ khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni đản sanh, con người có 
					tuổi thọ trung bình là 100 tuổi. Lấy đó làm mốc để tính tới, 
					cứ qua 100 năm thì giảm bớt 1 tuổi, giảm dần như vậy cho đến 
					khi tuổi thọ trung bình của con người chỉ còn 30 tuổi. Khi 
					ấy con người chỉ cao chừng 3 thước. Bấy giờ sẽ có nạn đói 
					khởi lên. 
				  “Lại tiếp tục giảm dần cho đến khi đời sống con người chỉ 
					còn 20 tuổi, cao khoảng 2 thước. Bấy giờ sẽ có dịch bệnh 
					khởi lên. 
				  “Lại tiếp tục giảm mãi cho đến khi đời sống con người chỉ 
					còn 10 tuổi, cao khoảng 1 thước. Bấy giờ sẽ có nạn binh đao 
					khởi lên. 
				  “Như trên vừa kể là biến tướng của ba tai kiếp nhỏ. Sau ba 
					tai kiếp này, chỉ còn lưu lại được 10.000 người, gồm cả nam 
					lẫn nữ, cùng trốn vào trong núi sâu để lưu lại giống nòi. 
					Vào lúc ấy, con gái chỉ 5 tuổi thì lấy chồng. Đó là thời kỳ 
					kiếp giảm đạt đến mức thấp nhất.
				  “Rồi bắt đầu kể từ đó, cứ qua 100 năm thì tuổi thọ trung 
					bình của con người lại tăng thêm 1 tuổi. Tăng dần như vậy, 
					cho đến lúc đời sống con người là 84.000 tuổi. Đó là thời kỳ 
					kiếp tăng đạt đến mức cao nhất.
				  “Sau khi đạt đến mức cao nhất rồi, lại cứ qua 100 năm thì 
					giảm bớt 1 tuổi. Giảm dần như vậy cho đến lúc đời sống con 
					người còn 80.000 tuổi, đức Phật Di-lặc mới đản sanh tại kinh 
					thành nước Sí-đầu-mạt, trong một gia đình đại bà-la-môn. 
					Người cha tên là Tu-phạm-ma (Thiên Tịnh), người mẹ tên là 
					Phạm-ma Bạt-đề (Tịnh Diệu). Đức Di-lặc tuy ở trong bào thai 
					nhưng chẳng khác gì giữa chốn Thiên cung, không bị trần cấu 
					che lấp, tự nhiên hóa sanh, thân cao 32 trượng, ngực rộng 10 
					trượng, mặt dài 5 trượng, có đủ 84.000 tướng tốt và vẻ đẹp 
					chói sáng rực rỡ. Chúng sanh được nhìn chẳng bao giờ thấy 
					chán.
				  “Tại nước ấy có vị vua Chuyển luân tên là Nhương-khư, rộng 
					làm Mười nghiệp lành, dạy dỗ nhân dân, mọi người đều được 
					cảm hóa, ai ai cũng khâm phục. Tuổi thọ của người dân thảy 
					đều được 80.000 tuổi, thân cao 16 trượng, tướng mạo đoan 
					nghiêm, không có ai xấu xa thô kệch. Con gái đến 500 tuổi 
					mới lấy chồng. 
				  “Vào thời ấy, đời sống không có mọi tai nạn, không có những 
					nỗi khổ vì nóng, lạnh. Nhà không cần đóng cửa, không có nạn 
					trộm cướp. Y phục tự nhiên hóa hiện, chẳng cần phải khó nhọc 
					làm ra. Vàng bạc, bảy báu chứa đầy kho, chẳng ai thèm ngó 
					đến. Đất đai bằng phẳng, không có gò nổng, hầm hố. Trên đất 
					mọc lên những cây cối hình như con rồng vàng, trên hình rồng 
					ấy trổ ra hoa, vì vậy nên gọi thời ấy là thắng hội Long Hoa.
				  
				  “Cảnh giới mà nhân dân được thọ hưởng khi ấy giống như ở 
					Thiên cung Tự tại hoặc như trên cảnh trời Đao-lỵ. Chỉ có ba 
					điều làm cho người ta không được hưởng trọn vẹn khoái lạc: 
					một là sự ăn uống, hai là sự bài tiết tiêu hóa, ba là sự già 
					yếu. 
				  “Mỗi khi cần đi tiêu thì tự nhiên mặt đất sẽ nứt ra, đi tiêu 
					xong thì đất khép lại, và có hoa sen màu đỏ mọc lên làm tiêu 
					mất sự hôi hám. 
				  “Khi con người sắp mạng chung thì tự đi đến nơi nghĩa địa. 
					Sau khi chết, thần thức liền sanh lên cõi trời, không đọa 
					vào các đường ác. Vì sao vậy? Vì nhân dân cõi ấy đều tu Mười 
					nghiệp lành, nên đều được sanh lên cõi trời.
				  “Tại pháp hội đầu tiên của đức Phật Di-lặc, có 96 ức người 
					chứng quả A-la-hán, 36 vạn chư thiên, loài người và các loài 
					khác trong Tám bộ chúng phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại có 
					nhiều vị chứng được bốn thánh quả của Ba thừa.
				  “Tại pháp hội thứ nhì, có 94 ức người chứng quả A-la-hán, 64 
					ức chư thiên, loài người và các loài khác trong Tám bộ chúng 
					phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại có nhiều vị chứng được bốn 
					thánh quả của hàng Nhị thừa.
				  “Tại pháp hội thứ ba, có 92 ức người chứng quả A-la-hán, 34 
					ức chư thiên, loài người và các loài khác trong Tám bộ chúng 
					phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lại có nhiều vị chứng được bốn 
					thánh quả của hàng Nhị thừa.
				  “Đức Phật Di-lặc trụ thế 60.000 năm, thuyết pháp cứu độ 
					chúng sanh. Sau khi ngài nhập Niết-bàn, Chánh pháp cũng trụ 
					thế trong thời gian 60.000 năm. Rồi đến thời Tượng pháp cũng 
					kéo dài trong thời gian 60.000 năm.
				  “Về ba hội Long Hoa, chỉ nói sơ lược như trên. Còn những 
					nghĩa lý mầu nhiệm khác thì ghi chép đầy đủ trong kinh, ở 
					đây không thể nói hết.”
				  Những người cư sĩ lại thưa hỏi: “Việc ba tai kiếp nhỏ và ba 
					hội Long Hoa đã được nghe rồi. Xin phiền tôn sư chỉ bày cho 
					biết về sự tướng đại kiếp, tiểu kiếp cùng với ba tai kiếp 
					lớn.”
				  Nhất Nguyên nói: “Được, tôi sẽ nói đây, các ông nên lắng 
					nghe cho rõ. Về tiểu kiếp thì khi nãy đã có nói sơ qua. Giờ 
					sẽ nói thêm cho tường tận, rõ ràng hơn. 
				  “Kể từ khi tuổi thọ con người là 10 tuổi mà tính tới, cứ qua 
					100 năm lại tăng thêm 1 tuổi, tăng dần mãi cho đến khi tuổi 
					thọ con người được 84.000 tuổi là mốc cuối cùng của kiếp 
					tăng. Từ đó, cứ qua 100 năm lại giảm bớt 1 tuổi, giảm dần 
					mãi cho đến khi tuổi thọ con người chỉ còn 10 tuổi là mốc 
					cuối cùng của kiếp giảm. Trọn một chu kỳ tăng và giảm như 
					vậy gọi là một tiểu kiếp. Hai tiểu kiếp như vậy gọi là một 
					trung kiếp. Trải qua đủ 4 giai đoạn thành, trụ, hoại, không, 
					mỗi giai đoạn đều kéo dài 1 trung kiếp, gọi là một đại kiếp.
				  
				  “Khi mỗi một đại kiếp sắp dứt thì khởi lên nạn lửa cháy, làm 
					hư hoại đến tận cảnh trời Sơ thiền. Sau 7 lần xảy ra nạn lửa 
					cháy thì có 1 lần xảy ra nạn nước lụt, làm hư hoại đến tận 
					cảnh trời Nhị thiền. Như vậy, sau 49 lần xảy ra nạn lửa cháy 
					tức là đã có 7 lần xảy ra nạn nước lụt. Lại tiếp tục có 7 
					lần xảy ra nạn lửa cháy nữa, mới có 1 lần xảy ra nạn gió 
					bão, làm hư hoại đến tận cảnh trời Tam thiền. 
				  “Hết thảy có 56 lần xảy ra nạn lửa cháy làm hư hoại đến cảnh 
					trời Sơ thiền, 7 lần xảy ra nạn nước lụt làm hư hoại đến 
					cảnh trời Nhị thiền, và 1 lần xảy ra nạn gió bão làm hư hoại 
					đến cảnh trời Tam thiền. Tổng cộng quãng thời gian này là 64 
					đại kiếp, trong đó xảy ra đủ ba tai kiếp lớn. Sự tướng trước 
					sau là như vậy.
				  “Nên người xưa có nói rằng:
				  Chư thiên chẳng khỏi năm tướng suy. 
				  Tam thiền còn nạn gió bão lay.
				  Dẫu tu đến cảnh Phi phi tưởng.
				  Chẳng bằng về được chốn xưa nay.
				  “Về chốn xưa nay, đó là nói đến cảnh giới Tịnh độ phương 
					Tây. Nếu người không tu Tịnh độ thì sẽ phải xoay vần ngang 
					dọc trong chốn Tứ sanh, Lục đạo, không thoát ra khỏi ba tai 
					kiếp lớn và ba tai kiếp nhỏ, thác ở nơi này lại sanh ra nơi 
					kia, mãi mãi luân chuyển chịu khổ vô cùng!”
				  Cư sĩ thưa rằng: “Nghe lời thầy giảng giải, thật nên sớm tu 
					Tịnh độ để ra khỏi vòng khổ não.”
				  Nhất Nguyên nói: “Nay tôi đã chỉ rõ cho các ông, các ông 
					cũng nên đem những điều đã nghe mà khuyên bảo, chỉ bày cho 
					người khác, để cho tất cả đều được sanh về Tịnh độ.”
				  Cư sĩ thưa: “Xin kính cẩn vâng theo lời thầy dạy, sẽ truyền 
					bá pháp môn này ra khắp nơi.” Rồi cùng nhau lễ bái tạ ơn và 
					lui về.