Ở miền Nam Ấn Độ, cách thành Vương Xá không xa có một khu rừng trúc u
nhã, yên tịnh tên là Ca Lan Đà. Trúc trong rừng ấy vừa cao vừa rậm rạp,
bao quanh một khu tinh xá lớn và tráng lệ, do vua Tần Bà Sa La xây dựng
và cúng dường đức Phật. Đó chính là tinh xá Trúc Lâm, là nơi đức
Phật cùng rất đông đệ tử của Ngài cư ngụ, và cũng là nơi mà đức Phật
thường giảng kinh thuyết pháp cho rất nhiều người nghe.
Hai vị đệ tử thượng thủ của Ngài là ngài Xá-lợi-phất và ngài
Mục-kiền-liên, trước khi dùng cơm lần nào cũng vận dụng thần thông “từ
bi” (thần thông này do lực từ bi mà có) để quán sát các chúng sinh đang
chịu khổ trong ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, xem có cơ
duyên nào cứu độ họ được hay không, rồi mới dùng cơm.
Có một lần tôn giả Mục-kiền-liên quan sát thế giới ngạ quỷ, thấy có một
ngạ quỷ rất đáng thương. Thân nó giống như cây cột cháy, bụng thì to như
gò núi, hễ đưa bất cứ thứ gì lên miệng thì thứ ấy lập tức biến thành
những cây kim bằng sắt. Đã thế mà còn thường khạc ra lửa khói, tự đốt
cháy mặt mày, tóc tai thì cứng như dao kiếm, suốt ngày khóc lóc kêu
than, đói khát muốn chết, thế mà một giọt nước cũng không nuốt được, vì
hễ đưa nước lên tới miệng thì nước liền biến thành máu, không uống được.
Thấy tình cảnh ngạ quỷ thống khổ như thế, Mục-kiền-liên mới tiến đến
trước mặt nó hỏi:
– Ngươi đã tạo nên nghiệp tội gì mà bây giờ phải chịu khổ như thế này?
– Bạch Tôn giả, nơi nào có mặt trời chiếu thì không cần thắp ngọn đèn
dầu leo lét. Trí huệ đức Phật như kính sáng, có thể chiếu rọi chúng sinh
trong mười phương. Bất kỳ người nào tạo nghiệp tội trong quá khứ, hiện
tại và vị lai cũng được kính trí huệ của Ngài soi rõ, không thiếu sót
mảy may nào. Tôi đã tạo tội ác gì, ngài có thể thưa hỏi đức Phật thì rõ.
Bây giờ tôi quá đói khát, không trả lời cho ngài được, xin ngài thứ lỗi.
Ngạ quỷ nói với ngài Mục-kiền-liên như thế xong, lại tiếp tục rên rỉ kêu
than. Tôn giả Mục-kiền-liên liền đi tìm đức Phật bái kiến.
Lúc ấy đức Phật đang thuyết giáo nghĩa cứu cánh cho các tỳ-kheo, thấy
dáng điệu vội vàng của ngài Mục-kiền-liên liền hỏi:
– Mục-kiền-liên, ông có việc gì mà cuống quýt lên như thế?
– Vâng, bạch Thế Tôn! Con có một điều không giải quyết được, nên tới đây
thỉnh Thế Tôn khai thị.
Đức Phật từ bi trả lời:
– Có chuyện gì ông cứ nói.
– Vừa rồi con quán sát trong địa ngục có một ngạ quỷ thân thể bị cháy
sém, cổ họng như lỗ kim, bụng to như cái thùng, không ăn được bất cứ món
gì, không ngừng đi lùng kiếm thức ăn, nhưng cứ hễ đưa thức ăn lên miệng
thì thức ăn biến thành kim sắt. Ngạ quỷ này đã làm nên tội gì mà phải
thọ một quả báo như vậy, cúi xin Thế Tôn thuyết giải cho chúng con rõ.
Trước khi Mục-kiền-liên bắt đầu kể, đức Phật đã biết rõ chuyện gì xảy
ra, nên mới thuận theo cơ duyên này mà nói với các đệ tử trong pháp hội:
– Các ông hãy nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho các ông rõ.
Cách đây rất lâu trong thành Xá Vệ, có một người rất giàu có, làm nghề
ép mía lấy nước ngọt bán. Công việc làm ăn thịnh vượng, trong nhà tấp
nập công nhân thợ thuyền. Lúc ấy có một vị Bích Chi Phật, vì muốn hóa độ
tất cả chúng sinh nên thị hiện chứng bệnh hay khát nước. Có một người
khuyên ngài nên uống nước mía ép, vì thế ngài bèn đến nhà ông nhà giàu
nọ xin nước mía uống.
Người này thấy có Bích Chi Phật đến, sinh lòng cung kính, hoan hỉ cúng
dường nước mía cho ngài. Nhưng ông có việc gấp phải đi ra ngoài, không
thể tự tay cúng dường, bèn giao việc này cho bà vợ và căn dặn rằng: “Bà
hãy thay tôi đem nước mía lên cúng dường Bích Chi Phật.” Bà vợ trả lời:
“Vâng, tôi đem lên liền.”
Ông nhà giàu đi rồi, bà vợ bèn nghĩ: “Nước mía rất quý, từ trước đến nay
nhà ta chưa bao giờ đem cho ai uống không. Nếu hôm nay cho ông này uống,
sau này sẽ có nhiều người đến xin nữa.”
Tâm keo kiệt phát khởi, bà lén thi hành độc kế bằng cách lấy một cái bát
bằng sắt, đổ nước dơ uế vào rồi mới đổ một chút nước mía lên trên, xong
bưng lên đưa cho Bích Chi Phật uống. Vị Bích Chi Phật đón lấy cái bát,
biết ngay việc làm tội lỗi của người đàn bà, nên đổ những món bẩn thỉu
trong bát xuống đất, lấy nước rửa bát sạch sẽ rồi bỏ đi.
Không lâu sau, mạng sống người của đàn bà keo kiệt chấm dứt, đọa xuống
làm ngạ quỷ, thường bị đói khát và bị lửa nghiệp đốt thân. Nghiệp khổ
này còn phải kéo dài đến 90 ngàn năm nữa mới hết.
Đức Phật thuyết xong nhân duyên của người đàn bà keo kiệt bị đọa xuống
làm ngạ quỷ, khiến tứ chúng trong pháp hội đều kinh hãi từ bỏ tính keo
kiệt tham lam, ghê sợ chuyện sinh tử, ai cũng chứng được quả thánh, hoan
hỉ tán thán rồi lui ra.