Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Tứ Phần Luật [四分律] »» Bản Việt dịch quyển số 39 »»

Tứ Phần Luật [四分律] »» Bản Việt dịch quyển số 39

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.62 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.79 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luật Tứ Phần

Kinh này có 60 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
Quyển đầu... ... 28 | 29 | 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35 | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42 | 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 |
Việt dịch: Thích Đỗng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Thích Nguyên Chứng - Thích Đức Thắng
Hiệu chính và chú thích
II. NHÂN DUYÊN ỨC NHĨ
1. Tăng già biên địa

Bấy giờ Đại Ca-chiên-diên ở trong sườn núi Câu-lưu Hoan hỷ[17] tại nước A-bàn-đề,[18] cùng với Ức Nhĩ ưu-bà-tắc,[19] có cả người sai khiến.[20]
Bấy giờ, Ức Nhĩ lòng tự nghĩ rằng:
«Như lời Phật dạy, nếu ta sống tại gia cùng với vợ con, không thể tu hạnh thanh tịnh được. Ta hãy cạo bỏ râu tóc xuất gia làm đạo.»
Ức Nhĩ liền đến chỗ Đại Ca-chiên-diên thưa:
«Con nghe lời Phật dạy, nếu sống tại gia cùng với vợ con, không thể tu hạnh thanh tịnh được. Cúi xin Đại đức cho con xuất gia thọ đại giới.»
Ca-chiên-diên nói:
«Xuất gia là việc rất khó. Làm sa-môn cũng không phải là dễ. Ông nên sống tại gia, hộ trì Phật giới, tùy theo thời tu hành theo lời Phật dạy.»
Ức Nhĩ thưa xin ba lần. Đại Ca-chiên-diên thấy Ức Nhĩ ân cần ba phen, bèn cho xuất gia, nhưng đến ba năm mới được thọ đại giới. Tại sao vậy? Bởi vì không đủ Tăng gồm mười vị. Ức Nhĩ thọ giới chưa bao lâu liền đắc đạo A-la-hán. Tự ghi nhận sự đắc đạo như trước đã nói.
Bấy giờ Ức Nhĩ nghe đức Phật có công đức tướng hảo trang nghiêm, các căn tịch tịnh, vô thượng điều phục, như tượng vương, như vực suối trong vắt, người nghe đều hoan hỷ. Ức Nhĩ muốn đến yết kiến đức Phật nên đến chỗ Ca-chiên-diên thưa:
«Con nghe công đức của Phật như vậy, muốn đến yết kiến Như Lai, bậc Vô sở trước, Đẳng chánh giác.»
Ca-chiên-diên nói:
«Công đức của Phật như lời ông nói.»
Ca-chiên-diên nói tiếp:
«Ông nhơn danh tôi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân, thăm hỏi Thế Tôn: ‹Thế Tôn đi đứng khỏe mạnh không? Ít bịnh, an lạc không?› Rồi ông đem năm việc sau đây đến bạch đức Thế Tôn:
«1. Tại nước A-thấp-bà A-bàn-đề ít Tỳ-kheo, nên thọ đại giới khó khăn, ba năm mới tổ chức được.[21] Tại sao như vậy? Vì không đủ Tăng mười vị. Từ nay về sau, cúi xin đức Thế Tôn phương tiện khai cho thế nào để nước A-thấp-bà A-bàn-đề được thọ đại giới dễ dàng.
«2. A-thấp-bà A-bàn-đề nhiều chông gai, sỏi đá; giày dép một lớp dễ bị hư rách. Cúi xin đức Thế Tôn cho phép mang giày dép hai lớp.
«3. A-thấp-bà A-bàn-đề người đời ưa tắm. Cúi xin đức Thế Tôn cho phép tỳ-kheo thường thường tắm rửa.
«4. Như các phương khác có những loại ngọa cụ tốt như y-lê-diên-đà, mạo-la, mạo-mạo-la, cù lâu[22] như vậy. Nước A-thấp-bà A-bàn-đề cũng dùng da làm ngọa cụ như da sơn dương, da cừu, da hươu.[23] Cúi xin đức Thế Tôn cho phép được dùng ngọa cụ bằng da.
«5. Có tỳ-kheo đến địa phương khác. Sau đó, trú xứ cũ được y,[24] không dám nhận; vì sợ phạm ni-tát-kỳ. Cúi xin đức Thế Tôn phương tiện khai cho được nhận.»
Tỳ-kheo Ức Nhĩ nghe Đại Ca-chiên-diên nói, im lặng thọ trì, từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu mặt kính lễ, nhiễu quanh rồi cáo lui. Ức Nhĩ nghe đức Thế Tôn ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành Vương-xá. Ức Nhĩ mang đầy đủ ba y và bát đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên, đức Phật liền ủy lạo bằng cách hỏi:
«Trụ chỉ có được an lạc hay không? Có vất vả vì sự ăn uống không ?»
Ức Nhĩ bạch Phật, trụ chỉ được an lạc, không bị vất vả bởi thức ăn. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
«Sửa soạn chỗ cho các tỳ-kheo nghỉ.»
Tôn giả A-nan tự biết, theo thường pháp của đức Thế Tôn, là muốn cho khách tỳ-kheo cùng nghỉ với Ngài, nên mới bảo A-nan sửa soạn. Tôn giả vâng lời Phật dạy, vào trong phòng nơi đức Phật nghỉ, sửa soạn một chỗ ngồi đối diện với chỗ ngồi của Ngài. Rồi trở lại chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, đứng qua một bên, bạch đức Thế Tôn:
«Con đã sửa soạn chỗ cho khách tỳ-kheo nghỉ xong. Con xin phép được mời khách vào.»
Đức Thế Tôn liền đứng dậy vào phòng, đến chỗ ngồi. Ức Nhĩ cùng vào phòng với đức Phật, ngồi vào chỗ ngồi đối diện. Đức Thế Tôn ngồi tĩnh lặng trong giây lát, rồi bảo Ức Nhĩ:
«Ông có thể nói pháp không?»
Ức Nhĩ nghe lời Phật dạy, bèn ở trước đức Phật, nói «Mười sáu cú nghĩa»,[25] không thêm, không bớt, không hoại, âm thanh trong trẻo, chương cú thứ tự rõ ràng có thể hiểu được. Bấy giờ, đức Thế Tôn nghĩ: ‹Hay thay, tỳ-kheo này nói kinh pháp mười sáu cú nghĩa, không tăng, không giảm, không hư hoại, âm thinh trong trẻo, thứ tự chương cú rõ ràng, có thể hiểu được.› Đức Phật hỏi Ức Nhĩ:
«Trước đây ông làm gì?»
Ức Nhĩ thưa:
«Từ lâu, con thấy dục là tai hại. Nhưng thọ giới được thì rất khó. Phải đợi đến ba năm. Vì sao vây? Vì không đủ chúng mười vị.»
Ức Nhĩ nghĩ rằng nay đã đúng lúc bạch lên đức Thế Tôn năm việc mà Hòa thượng Ca-chiên-diên dặn. Ức Nhĩ bạch Phật:
«Hòa thượng Ca-chiên-diên của con dặn con nhơn danh người đê đầu đảnh lễ sát chân đức Thế Tôn và xin được vấn an sức khỏe Thế Tôn: ‹Thế Tôn đi đứng khỏe mạnh không? Ít [846a1] bịnh, an lạc không?› »
Rôi Ức Nhĩ trình bày năm việc như trên lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn chấp thuận bằng sự im lặng.
Sáng sớm hôm sau, đức Phật dùng nhơn duyên này tập hợp Tăng tỳ-kheo, vì các tỳ-kheo tùy thuận nói pháp, dùng vô số phương tiện khen ngợi hạnh đầu đà, oai nghi tề chỉnh, thiểu dục tri túc, ưa nơi không nhàn, và bảo các tỳ-kheo:
«Cho phép nước A-thấp-bà A-bàn-đề có người thứ năm là người trì luật[26] thì được thọ đại giới. Các nơi khác gặp trường hợp như vậy cũng cho phép. Nơi khác là: phương Đông có nước tên là Bạch mộc điều;[27] ngoài nước ấy thì được phép. Phương Nam có tháp tên là Tĩnh thiện,[28] ngoài tháp ra thì được phép. Phương Tây có Quốc sơn tên là Nhất-sư-lê Tiên nhơn chủng,[29] ngoài núi ra thì được phép. Phương Bắc có nước tên là Trụ,[30] ngoài ra thì được phép. Ngoài các nơi như trên nếu có người thứ năm là người trì luật thì được phép thọ giới.
«Cho phép nước A-thấp-bà A-bàn-đề mang giày dép hai lớp.
«Cho phép nước A-thấp-bà A-bàn-đề thường xuyên được tắm rửa.
«Cho phép nước đó trải da của loài sơn dương, cừu, da hươu làm ngọa cụ.
«Cho phép các tỳ-kheo nhận được y đủ mười ngày. Quá hạn nên xả. Xả rồi sám hối.»
2. Những quy định về da thuộc
i. Quy định chung về giày dép
Bấy giờ, có tỳ-kheo nhận được đôi dép vá bằng da; khi ở cách Phật không xa, bèn xé lột ra cho hư hoại, vì sợ phạm mang dép hai lớp. Đức Thế Tôn biết mà vẫn hỏi tỳ-kheo ấy:
«Sao ông xé đôi dép cho hư hoại?»
Vị tỳ-kheo thưa:
«Vì con sợ phạm giới mang dép hai lớp.»
Đức Phật dạy:
«Giày dép bị lủng hư, được phép vá hai lớp.»
Các tỳ-kheo nhận được loại da chưa thuộc. Đức Phật dạy:
«Cho phép thuộc da cho mềm. Hoặc tự mình làm cho nó mềm, hoặc nhờ người làm cho mềm rồi mới cắt làm giày dép một lớp.»
Cần dao, Phật cho phép chứa dao. Cần ván, Phật cho phép chứa ván. Cần gân, cần lông, cần chỉ da... đức Phật đều cho phép chứa. Cần kéo, đức Phật cho phép chứa kéo. Dao lụt, cho phép mài, cho phép chứa đá mài.
Bấy giờ, các tỳ-kheo để rải rác dao, dùi, gân, lông, chỉ da, kéo, không có chỗ cất. Đức Phật dạy:
«Cho phép làm cái túi để đựng. Hoặc lấy tre đan thành lồng; hoặc lấy vỏ cây làm thành cái lồng. Cho phép dùng đãy bằng lông bọc bên ngoài. Có thể dùng một trong mười loại vải để làm cái đãy.
Các tỳ-kheo dùng da để làm. Đức Phật dạy:
«Không được dùng da làm.»
Các tỳ-kheo để y mới trên giày dép rồi ngồi, làm bẩn y. Đức Phật dạy:
«Không được để y mới lên trên giày dép rồi ngồi lên trên. Các tỳ-kheo cũng không được ngồi trên da. Trừ nước A-thấp-bà A-bàn-đề.»
Các tỳ-kheo đem giày dép để ở trước rồi ngủ, chó ngậm đem đi. Đức Phật dạy:
«Không được để giày dép ở trước rồi ngủ. Nên lấy cỏ phủ lại. Hoặc úp hai đế lại với nhau rồi để dưới ni-sư-đàn.»
Tỳ-kheo đem giày dép để một bên rồi ngủ. Khi lăn qua, nằm trên giày dép, với tâm cẩn thận nghĩ, sợ phạm tội nằm ngủ trên da. Đức Phật dạy:
«Không phạm.»
Có tỳ-kheo đem giày dép để trong bình bát mang đi. Tỳ-kheo khác thấy, nhờm gớm. Đức Phật dạy:
«Không nên để giày dép trong bình bát. Nên giữ bát cho sạch sẽ.»
Có tỳ-kheo một tay cầm cả giày dép và bình bát. Tỳ-kheo khác thấy, nhờm gớm. Đức Phật dạy:
«Không được một tay cầm cả giày dép và bình bát. Nên một tay cầm bình bát, một tay xách giày dép.»
Các tỳ-kheo lội qua nước bùn, vén y không được. Y rớt trong nước bùn. Đức Phật dạy:
«Cho phép dùng ngón tay móc giày dép. Bình bát để trong bàn tay. Một tay vén y.»
ii. Các loại da
Các tỳ-kheo ở nước Câu-tát-la, du hành trong nhơn gian. Đến nơi thôn không có trú xứ tỳ-kheo. Nghỉ đêm tại nhà ông thợ làm đồ gốm, gần bên chỗ nhồi bùn có da thú. Tỳ-kheo ngủ bên trên, sáng ngày mới thấy, sợ phạm ngủ trên da. Đức Phật dạy:
«Không phạm.»
Nhóm sáu tỳ-kheo tích trữ loại da lớn[31] như sư tử, cọp, beo, rái cá, mèo rừng, ca-la,[32] cáo. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được chứa tất cả da lớn.»
Nhóm sáu tỳ-kheo ngồi trên giường cao lớn, hoặc ngồi một mình trên giường dây, giường cây, giường ngà voi, trải bằng da ngựa, da voi; đệm bông, ngọa cụ tạp sắc, cù lâu,[33] dùng các loại lông con rái cá độn làm nệm. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được ngồi trên giường cao lớn, cho đến dùng lông con rái cá độn làm nệm.»
Các tỳ-kheo đến nhà bạch y. Họ trải giường cao rộng tốt đẹp cho tỳ-kheo, mời tỳ-kheo ngồi. Các tỳ-kheo nói:
«Đức Phật không cho phép chúng tôi ngồi trên giường cao lớn.»
Các bạch y thưa:
«Chúng con đâu có cái giường nào khác.»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép ngồi. Trừ loại giường bằng vật báu, ngoài ra, nơi nhà bạch y, được phép được ngồi.»
Các tỳ-kheo đến nhà bạch y. Họ vì tỳ-kheo trải giường bằng da, giường đơn.[34] Các tỳ-kheo e ngại không dám ngồi, nghĩ rằng: ‹Đức Phật không cho chúng ta ngồi trên da thú, trừ tại nước A-thấp-bà A-bàn-đề.› Các bạch y thưa:
«Chúng con không có cái giường nào khác.»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép nơi nhà bạch y được ngồi.»
Các tỳ-kheo đến nhà bạch y. Họ trải giường dây, giường cây dài. Các tỳ-kheo e ngại không dám ngồi vì Phật không cho phép họ và thượng tọa cùng ngồi trên một giường. Các bạch y thưa:
«Chúng con không đủ chỗ cho mỗi vị ngồi riêng một giường.»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép nơi nhà bạch y được ngồi chung.»
Các tỳ-kheo đến nhà bạch y. Họ trải đãy bằng da. Tỳ-kheo có tâm e ngại, nghĩ rằng: ‹Đức Phật không cho phép ngồi trên da.›
Các cư sĩ thưa:
«Chúng con không có chỗ ngồi nào khác.»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép nơi nhà bạch y được ngồi.»
Bấy giờ, Bạt-nan-đà Thích tử có đàn-việt là một người chăn bò. Sáng sớm, Bạt-nan-đà khoác y đến nhà đàn-việt, trải chỗ ngồi. Lúc đó, người chăn bò đến ngồi nghe pháp. Bạt-nan-đà Thích tử khéo léo vì ông nói pháp, dùng mọi phương tiện khuyến hóa người đàn-việt khiến rất hoan hỷ, nên hỏi:
«Đạt đức cần gì?»
Bạt-nan-đà nói:
«Thôi. Tôi không cần gì. Như thế là cúng dường rồi.»
Người đàn-việt lại thưa:
«Xin Thầy cần gì cứ nói.»
Bạt-nan-đà nói:
«Thôi, tôi không cần gì. Tôi có nói ra cũng không đáp ứng được đâu!»
Người đàn-việt nói:
«Đại đức cứ nói, con sẽ dâng cúng.»
Cách đó không xa có một con bê khoang, Bạt-nan-đà nói:
«Tôi cần loại da đó.»
Người đàn-việt thưa:
«Xin ngài đợi một chút, để con giết nó đã.»
Người ấy liền giết con bê, lột da cúng cho Bạt-nan-đà. Bạt-nan-đà nhận được da rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy mang đi. Con bò mẹ rống la thống thiết, đi theo Bạt-nan-đà đến cửa Kỳ-hoàn. Các tỳ-kheo thấy hỏi:
«Con bò này tại sao rống la và đi theo thầy?»
Bạt-nan-đà nói:
«Đây là da của con nó. Tôi mang về nên nó đi theo.»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được xin da sống. Nếu xin, sẽ như pháp trị.»
iii. Các vật dụng bằng da
1. Các tỳ-kheo e ngại không dám đeo phao nổi qua sông. Đức Phật dạy:
«Được phép.»
Các tỳ-kheo nắm đuôi trâu lội qua sông. Khi qua khỏi sông mới biết là trâu cái nên e ngại. Đức Phật dạy:
«Không phạm. Tuy nhiên, từ nay về sau, không nên nắm đuôi trâu cái qua sông.»
Các tỳ-kheo không dám ngồi trên thảm bằng da để qua sông. Đức Phật dạy:
«Được phép ngồi.»
Các tỳ-kheo e ngại không dám ngồi trên thuyền bằng da để qua sông. Đức Phật dạy:
«Cho phép được ngồi trên thuyền bằng da để qua sông. Hoặc ngồi hay nằm tùy ý.»
2. Các tỳ-kheo dùng da làm đãy đựng dao, không dùng vật gì bao phủ dao lại nên bị hư. Đức Phật dạy:
«Nên dùng lông mịn hoặc kiếp-bối hay da lớn bao phủ dao lại.»
Các tỳ-kheo chứa giày dép da hai lớp. Đức Phật dạy:
«Không được chứa giày dép da hai lớp.»
Các tỳ-kheo chứa giày dép da ca-na-phú-la.[35] Đức Phật dạy:
«Không được chứa giày dép da ca-na-phú-la.»
Tỳ-kheo cùng với bạch [847a1] y nước Câu-tát-la cùng đi trên đường, bị vật nhọn đâm chảy máu dưới chân rất trầm trọng, không thể đi được. Bạch y thấy vậy liền đưa giày dép mình mang cho tỳ-kheo. Tỳ-kheo e ngại phạm xử dụng giày dép da ca-na-phú-la nên không dám nhận. Đức Phật dạy:
«Có nhân duyên như vậy thì cho phép thọ dụng.»
Nhóm sáu tỳ-kheo chứa giày dép bằng sừng xoay.[36] Đức Phật dạy:
«Không được chứa giày dép bằng sừng xoay.»
Các tỳ-kheo chứa giày dép bằng sừng nai. Đức Phật dạy:
«Không được chứa giày dép bằng sừng nai.»
Các tỳ-kheo chứa giày dép a-la-lê.[37] Đức Phật dạy:
«Không được chứa như vậy.»
Nhóm sáu tỳ-kheo dùng da nhiều màu làm dây cột giày dép. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo dùng bố bằng lụa làm dây cột giày dép. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo chứa giày dép phú-la-bạt-đà-la.[38] Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép chơn-thệ-lê.[39] Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép bện hai bên.[40] Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép có nhiều dây. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép hình cuốn.[41] Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép bằng da lớn, da sư tử, da cọp, da beo, da rái cá, da mèo rừng, da nhiều màu, da cáo. Đức Phật dạy:
«Tất cả loài da đó không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo dùng da lớn viền giày dép hoặc dùng làm dây, hoặc dùng để vá. Đức Phật dạy:
«Không được dùng để viền hay làm dây hoặc vá.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép màu xanh. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo dùng màu xanh viền giày dép, hoặc dùng làm dây hay vá. Đức Phật dạy:
«Không được dùng màu xanh viền giày dép, hoặc làm dây hay vá.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép màu vàng. Đức Phật dạy:
«Không được mang.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép viền màu vàng, hoặc làm dây cột hay vá. Đức Phật dạy:
«Không được dùng giày dép, hoặc dây cột vá có viền màu vàng.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép màu đỏ. Đức Phật dạy:
«Không được mang giày dép màu đỏ, dây cột và vá cũng như vậy.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép màu trắng. Đức Phật dạy:
«Không được mang giày dép màu trắng, dây cột viền, đường vá viền cũng như vậy.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép giống như lông công. Đức Phật dạy:
«Không được như vậy.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép màu gấm.[42] Đức Phật dạy:
«Không được dùng như vậy.»
Tỳ-kheo kia nhận được giày dép màu gấm đã làm thành. Đức Phật dạy:
«Không được chứa; nếu làm mất màu thì được phép chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép độn bằng loại lông mịn. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép độn bằng kiếp-bối.[43] Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Nhóm sáu tỳ-kheo dùng tơ lụa độn giày dép. Đức Phật dạy:
«Không được chứa dùng.»
Nhóm sáu tỳ-kheo dùng cỏ bẹ, cỏ bà-sa, cỏ xá-la, cỏ hán-đà-la[44] độn giày dép. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
«Này nhóm sáu tỳ-kheo, các ông là những người si. Điều nào Ta ngăn cấm, lại làm các điều khác. Từ nay về sau, tất cả loại giày dép có độn đều không được chứa để dùng.»
Bấy giờ, các tỳ-kheo gặp trời mưa bùn bẩn chân, bẩn tọa cụ, bẩn thân ngọa cụ. Đức Phật cho phép vì hộ thân, hộ tọa cụ, trong Tăng-già-lam được mang giày dép bằng cỏ bồ để rửa chân. Khi mang giày dép bằng cỏ bồ để rửa chân rồi, nước vào trong giày dép bẩn chân, bẩn tọa cụ, bẩn thân, bẩn ngọa cụ. Đức Phật cho phép dùng vỏ cây, hoặc da đóng dưới gót.
3. Bấy giờ, trong nước Xá-vệ, nhóm sáu tỳ-kheo mang guốc bằng khâm-bà-la.[45] Đức Phật dạy:
«Không được dùng guốc bằng bốn loại cỏ như vậy và không được mang.»
Khi đức Phật ở tại thành Vương-xá, thì bấy giờ nhóm sáu tỳ-kheo lột vỏ cây đa-la[46] để làm guốc, nên cây bị khô héo. Các cư sĩ thấy cùng nhau cơ hiềm: ‹Sa môn thích tử không biết hổ thẹn, đoạn mạng sống mà tự nói tôi biết chánh pháp. Lột vỏ cây đa-la để làm guốc khiến cho cây bị khô chết. Như vậy có gì là chánh pháp?› Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được như vậy.»
Khi đức Thế Tôn ở tại nước Câu-thiểm-di, thì bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo mang guốc bằng gỗ đi như ngựa, âm thanh rối loạn các vị tọa thiền. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được mang guốc gỗ.»
Các tỳ-kheo e ngại không dám mang guốc vào nhà đại tiểu tiện, không dám mang guốc để rửa chân. Đức Phật dạy:
«Trừ mang đi đường. Các trường hợp trên được mang.»
Thế Tôn ở tại nước Ta-kiệt-đề. Bấy giờ, tỳ-kheo Tỳ-xá-ly Bạt-xà Tử[47] mang guốc bằng vàng, guốc bằng bạc. Đức Phật dạy:
«Không được mang.»
Ông ta lại mang guốc bằng lưu ly. Đức Phật dạy:
«Không được dùng.»
Ông ta tự làm và mang guốc bằng vật báu. Đức Phật dạy:
«Không được mang.»
Sau đó ông lại mang guốc gỗ quí. Đức Phật dạy:
«Không được mang.»
Đức Phật dạy tiếp:
«Ông là người si. Ta cấm thứ này, ông lại vội sắm các thứ khác để mang. Từ nay về sau, không được mang tất cả loại guốc.»
4. Thế Tôn ở tại nước Tỳ-xá-ly. Bấy giờ nhóm sáu tỳ-kheo cùng đức Phật đi kinh hành mà mang giày dép. Phật bảo các tỳ-kheo:
«Đệ tử thọ học với các công xảo sư ở bên ngoài còn có sự cung kính đối với Thầy. Còn nhóm sáu tỳ-kheo này là những người ngu si, mới mang giày dép cùng Phật đi kinh hành.»
Đức Phật dạy tiếp:
«Từ nay về sau, không được mang tất cả mọi thứ giày dép như vậy.»
Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo đối với Hòa thượng, đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê, đồng hàng A-xà-lê, mà kinh hành nơi chỗ tốt, còn đồng hàng Hòa thượng kinh hành nơi chỗ xấu. Mình kinh hành nơi chỗ cao, còn đồng hàng Hòa thượng kinh hành nơi chỗ thấp. Mình đi trước, còn đồng hàng Hòa thượng đi sau. Cùng nói với đồng hàng Hòa thượng, cùng kinh hành, lật ngược y, y quấn cổ, y trùm đầu, trùm hai vai, mang giày dép. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được để Hòa thượng, đồng hàng Hòa thượng, hoặc A-xà-lê đồng hàng A-xà-lê kinh hành nơi chỗ xấu mà mình kinh hành nơi chỗ tốt, cho đến mang giày dép, tất cả đều không được.»
Nhóm sáu tỳ-kheo đối với Hòa thượng, đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê đồng hàng A-xà-lê phủ y lên hai vai, mang giày dép, hoặc có việc trao hay nhận, không trống vai bên hữu, không cởi bỏ giày dép. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được như vậy.»
Đức Phật dạy:
«Từ nay về sau, khi đối trước Hòa thượng đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê đồng hàng A-xà-lê phải trống vai bên hữu, cởi bỏ giày dép, khi có việc trao hay nhận.»
Các tỳ-kheo ở tại nhà bạch y đối với Hòa thượng đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê đồng hàng A-xà-lê, có việc trao hay nhận, trống vai bên hữu, cởi bỏ giày dép, nên bị lộ hình. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Tại nhà bạch y, đối trước Hòa thượng đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê đồng hàng A-xà-lê khỏi phải trống vai bên hữu, khỏi phải cởi bỏ giày dép, khi có việc trao hay nhận.»
Bấy giờ có tỳ-kheo cùng tỳ-kheo khác cùng đi trên đường. Một tỳ-kheo đến tỳ-kheo khác xin nước. Các tỳ-kheo nghĩ: ‹Đức Phật không cho phép mang giày dép khi có việc trao hay nhận.› Tỳ-kheo kia liền cởi bỏ giày dép để lấy nước, nên bị mất giày dép. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép trên đường đi, tùy ý mang giày dép khi có việc trao hay nhận.»
Có tỳ-kheo, lúc xẩm tối, đến tỳ-kheo khác xin nước. Vị kia nghĩ: ‹Đức Phật không cho phép mang giày dép khi có việc trao hay nhận.› Bấy giờ, trú xứ nọ lại cách xa chỗ lấy nước, tuy sợ độc trùng, nhưng tỳ-kheo kia vẫn cởi bỏ giày dép, đến đó để lấy nước, nên bị độc trùng cắn chân đau nhức, không vui. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Sau khi mặt trời lặn, phải đi xa lấy nước, vì sợ độc trùng nên được phép mang giày dép, khi có việc trao hay nhận.»
Nhóm sáu tỳ-kheo thấy Hòa thượng đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê đồng hàng A-xà-lê không đứng dậy đón rước. Các [848a1] tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên đứng dậy chào tiếp. Trừ khi ăn hoặc khi làm pháp dư thực, hay khi bệnh thì nói: ‹Đại đức biết cho, tôi vì nhân duyên như vậy nên không đứng dậy chào đón được.› »
Hòa thượng là người trao giới cho mình. Đồng hàng Hòa thượng là những vị đã đủ mười hạ.
A-xà-lê có năm hạng: xuất gia A-xà-lê, thọ giới A-xà-lê, giáo thọ A-xà-lê, dạy kinh A-xà-lê, y chỉ A-xà-lê.
Xuất gia A-xà-lê là người hướng dẫn mình xuất gia.
Thọ giới A-xà-lê là vị làm yết-ma khi mình thọ giới.
Giáo thọ A-xà-lê là vị dạy mình oai nghi.
Dạy kinh A-xà-lê là từ nơi vị đó mình được học kinh, đọc kinh, noi theo đường tu hành, hoặc thuyết nghĩa cho đến một câu trong bốn câu của bài kệ.
Y chỉ A-xà-lê là vị ấy mình nương vào để sống, dù chỉ trong một đêm.
Đồng hàng A-xà-lê là những vị đã đủ năm tuổi. Trừ y chỉ A-xà-lê.[48]
5. Phòng ở của tỳ-kheo này nên lau quét. Lau quét rồi mà còn bụi thì dùng nước bùn trét lên trên. Trét bùn rồi mà còn bẩn thì lấy đồ trải lên. Đồ trải đó hoặc là y-lê-diên-đà, mạo-la, mạo-mạo-la, cù-lâu, hoặc một trong mười loại y.
Các tỳ-kheo không rửa chân mà đi trên đồ trải. Đức Phật dạy:
«Bên cửa nên để đồ chùi chân. Nếu vẫn không sạch, thì ngoài cửa nên để nước rửa chân.»
Tỳ-kheo rửa chân rồi, khi chân chưa khô, bước lên trên đồ trải, nên đồ trải bị hư mục. Đức Phật dạy:
«Chân chưa khô, không được bước lên trên đồ trải. Nếu có việc gấp thì lấy chân chùi trên đầu gối, hoặc chùi nơi lòng bàn chân, hoặc lấy tay chùi, hoặc dùng vật xấu chùi.»
Các tỳ-kheo vì Hòa thượng, đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê, đồng hàng A-xà-lê trao hay nhận điều gì, phải rửa chân mãi cực nhọc, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Từ nay về sau, nếu vì Hòa thượng, đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê, đồng hàng A-xà-lê cần trao hay nhận điều gì cho phép dùng cái mâm đồng, cái khay, cái kỷ. Tất cả vật cần dùng hay thức ăn đều để hết lên trên đó, rồi trao một lần.»
Có tỳ-kheo dưới chân bị thủng, gặp lúc trời mưa. Các tỳ-kheo dìu đến nơi nhà vệ sinh bị ngã, nằm trên bùn rất khổ sở. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép vì hộ thân, hộ y, hộ ngọa cụ, trong Tăng-già-lam được mang giày dép một lớp.»
Các tỳ-kheo trên đường đi vì Hòa thượng, đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê, đồng hàng A-xà-lê có việc trao hay nhận, phải trống vai bên hữu, cởi bỏ giày dép mệt nhọc. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nếu trên đường đi vì Hòa thượng, đồng hàng Hòa thượng, A-xà-lê, đồng hàng A-xà-lê có việc trao hay nhận, nên đưa lên trên đầu hoặc trên vai để trao hay nhận.»
6. Phật ở nước Xá-vệ. Bấy giờ nhóm sáu tỳ-kheo mang giày dép vào tụ lạc. Các cư sĩ thấy đều cơ hiềm nói: ‹Sa-môn Thích tử tự nói mình biết chánh pháp. Nhưng vào tụ lạc mà mang giày dép, giống như Vua hay đại thần của Vua. Như vậy có gì là chánh pháp?› Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được mang giày dép vào tụ lạc.»
Các tỳ-kheo bệnh, với tâm e ngại không dám mang giày dép vào tụ lạc. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép các tỳ-kheo bệnh mang giày dép vào tụ lạc.»
Nhóm sáu tỳ-kheo mượn cớ bệnh mang giày dép vào tụ lạc. Các tỳ-kheo thấy nói: ‹Đức Phật đâu cho phép mang giày dép vào tụ lạc?›
Vị kia nói:
«Tôi bị bệnh.»
Các tỳ-kheo hỏi:
«Bệnh gì?»
Vị kia nói:
«Thưa trưởng lão, đức Phật há không nói, nếu có người nào đó chỉ trong chốt lát mà không vui, thì gọi là bệnh hay sao? Vì vậy cho nên chúng tôi mượn cớ bị bệnh.»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được mượn cớ bệnh để mang giày dép vào tụ lạc.»
Bấy giờ, trưởng lão Tất-lăng-già-bà-ta gót chân bị đau, cần mang giày dép trùm ngoài gót chân. Các tỳ-kheo bạch Phật, đức Phật cho phép mang giày dép trùm ngoài gót chân. Trưởng lão Tất-lăng-già-bà-ta trên đường đi, mắt bị mờ, ngón chân bị thương tích bởi đá sỏi. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép mang giày dép trùm ngoài ngón chân.»
Tất-lăng-già-bà-ta có nhiều thân hữu, trên đường cùng đi, nhận được nhiều đại mạch, tiểu mạch, đậu ban, gạo lúa tám. Các tỳ-kheo nghi không dám nhận, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép nhận.»
Các tỳ-kheo nhận rồi không biết để đâu, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép đựng trong cái đãy hay cái khăn.»
Trưởng lão Tất-lăng-già-bà-ta, trên đường đi, nhận được sữa, dầu, mật, đường cát. Các tỳ-kheo không dám lấy bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép nhận lấy.»
Nhận lấy rồi không biết để đâu bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Dùng cái bát cạn cho vào trong cái bát nhỏ hay cái bát vừa để nhận. Cái bát cạn để vào trong cái bát nhỏ, cái bát nhỏ để vào cái bát vừa, cái bát vừa để vào trong cái bát lớn.»
Các tỳ-kheo không biết cái bát cạn để trong cái bát nhỏ, cái bát nhỏ để vào trong cái bát vừa, thì cái bát vừa phải tịnh thí hay không,[49] bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Khỏi phải tịnh thí.»
7. Trưởng lão Tất-lăng-già-bà-ta già yếu không thể đi bộ được, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép dùng cái xe kéo bộ hay cái kiệu, hoặc xe ngựa. Nhưng không được kéo bởi người nữ, trâu bò cái, ngựa cái, không được xử dụng.»
Tất-lăng-già-bà-ta, trên đường đi có người cúng loại xe kéo,[50] không dám nhận, bạch Phật. Phật cho phép nhận.
Lại có người cúng loại xe kéo bằng da, không dám nhận, bạch Phật. Phật cho phép nhận, rồi dùng một trong mười loại y phủ lên trên chỗ da.
Lại có người cúng loại xe kéo được bện bằng da, không dám nhận, bạch Phật. Phật cho phép nhận, với điều là bỏ loại dây bằng da, bằng tóc, còn các loại dây khác thì không sao.
Các tỳ-kheo cần cái càng xe, bạch Phật, đức Phật cho phép làm.
Các tỳ-kheo cần dây cột xe, bạch Phật. Đức Phật cho phép làm. Nếu dây thừng bị đứt thì cho phép làm bằng da.
Nếu khiêng xe, vai bị đau; cho phép làm gối để lót. Nếu phía sau đau, cũng cho phép làm cái gối để lót. Bấy giờ không biết nên để ai khiêng, bạch Phật. Đức Phật dạy:
Cho phép tỳ-kheo, hoặc người giúp việc trong Tăng-già-lam, hoặc ưu-bà-tắc hay sa-di. Nếu nhận được xe thì cũng như vậy. Nếu xe bằng da thì nên dùng một trong mười loại y phủ chỗ da lại rồi dùng. Nếu được xe bện bằng da thì trừ loại dây bằng da, bằng tóc, ngoài ra được dùng. Các vị không biết nên để ai kéo, bạch Phật. Đức Phật dạy:
Cho phép tỳ-kheo, hoặc người giúp việc trong Tăng-già-lam, hoặc ưu-bà-tắc hay sa-di kéo.
Trưởng lão Tất-lăng-già-bà-ta nhận được người coi Tăng-già-lam. Đức Phật dạy:
«Được phép nuôi.»
8. Bấy giờ, nhóm sáu tỳ-kheo làm giường bằng da, giường đơn bằng da. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Họ lại làm nệm da, gối da, ngọa cụ da, đồ trải dưới đất bằng da. Khi trải dưới đất bị sanh trùng, đem vào phòng, hôi thối. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Bấy giờ, có bà-la-môn xuất gia làm đạo, đem da y-sư[51] làm vật chùi chân, để trong cửa. Đức Phật dạy:
«Cho phép chứa.»
Các tỳ-kheo xách nước, dây xách nước thường bị đứt. Đức Phật dạy:
Cho phép dùng da làm dây để xách. Nếu gàu bị hư, Phật cho phép dùng da để làm. Dây bị đứt, Phật cho phép làm bằng da.
Dây cửa ngõ thường bị đứt, Phật cho phép làm bằng da. Khi mở cửa, đóng cửa đau tay, Phật cho phép dùng miếng da lớn trùm lên.
Chốt cửa không xoay được, đức Phật cho phép để miếng da. Trên cái chốt bị hư Phật cho phép dùng da xâu lại. Nếu bị kêu cũng vậy.
Chân giường dây, giường cây bị hư, Phật cho phép dùng da xâu lại.
Có các tỳ-kheo bị đau chân, Phật cho phép dùng miếng da lớn phủ lên trên cho [849a1] chỗ đau lành. Sau đó, bỏ đi.
Tỳ-kheo dùng dây lợp lại nhà bị đứt, Phật cho phép dùng da làm.
Dây cửa sổ thường bị đứt, Phật cho phép dùng cước hay lông để làm.
9. Nhóm sáu tỳ-kheo chứa đãy đựng bình bát, đãy đựng giày dép, đãy đựng kim chỉ bằng da. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được chứa như vậy.»
Bấy giờ có người thợ mộc xuất gia làm Tỳ-kheo, chứa đãy da để đựng đồ nghề. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Thợ mộc xuất gia làm Tỳ-kheo, tất cả đồ nghề không được cất chứa. Chúng tăng được gỗ làm đồ dùng, bạch Phật. đức Phật cho phép chứa. Không biết dùng đựng vật gì. Đức Phật dạy:
«Mười loại y, tùy ý chứa đựng.»
Bình đựng dầu, sữa của tỳ-kheo để không kín đáo. Đức Phật dạy:
Cho phép dùng da ướt phủ lên. Nếu bị trùng cắn lủng thì dùng bùn trét lên.
Tỳ-kheo nhận được đồ đựng dầu bằng da có hình hoa, e ngại không dám chứa. Đức Phật cho phép chứa.
Tỳ-kheo nhận được đồ đựng dầu bằng sừng, e ngại không dám chứa. Đức Phật cho phép chứa. Nếu phía trên, phía dưới hay bên hông bị lủng thì dùng da ràng lại.
10. Khi đức Thế Tôn ở tại thành Vương-xá, bấy giờ có tỳ-kheo bị cây nhọn đâm vào chân bị thương, cần giày dép mềm. Đức Phật cho phép xử dụng.
Bấy giờ, đức Phật cùng Tôn giả A-nan đi đến rừng Thi-đà, cách chỗ gò mả không xa, thấy có đôi giày hai lớp quý giá. Đức Thế Tôn biết mà vẫn hỏi A-nan:
«Tại sao ông không lấy đôi giày ấy?»
Tôn giả A-nan thưa:
«Sợ phạm phải điều dùng giày hai lớp.»
Đức Phật dạy:
«Xem đó như vật phấn tảo thì được lấy.»
Có tỳ-kheo trên đường đi, cách chỗ gò mả không xa, thấy da người chết dày, được xâu nơi cây gỗ, bèn lột lấy đem về phòng cắt làm đôi giày một lớp. Trong phòng có mùi thối. Các tỳ-kheo khác hỏi:
«Tại sao trong phòng có mùi hôi thối?»
Tỳ-kheo kia trình bày sự việc với các tỳ-kheo. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được chứa da người. Nếu chứa, phạm thâu-lan-giá. Ngoài ra, các thứ da bất tịnh khả ố khác cũng không được chứa, nếu chứa phạm đột-kết-la.»
11. Bấy giờ, có tỳ-kheo từ nước giá lạnh[52] đến, chân bị nứt, đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân rồi đứng lui qua một bên. Đức Phật biết mà vẫn hỏi:
«Tại sao chân ông bị nứt?»
Vị ấy bạch Phật:
«Con từ xứ lạnh đến nên bị nứt.»
Đức Phật hỏi tỳ-kheo ấy:
Nước đó họ mang bằng thứ gì?
Vị tỳ-kheo ấy thưa:
«Mang dép da phú-la-am.»[53]
Đức Phật dạy:
«Cho phép mang như vậy. Nếu cần dùng tất thì cho phép dùng tất. Cho phép đến nơi cư sĩ, vợ cư sĩ chẳng phải bà con để xin. Không được chứa dư. Nếu chứa dư, sẽ như pháp trị.»
Nhóm sáu tỳ-kheo dùng da làm dây lưng. Đức Phật dạy:
«Không được dùng da làm dây lưng, dây ngồi thiền.»
Tỳ-kheo chứa đồ bằng da. Đức Phật dạy:
«Không được chứa.»
Tỳ-kheo dùng da làm mão. Đức Phật dạy:
«Không được dùng như vậy.»
Tỳ-kheo làm khẩn-thù-thán[54] bằng da. Phật dạy:
«Không được.»
Tỳ-kheo không lau chùi giày dép nên bẩn chân, bẩn ngọa cụ. Đức Phật dạy:
«Phải lau chùi giày dép.»
Tỳ-kheo rửa chân chưa khô mang giày dép nên giày dép bị hư mục. Phật dạy:
«Không được như vậy.»
Tỳ-kheo không thường giặt vật lau chân. Các tỳ-kheo thấy bẩn gớm. Đức Phật dạy:
«Nên giặt.»
Vị ấy giặt rồi không vắt không phơi, bị sanh trùng. Phật dạy:
«Nên giặt rồi vắt, hong cho khô.»
CHƯƠNG VI. Y
I. Y PHẤN TẢO

Một thời Thế Tôn ở trong vườn Lộc dã, nước Ba-la-nại. Bấy giờ có năm tỳ-kheo đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ sát chân rồi đứng lui qua một bên, bạch Phật:
«Chúng con nên thọ trì loại y nào?»
Đức Phật dạy:
«Nên thọ trì y phấn tảo[1] và mười loại y[2] như: câu-xá, kiếp-bối, khâm-bạt-la, sô-ma, xoa-ma, xá-nâu, ma, sí-di-la, câu-nhiếp-la, thẩn-la-bát. Mười loại y như trên nhuộm thành màu sắc ca-sa[3] để thọ trì.
Tỳ-kheo được y nơi gò mả, đức Phật cho phép dùng. Tỳ-kheo nhận được y nguyện,[4] đức Phật cho phép dùng.
Tỳ-kheo trên đường đi cách gò mả không xa, thấy y phấn tảo quý giá,[5] e ngại không dám lấy, đức Phật cho phép lấy.
Thế Tôn ở nước Xá-vệ. Có một người con của một giòng họ lớn xuất gia. Từ những nơi chợ búa, nơi đường hẻm đi đến nghĩa địa, chỗ bỏ đồ rác rưới, ông lượm được y xấu cũ đem về làm y tăng-già-lê để thọ trì. Phu nhơn Vua Ba-Tư-Nặc trông thấy, tâm từ niệm phát sanh, liền lấy y rất quý giá xé ra, dùng đồ bất tịnh bôi rồi đem bỏ nơi đó để tỳ-kheo lượm. Tỳ-kheo e ngại không dám lấy, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nếu họ vì tỳ-kheo thì nên lấy.»
Có tỳ-kheo thuộc giòng họ lớn xuất gia. Ông lượm những y cũ xấu nơi đống rác, nơi cầu tiêu, nơi đường hẻm, nơi chợ búa đem về làm tăng-già-lê. Vị trưởng giả thành Xá-vệ thấy, sanh tâm từ mẫn, đem nhiều y tốt bỏ nơi đường hẻm, nơi cầu tiêu, và sai người coi chừng đừng cho ai lấy, để cho tỳ-kheo lấy. Bấy giờ có các tỳ-kheo đi vào thôn xóm, nhìn thẳng xuống trước bước chân mà đi nên không thấy. Người được sai coi chừng kia, thưa:
«Sao đại đức không nhìn qua nhìn lại?»
Khi ấy tỳ-kheo thấy, nhưng e ngại không dám lấy. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nếu họ vì tỳ-kheo thì cho phép nhận.»
Có tỳ-kheo lấy áo của người chết ở nơi hố chôn, e ngại, bạch Phật, đức Phật hỏi:
«Với tâm niệm nào khi ông lấy chiếc áo ấy?»
Vị ấy thưa:
«Với tâm niệm là đồ phấn tảo, chứ không với tâm trộm.»
Đức Phật dạy:
«Như vậy thì không phạm. Tuy nhiên, từ nay về sau không được lấy áo người chết nơi hố chôn người.»
Có cư sĩ giặt y rồi phơi nơi tường rào. Các tỳ-kheo mặc nạp y, thấy tưởng là y phấn tảo nên lấy. Cư sĩ thấy, kêu nói:
«Y của tôi đó, đừng lấy!»
Tỳ-kheo nói.
«Tôi tưởng là y phấn tảo nên lấy.»
Nói xong, bỏ y lại đi. Tỳ-kheo kia e ngại, bạch Phật. Đức Phật hỏi:
«Với tâm niệm gì khi ông lấy y đó?»
Tỳ-kheo kia thưa:
«Với ý nghĩ là y phấn tảo cho nên lấy, chứ không lấy có tâm của kẻ trộm.»
Đức Phật dạy:
«Không phạm. Từ nay về sau không được lấy y phấn tảo nơi tường, nơi rào.»
Bấy giơ, có y một người chết ở trước đại quan đoán sự. Tỳ-kheo lấy y của người ấy. Sau đó quan đoán sự sai Chiên-đà-la đem xác chết bỏ. Chiên-đà-la nói:
«Tại sao không bảo người lấy y đem xác chết bỏ?»
Quan đoán sự hỏi:
«Người nào lấy y?»
Chiên-đà nói:
«Sa-môn Thích tử lấy.»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không nên lấy y người chết, chỗ quan đoán sự.»
Bấy giờ tỳ-kheo trên đường đi, cách gò mả không xa, thấy y của người chết chưa rã, liền lấy đi. Người chết liền đứng dậy nói:
«Đại đức chớ lấy y của tôi đi!»
Tỳ-kheo nói:
«Ngươi là người chết, làm gì có y!»
Nói rồi vẫn lấy y đi, không bỏ lại. Người chết theo tỳ-kheo đến ngoài cửa ngõ Kỳ-hoàn, ngã xuống đất. Các tỳ-kheo khác thấy hỏi tỳ-kheo này:
«Người ấy nói gì vậy?»
Tỳ-kheo này trả lời:
«Tôi tưởng người ấy đã chết nên lấy y đem về đây.» Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không nên lấy y của người chết chưa rã.»
Có người chăn bò để áo trên đầu ngủ. Tỳ-kheo thọ trì y phấn tảo thấy tưởng là ngưới chết, nhưng nghĩ: «Đức Thế Tôn không cho phép tỳ-kheo lấy áo của người chết chưa rã.» Nghĩ như vậy xong, liền lấy xương tay của người chết đánh trên đầu của người chăn bò; khiến cho vỡ đầu. Người chăn bò liền đứng dậy hỏi:
«Tại sao Đại đức đánh tôi?»
Tỳ-kheo nói:
«Tôi tưởng ông chết.»
Người chăn bò nói:
«Thầy không phân biệt được tôi sống hay chết sao?»
Nói xong liền đánh tỳ-kheo gần chết. Các tỳ-kheo [850a1] bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Người chết chưa rã, không được đánh.»
Nhóm sáu tỳ-kheo sử dụng phi y làm đãy đựng bát, đãy đựng giày dép, ống đựng kim, và chứa ngọa cụ bằng gấm bông, đệm bằng dạ, nệm gối, da rái cá. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được dùng phi y làm đãy đựng bát, cho đến đựng kim, không được chứa ngọa cụ bằng gấm bông, đệm bằng dạ, nệm gối, da rái cá.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo bắt gặp ngọa cụ bằng gấm bông, đệm bằng dạ, gối, nơi gò mả, e ngại không dám lấy, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy dùng.»
Có tỳ-kheo bắt gặp y-lê-diên-đà, mạo-la, mạo-mạo-la, cù-lâu,[6] nơi gò mả, e ngại không dám lấy, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy, nhưng lột bỏ da và cỏ; ngoài ra, được phép chứa làm đồ trải đất.»
Có tỳ-kheo bắt gặp giường dây bằng da, giường cây, giường đơn nơi gò mả, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy, nhưng lột bỏ da, rồi chọn một trong mười loại y bao lại.»
Có tỳ-kheo bắt gặp giường dây, giường cây, giường đơn nơi gò mả, e ngại không dám lấy, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy, trừ hai loại giường làm bằng dây da và tóc.»
Có tỳ-kheo thấy được xe kéo, dù, xe kéo bộ tại gò mả, e ngại không dám lấy, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy.»
Có tỳ-kheo thấy được bình đựng nước rửa, gậy, quạt tại gò mả, e ngại không dám lấy, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy.»
Có tỳ-kheo thấy được liềm, lưỡi dao, móc tại gò mả, e ngại không dám lấy; bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy.»
Có tỳ-kheo thấy được tiền nơi gò mả, tự mình mang đi. Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được lấy.»
Có tỳ-kheo cầm lấy đồng, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Phải đập cho mất hình tướng rồi mới được mang đi.»
Có tỳ-kheo thấy được y bị trâu nhơi, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy dùng.»
Có tỳ-kheo thấy được y chuột gặm, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy dùng.»
Có tỳ-kheo thấy được y bị cháy, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép lấy dùng.»
Y phấn tảo có mười loại:[7] y bị trâu bò nhơi, y bị chuột gặm, y bị lửa cháy, y kinh nguyệt, y sản phụ, y trong miếu thần hoặc y bị chim tha đi hay gió bay rơi các nơi thì được lấy, y gò mả, y nguyện,[8] y thọ vương chức, y vãng hoàn. Mười loại y trên gọi là y phấn tảo.
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc nước Câu-tát-la cùng với Vua A-xà-thế nước Ma-kiệt-đà đánh nhau, nên có nhiều người chết. Các tỳ-kheo muốn đến đó để lấy y người chết, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Cho phép đến đó. Nếu có người thì nên nói rồi mới lấy. Không có người thì mới tự ý lấy.»
Bấy giờ Vua A-xà-thế cùng Tỳ-lê-xa đánh nhau, có nhiều người chết. Tỳ-kheo muốn đến lấy y của người chết, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên đến nói rồi mới lấy. Nếu không có người thì tùy ý lấy.»
Trường hợp có số đông cư sĩ tụ họp nơi gò mả, cởi y bỏ một đống, để chôn người chết. Tỳ-kheo trì phấn tảo thấy, tưởng là y phấn tảo, nên lấy đi. Các cư sĩ thấy nói:
«Y của chúng tôi. Chớ lấy!»
Các tỳ-kheo nói:
«Chúng tôi tưởng là y phấn tảo.»
Nói xong liền bỏ xuống đất rồi đi. Tỳ-kheo e ngại, bạch Phật. Đức Phật hỏi:
«Các ông lấy với tâm niệm thế nào?»
Các tỳ-kheo thưa:
«Chúng con nghĩ là y phấn tảo chứ không lấy với tâm trộm cắp.»
Đức Phật dạy:
«Như vậy thì không phạm. Nhưng không được lấy y đang để thành đống.»
Có các cư sĩ, đốt người chết nơi gò mả. Các tỳ-kheo trì phấn tảo thấy khói, kêu các tỳ-kheo khác đến để lấy y phấn tảo. Các vị ấy nói:
«Vâng.»
Các tỳ-kheo liền đến, im lặng đứng một chỗ. Bấy giờ có cư sĩ trao cho tỳ-kheo một chiếc y quý giá. Vị tỳ-kheo thứ hai nói:
«Hãy mang lại đây. Tôi chia với thầy.»
Vị tỳ-kheo kia nói:
«Chia cho ai? Người cư sĩ nói cho tôi kia mà!»
Hai tỳ-kheo tranh nhau. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Nên đến hỏi người cư sĩ y này cho ai, tùy theo người cư sĩ trả lời mà quyết định. Nếu người cư sĩ nói, ‹Không biết›, hoặc nói, ‹Cho cả hai› thì mới phân làm hai phần.»
Bấy giờ, có tỳ-kheo đến nơi gò mả lấy y phấn tảo. Từ xa trông thấy y phấn tảo, một tỳ-kheo liền chỉ và nói:
«Y đó của tôi.»
Tỳ-kheo thứ hai liền chạy đến lấy. Hai vị tranh nhau, đều nói là của mình. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Y phấn tảo không có chủ, ai lấy trước thì được.»
Có hai tỳ-kheo cùng đến nơi gò mả để lấy y phấn tảo. Hai vị từ xa thấy y, đều chỉ tay, và nói y ấy của tôi. Vừa nói hai người đều chạy đến để lấy. Hai người cùng tranh nhau, đều nói của mình. Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Y phấn tảo không có chủ. Hai người đồng thời lấy thì chia làm hai phần.»
Bấy giờ có số đông cư sĩ chở người chết đến gò mả. Tỳ-kheo trì y phấn tảo thấy, liền nói với các tỳ-kheo khác:
«Chúng ta nên đến để lấy y phấn tảo. Hôm nay chắc lấy được nhiều.»
Tỳ-kheo kia nói:
«Các thầy đi đi. Tôi không đi được.»
Các tỳ-kheo liền đi, lấy được nhiều y phấn tảo, đem về trong Tăng-già-lam, giặt sạch, sửa sang lại. Tỳ-kheo kia thấy, nói tỳ-kheo này rằng:
«Thầy làm gì mà không cùng tôi đi lấy y? Tôi đi lấy được khá nhiều đem về đây.»
Tỳ-kheo này nói:
«Đem đến đây chia cho tôi với.»
Tỳ-kheo kia nói:
«Thầy không cùng tôi đi lấy, sao đòi chia?»
Hai vị tranh cãi nhau. Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Thuộc về vị đi lấy kia.»
Có số đông tỳ-kheo trì y phấn tảo, hẹn nhau đến gò mả lấy y phấn tảo. Có hai tỳ-kheo được y quý giá. Các tỳ-kheo kia nói:
«Chia cho chúng tôi với.»
Tỳ-kheo kia trả lời:
«Tôi được y này, tại sao bảo chia cho thầy?»
Nhiều vị cùng tranh, tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Tùy theo sự cam kết trước. Được nhiều ít nên cùng chia cho nhau.»
Phật ở tại nước Xá-vệ. Có các cư sĩ, khi ông bà hay cha mẹ chết, dùng tràng phan bảo cái, y vật trang trí nơi mộ của ông bà hay cha mẹ. Tỳ-kheo trì y phấn tảo thấy, bèn lột lấy đi. Các cư sĩ thấy đều cơ hiềm: «Sa-môn thích tử không biết hổ thẹn, trộm lấy vật của người mà tự nói tôi biết chánh pháp. Xem thế thì có gì là chánh pháp? Chúng ta vì tổ phụ mẫu hay phụ mẫu xây mộ phần, dùng tràng phan bảo cái để cúng dường, sao họ tự tiện lột lấy đi. Làm như chúng ta vì sa-môn Thích tử xây mộ phần cúng dường. Sự thật chúng ta vì ông bà, cha mẹ của chúng ta mà dùng tràng phan bảo cái trang trí nơi mộ phần để cúng dường kia mà!»
Các tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Không được lấy vật như vậy.»
Trường hợp các vật ấy gió thổi bay đến chỗ khác, hoặc chim ngậm bay đi rớt chỗ khác. Tỳ-kheo thấy, e ngại không dám lấy, bạch Phật. Đức Phật dạy:
«Trường hợp như vậy thì cho phép lấy.»
Các tỳ-kheo thấy y vật trang nghiêm cúng dường nơi tháp, liền lấy. Lấy rồi e ngại, bạch Phật. Phật hỏi:
«Với tâm niệm nào khi ông lấy?»
Tỳ-kheo thưa:
«Với ý nghĩ là y phấn tảo nên lấy, chứ không với tâm niệm trộm cắp.»
Đức Phật dạy:
«Như vậy thì không phạm. Nhưng không được lấy y vật trang nghiêm cúng dường nơi tháp.»
II. KỲ-BÀ ĐỒNG TỬ
1. Kỹ nữ thành Vương-xá

Thế Tôn ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ ở Tỳ-xá-ly có một dâm nữ tên là Am-bà-la-bà-lợi,[9] nhan sắc vô cùng xinh đẹp. Ai muốn cùng ngủ một đêm thì phải trả năm mươi lượng vàng. Ban ngày cũng phải trả năm mươi lạng vàng như vậy. Bấy giờ, Tỳ-xá-ly do có dâm nữ này nên người trong bốn phương tụ tập về đó. Quốc pháp nhờ vậy mà cực kỳ sáng chói.
Các đại thần thành Vương-xá nghe đồn: «Tỳ-xá-ly có một dâm nữ [851a1] tên là Am-bà-la-bà-lợi, nhan sắc vô cùng xinh đẹp. Ai muốn cùng ngủ một đêm thì phải trả năm mươi lượng vàng. Ban ngày cũng phải trả năm mươi lạng vàng như vậy. Bấy giờ, Tỳ-xá-ly do có dâm nữ này nên người trong bốn phương tụ tập về đó. Tỳ-da-ly nhờ vậy mà cực kỳ sáng chói.»
Các đại thần đến chỗ Vua Bình-sa tâu:
«Đại vương biết chăng, tại nước Tỳ-xá-ly có một dâm nữ tên là Am-bà-la-bà-lợi, nhan sắc vô cùng xinh đẹp. Ai muốn cùng ngủ một đêm thì phải trả năm mươi lượng vàng. Ban ngày cũng phải trả năm mươi lạng vàng như vậy. Bấy giờ, Tỳ-xá-ly do có dâm nữ này nên người trong bốn phương tụ tập về đó. Tỳ-xá-ly nhờ vậy mà cực kỳ sáng chói.»
Nhà Vua nghe xong liền ra lệnh cho các đại thần:
«Các khanh sao không đưa dâm nữ ấy về đây?»
Bấy giờ trong thành Vương-xá, có một đồng nữ tên là Sa-la-bạt-đề,[10] xinh đẹp không ai sánh kịp, hơn cả Am-bà-la-bà-lợi. Các đại thần liền an trí dâm nữ này. Ai muốn ngủ với dâm nữ này một đêm phải trả với giá một trăm lượng vàng, và một ngày cũng như vậy. Bấy giờ thành Vương-xá nhờ có dâm nữ này nên người bốn phương tụ tập về, nhờ vậy mà cực kỳ sáng chói. Bấy giờ con Vua Bình-sa tên là Vô Úy[11] cùng dâm nữ này chung ngủ trong đêm. Dâm nữ có thai. Từ đó dâm nữ ra lệnh cho người giữ cửa rằng: «Nếu có khách cần gặp thì nói tôi bị bệnh.» Sau đó, đủ ngày tháng, dâm nữ hạ sanh một bé trai, tướng mạo xinh đẹp. Dâm nữ liền dùng vải trắng bọc hài nhi này, bảo tớ gái đem bỏ ra ngoài đường. Người tớ gái làm theo lời sai bảo, bồng hài nhi đem bỏ.
Cũng vào buổi sáng tinh sương lúc ấy, Vương tử Vô Úy muốn đi xe đến yết kiến Phụ vương nên sai người dọn dẹp dọc đường. Bất ngờ, từ xa Vương tử trông thấy một vật trắng dọc đường, liền dừng xe, hỏi người bên đường rằng:
«Cái gói trắng đó là gì?»
Người bên đường trả lời:
«Một đứa bé.»
Vương tử hỏi:
«Còn sống hay chết?
Người bên đường nói:
«Nó sống.»
Vương tử liền ra lệnh bồng về. Vương tử Vô Úy không có con nên đem về nhà giao cho nhũ mẫu nuôi dưỡng. Vì «Nó sống» cho đặt tên là Kỳ-bà.[12] Đồng tử được Vương tử lượm nên gọi là Đồng tử.[13] Theo thời gian lớn khôn, Vương tử rất yêu mến.
Một hôm Vương tử kêu Kỳ-bà Đồng tử đến và nói:
«Con muốn ở lâu nơi Vương gia mà không có tài nghề gì thì không được thọ hưởng bổng lộc của Vua. Con cần học kỹ thuật.»
Kỳ-bà Đồng tử trả lời:
«Con sẽ học.»
2. Học thuốc
Kỳ-bà Đồng tử tự nghĩ: «Tay ta nên học nghề gì để có được nhiều của cải mà ít bận rộn?» Nghĩ xong, Kỳ-bà Đồng tử quyết định học nghề thầy thuốc. Nghề này đại tài phú mà ít bận rộn. Kỳ-bà Đồng tử nghĩ tiếp: «Ai dạy nghề thầy thuốc cho ta đây.» Thời gian ấy, Kỳ-bà Đồng tử nghe tại nước Đắc-xoa-thi-la[14] có vị thầy thuốc họ A-đề-lê, tên là Tân-ca-la, tay nghề rất cao. Vị này có thể dạy ta được.» Kỳ-bà Đồng tử liền đến nước kia, chỗ Tân-ca-la ở, thưa:
«Con muốn theo thầy học nghề làm thuốc, xin thầy dạy cho con.»
Tân-ca-la trả Lời: «Được!»
Thời gian bảy năm, Kỳ-bà Đồng tử theo học nghề thầy thuốc. Một hôm tự nghĩ: «Nghề thầy thuốc này ta phải học tập bao lâu mới xong?» Nghĩ rồi, Kỳ-bà Đồng tử liền đến chỗ vị thầy thưa:
«Con học nghề làm thuốc này bao lâu mới xong?»
Vị thầy liền trao cho một cái giỏ và dụng cụ đào rễ cây, nói với Kỳ-bà Đồng tử:
«Con đến nơi nước Đắc-xoa-thi-la, trong phạm vi một do tuần, tìm xem các loại cây, có loại cây nào không phải là thuốc đem về đây.»
Kỳ-bà Đồng tử liền vâng lời thầy dạy, đến nước Đắc-xoa-thi-la, trong phạm vi một do tuần tìm kiếm mà không thấy loại cây nào không phải là thuốc. Những loại cây mà Kỳ-bà Đồng tử thấy đều là vật có thể phân tích để dùng vào thuốc được cả. Kỳ-bà Đồng tử mang giỏ không trở về, đến chỗ vị thầy thưa:
«Thưa thầy con đã đến nước Đắc-xoa-thi-la tìm loại cây nào không phải là thuốc, trong phạm vi một do tuần. Con tìm khắp nơi, không thấy có loại cây nào là chẳng phải thuốc. Tất cả đều có thể phân chất dùng vào thuốc được hết.»
Ông thầy dạy thuốc trả lời Kỳ-bà Đồng tử rằng:
«Nay con có thể về. Y đạo như vậy đã thành. Trong cõi Diêm-phù-đề này, ta là hạng nhất. Sau khi thầy qua đời, con là người kế thế.»
3. Chữa bịnh
1. Bấy giờ Kỳ-bà Đồng tử tự nghĩ: «Nay ta, trước hết nên trị bệnh cho ai? Nước này vừa nhỏ, lại ở vùng biên phương. Ta nên về lại bổn quốc để bắt đầu mở y đạo tại đó.» Nghĩ xong, Kỳ-bà Đồng tử liền trở về lại thành Bà-già-đà.
Trong thành Bà-già-đà, bấy giờ có người vợ của đại trưởng giả mang phải trọng bệnh đau đầu mười hai năm, các thầy thuốc đều không thể chữa trị được. Kỳ-bà Đồng tử nghe liền đến nơi nhà đó nói với người giữ cửa rằng:
«Nhà ngươi vào thưa với trưởng giả là có người thầy thuốc ở ngoài cửa.»
Người giữ cửa liền vào thưa. Vợ ông trưởng giả hỏi:
«Tướng mạo của ông thầy thuốc thế nào?»
Người giữ cửa thưa:
«Ông thầy thuốc tuổi còn nhỏ.»
Bệnh nhân liền nghĩ: «Các vị thầy thuốc lớn tuổi có kinh nghiệm kia còn chưa chữa trị được, huống là tuổi nhỏ.» Bà ta liền bảo người giữ cửa ra nói với ông thầy thuốc là nay ta không cần thầy thuốc nữa. Người giữ cửa liền ra nói:
«Tôi đã vì ông vào thưa với vợ ông trưởng giả. Mà vợ ông trưởng giả nói nay không cần thầy thuốc nữa.»
Kỳ-bà Đồng tử lại nói:
«Người có thể vì tôi vào thưa với vợ ông trưởng giả cho phép tôi chữa trị. Nếu lành thì tùy ý cho tôi thứ gì cũng được.»
Bấy giờ người giữ cửa lại vào thưa với bà chủ:
«Ông thầy thuốc nói cho phép ông ấy được chữa. Nếu lành thì tùy ý cho ông ấy thứ chi cũng được.»
Vợ ông trưởng giả nghe xong liền nghĩ: «Nếu như vậy thì không tốn gì.» Bà ra lệnh cho người giữ cửa gọi vào. Được gọi, Kỳ-bà Đồng tử vào, đến chỗ vợ ông trưởng giả hỏi:
«Bệnh khổ của bà thế nào?»
Vợ ông trưởng giả trả lời:
«Bệnh như vậy, như vậy.»
Kỳ-bà Đồng tử lại hỏi:
«Bắt đầu từ chỗ nào?»
Bà ta nói:
«Bệnh bắt đầu như vậy, như vậy.»
Kỳ-bà Đồng tử hỏi tiếp:
«Bệnh bao lâu rồi?»
Bà trả lời:
«Bệnh chừng ấy thời gian.»
Kỳ-bà Đồng tử hỏi xong nói:
«Bệnh này tôi có thể chữa trị được.»
Kỳ-bà Đồng tử liền dùng thuốc tốt như váng sữa đem chưng rồi nhểu vào lỗ mũi bệnh nhân. Váng sữa được nhểu vào đó đều chảy ra nơi miệng của bệnh nhân. Bà vợ ông trưởng giả liền lấy đồ hứng lấy tinh sữa ấy để riêng một chỗ. Kỳ-bà Đồng tử thấy vậy, lòng ôm sầu não, vì nghĩ: «Với một ít váng sữa bất tịnh như vậy mà bà ta còn tiếc như thế, huống chi khi lành bệnh bà này trả ơn ta được là bao!» Bà vợ ông trưởng giả thấy Kỳ-bà Đồng tử có vẻ buồn hỏi:
«Tại sao thầy có vẻ sầu não?»
Kỳ-bà Đồng tử nói:
«Thật vậy, tôi có áo não.»
Bà ta hỏi:
«Tại sao thầy sầu não?»
Kỳ-bà Đồng tử đáp:
«Vì tôi tự nghĩ với một ít váng sữa bất tịnh như thế mà bà còn tiếc, thì khi bà lành bệnh trả ơn cho tôi thế nào? Nên áo não.»
Bà vợ trưởng giả nói:
«Vì việc nhà nên không dễ vất bỏ. Nó có thể dùng thắp đèn được nên tôi hứng lấy. Thầy cứ chữa bệnh chuyện gì phải sầu ưu.»
Kỳ-bà Đồng tử nghe nói như vậy liền tiếp tục chữa trị. Sau khi bệnh lành, vợ ông trưởng giả tạ ơn Kỳ-bà Đồng tử bốn trăm ngàn lượng vàng và tôi tớ, xe cộ. Kỳ-bà Đồng tử nhận được những phẩm vật này rồi, về lại thành Vương-xá. Đến cửa nhà của Vô Úy Vương tử, nói với người giữ cửa:
«Người vào tâu với Vương tử rằng Kỳ-bà Đồng tử ở ngoài cửa.»
Người giữ cửa liền vào tâu. Vương tử ra lệnh người giữ cửa gọi vào. Kỳ-bà Đồng tử vào rồi, đầu mặt kính lễ xong, đứng qua một bên, tường trình đầy đủ tất cả sự việc đã qua với Vô Úy Vương tử và nói:
«Tất cả tặng vật nhận được xin dâng lên Vương tử.»
Vương tử nói:
«Thôi đi! Khỏi phải làm điều đó. Con cứ tự tiện xử dụng.»
Đây là con bệnh đầu tiên mà Kỳ-bà Đồng tử cậu chữa trị.[15]


Chú thích:
[17] Câu-lưu Hoan hỷ sơn khúc 拘留歡喜山曲. Pali, Vin.i. 194: Kuraraghare papāte pabbate, trên sườn núi Papāta, thị trấn Kuraraghara. Ngũ phần 21 (T22n1421, tr.144a13): A-thấp-ba A-vân-đầu quốc Ba-lâu-đa sơn 阿濕波阿雲頭國波樓多山.
[18] A-bàn-đề quốc, 阿槃提國. Pali, Vin.i. 194, Avantī.
[19] Ức Nhĩ ưu-bà-tắc億耳優婆塞. Ngũ phần 21, ibid., cư sĩ tên là Sa-môn Ức Nhĩ 沙門 億耳. Pali, Vin.i. 194, Soṇa Kuṭikaṇṇa.
[20] Hán: sử nhân câu 使人俱. Cf. Pali, ibid., Soṇo upasako Kuṭikaṇṇo āyasmato Mahā-Kaccānassa upaṭṭhako hoti, ưu-bà-tắc Soṇa Kuṭikaṇṇa là người phục vụ cho Trưởng lão Đại Ca-chiên-diên. Bản Hán hiểu upaṭṭhako, người phục vụ, là nhân vật thứ ba; không phải là từ đồng cách.
[21] Ngũ phần 21, ibid., Ức Nhĩ thọ sa-di 6 năm mới thọ cụ túc.
[22] Y-lê-diên-đà, mạo-la, mạo-mạo-la, cù lâu 伊梨延陀耄羅耄耄羅氍氀. Pali (Vin.i. 195): eragu, moragu, majjhāru, jantu. Thập tụng: ma nhục phú (phủ đệm gai), mao nhục phú (phủ đệm lông), hoa y nhục phú (phủ đệm áo bông) 麻褥覆毛褥覆花衣褥覆.
[23] Cổ dương, bạch dương, lộc 羖羊白羊鹿. Pali: eḷakacamma, ajacamma, migacamma.
[24] Y được dành cho tỳ-kheo vắng mặt tại trú xứ cũ.
[25] Thập lục cú nghĩa 十六句義. Ngũ phần, ibid., Thập lục nghĩa phẩm kinh 十六義品 經. Thập tụng 25 (T23n1435, p181b25): Ba-la-diên-tát-giá-đà-xá-tu-đố-lộ 波羅延薩遮 陀舍修妒路. Pali, Vin.i. 196, Aṭṭhakavaggikāni, được hiểu là Nghĩa phẩm, hay Bát kệ phẩm, gồm 16 kinh, 210 kệ, Phẩm thứ tư thuộc bộ Suttanipāta.
[26] Trì luật ngũ nhân 持律五人. Nên hiểu là thứ năm là người trì luật. Tăng năm người, có một người trì luật. Không đòi hỏi tất cả năm vị đều là trì luật. Do đó không nên hiểu nhóm từ Hán này là «Năm người trì luật.» Thập tụng 25 (T23n1435 tr.181c29): trì luật đệ ngũ 持律第五. Cf. Vin.i. 197: vinayadharapañcamena.
[27] Bạch mộc điều 白木調. Hán dịch này phù hợp Pali: Setakaṇṇika; nhưng Vin.i.197 nói thị trấn này ở về phía nam, gần với Thập tụng, ibid., trung nam phương, Bạch mộc tụ lạc 白木聚落. Lấy đây làm mốc. Qua khỏi đây, được xem là biên địa.
[28] Tĩnh thiện 靜善. Không tìm thấy tương đương trong Thập tụng và Pali. Tham chiếu, Thập tụng: phương đông có tụ lạc bà-la-môn tên là Già-lang 伽郎. Tương đương Pali: Kajaṅgala, thị trấn nhỏ ở về phía đông.
[29] Nhất-sư-lê Tiên nhơn chủng 一師梨仙人種. Có lẽ Thập tụng nói là Ưu-thi-la sơn 優尸羅山, ở phương bắc; Tương đương Pali: Usīraddhaja, về phía bắc.
[30] Trụ 柱. tên nước. Thập tụng: phương tây có tụ lạc bà-la-môn tên là Trụ 住婆羅門 聚落. Pali: về phía tây có ngôi làng bà-la-môn tên là Thūna, mà hai bản Hán đều đọc là Thāna.
[31] Đại bì 大皮; Cf. Thập tụng 25 (tr.182a 23), da của năm loại thú gọi là da lớn (kích cỡ): sư tử, cọp, beo, rái cá và chồn.
[32] Ca-la 迦羅. không biết con gì. Có lẽ Pali (Vin.i.186): kāḷaka, con sóc (?). Hoặc Skt. kālaka, một loại rắn nước (Wogihara: hắc long)
[33] Cù-lâu 氍氀; chưa rõ. Xem cht. 31 Ch. vi: Y ở sau. Tham chiếu Trương A-hàm 3, kinh số 2. Du hành, T01, tr. 23b.
[34] Độc tọa sàng 獨坐床. Xem Phần II, tỳ-kheo-ni, ba-dật-đề 83 & cht. 142.
[35] Ca-na-phú-la 迦那富羅. Xem dưới.
[36] Triền giác cách tỷ 旋角革屣. Không hiểu «sừng xoay» là cái gì. Đoạn tương đương trong Mahāvagga v (Vin.i.186): meṇḍavisāṇavaddhika (có mõm giày làm bằng sừng con cừu), ajavisāṇavaddhika (có mõm giày làm bằng sừng hươu).
[37] A-la-lê cách tỷ 阿羅梨革屣. (?)
[38] Phú-la-bạt-đà-la 富羅跋陀羅. Pali, ibid., puṭabaddha, một loại giày ống, cao đến đầu gối.
[39] Chơn-thệ-lê 真誓梨. Pali: tittirapattika (?), loại dép có hình cánh chim chá-cô.
[40] Biên biên cách tỷ 編邊革屣.
[41] Quyển hình cách tỷ 捲形.
[42] Cẩm sắc 錦色; nên hiểu là «được thêu màu.»
[43] Tức bông gòn.
[44] Bà-sa 婆娑, Pali (Vin.i. 189): pabbaja, một loại cỏ lau (cỏ tim đèn). Hán-đà-la 漢陀羅; Pali: hintāla, giống cây chà-là; một loại cây cọ. Xá-la, 舍羅. Chưa rõ loại cỏ này; hoăc Pali: sara, cỏ lau.
[45] Khâm-bà-la 欽婆羅, vải dệt bằng lông thú. Pali (Vin. i. 190): kambala.
[46] Đa-la 多羅. Pali (Vin.i. 189): tālataruṇa, tāla non hay chồi cây tāla; loại cây lá hình quạt; loại cây cọ.
[47] Tỳ-xá-ly Bạt-xà Tử 毘舍離跋闍子. Người họ Bạt-xà (Pali: Vajjiputta) ở Tỳ-xá-ly (Pali: Vesāli).
[48] Chưa đủ 10 tuổi hạ, không được làm y chỉ.
[49] Tác tịnh, vì sợ phạm súc trưởng bát; ni-tát-kỳ 21.
[50] Liễn 輦; xe do người kéo.
[51] Y-sư bì 伊師皮.
[52] Hàn tuyết quốc 寒雪國.
[53] Phú-la-am-đề 富羅菴鞮. Cf. Bì cách sự (T23, tr.1059b1): tại vùng có tuyết lạnh, cho dùng giày phú-la. Xem thêm Ngũ phần 21 (T22n1421 tr.146c24) Có lẽ một loại giày ống. Wogihara, Skt. pūla: loại giày có giây đai. Mahāvyutpatti, 272 (21): pūlā, hữu đái ngoa 有帶靴, phú-la 富羅. Nhất thiét kinh âm nghĩa (T54n2128 tr.740b07): phúc-la 腹羅, cũng viết là 福羅; hoặc nói là phú-la 富羅, chính xác nói là bố-la 布羅; dịch là đoản áo ngoa 短靿靴, loại giày ống cổ ngắn (?). Phiên dịch danh nghĩa (T54n2131, tr.1108b17): phú-la 富羅, chính xác là phúc-la 腹羅, dịch là đoản áo ngoa 短靿靴. Không rõ Pali tương đương.
[54] Khẩn-thù-thán 緊殊炭. Chưa rõ cái gì.
[1] Phấn tảo 糞掃. Thập tụng: bàn tẩu y 槃藪衣. Pali: paṃsukūla, (vải) lượm từ đống rác.
[2] Mười loại y hay mười loại vải: 1. câu-xá 拘舍, Pali: koseyya (Skt. kauśeya), vải quyến, lụa; 2. kiếp-bối 劫貝, Pali: kappāsa (Skt. karpāsa), miên bố, vải bông; 3. khâm-bạt-la 欽跋羅衣, Pali: kambala (Skt. nt.), mao bố, vải lông, lông thú; 4. sô-ma 芻摩, Pali: khoma (Skt. kṣauma), ma bố, á ma, vải lanh; 5. xoa-ma 叉摩, Pali: ? 6. xá-nâu 舍兔, Pali: sāṇa (Skt. śāṇa), vải gai thô; 7. ma 麻 Pali: bhaṅga (Skt. đồng); 8. sí-di-la 翅夷羅, Pali: (?); 9. câu-nhiếp-la 拘攝羅, Pali: (?); 10. thẩn-la-bát 嚫羅缽, Pali: (?); . Phiên âm ở đây không giống với các chương trước. Xem Phần I, Ch. iv. Ni-tát-kỳ 1 & cht. 8. Cf. Mahāvagga viii, Vin.i. 281: chỉ quy định sáu loại y hợp pháp: anujānāmi bhikkhave cha cīvarāni - khomaṃ kappāsikaṃ koseyyaṃ kambalaṃ sāṇaṃ bhaṅganti.
[3] Ca-sa 袈裟. Pali: kāsāya (Skt. kāṣāya), hạt sắc y, hoại sắc y, y màu vàng nâu.
[4] Nguyện y 願衣, lượm được do đứng chờ người vất bỏ trong bãi tha ma (Pali: āgamenta: đến đợi), xem đoạn dưới.
[5] Quý giá phấn tảo y 貴價糞掃衣. Vải tốt, quý, nhưng được vất bỏ đống rác. Thường vải bọc thây người chết của phú gia. Xem đoạn dưới.
[6] Xem cht. 22, Ch. v. Da thuộc.
[7] Thập tụng 27 (T23n1435 tr.195a27), 4 loại phấn tảo: 1. trũng gian y, bọc thây người chết, vất trong bãi tha ma; 2. xuất lai y, lượm trong bãi tha ma đem về cho tỳ-kheo; 3. vô chủ, bọc xác chết vô chủ; 4. thổ y, vất trong các đống rác trong xóm.
[8] Cầu nguyện y 求願衣; trên kia nói là nguyện y. Vải lượm từ bãi tha ma đem về chia giữa các tỳ-kheo, do có giao ước trước. Thập tụng gọi là xuất lai y; Pali: āgamenta: đến và đợi (paṃsukūlapariyesana, tìm cầu y phấn tảo)
[9] Am-bà-la-bà-lợi 菴婆羅婆利. Pali: Ambapālī.
[10] Sa-la-bạt-đề 娑羅跋提. Trong để bản đọc là Bà-la…婆羅. Theo âm Pali mà sửa lại. Vin.i. 268: Sālavatī.
[11] Vô Úy vương tử 無畏王子. Pali: Abhaya-rājakumāra.
[12] Kỳ-bà 耆婆. Pali: do được trả lời jīvati (nó sống), nên đặt tên là Jīvaka.
[13] Đồng tử 童子. Do Vương tử (Kumāra) lượm được, nên cho hiệu là Komārabhacca. Hán dịch không phân biệt hai từ Phạn khác nhau này: Komārabhacca, hiệu riêng của Kỳ-bà, và Kumāra, danh từ chung, Vương tử hay đồng tử.
[14] Đắc-xoa-thi-la 得叉尸羅. Pali: Takkasilā, thủ phủ của Gandhāra, được xem là một trung tâm học thuật danh tiếng thời bấy giờ. Nhiều vua chúa học ở đó.
[15] Hết quyển 39.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 60 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.147.49.154 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập