Ở thành Xá Vệ có một vị trưởng lão tên là Tài Đức. Ông có một đứa con
trai, mới lên năm tuổi đã thường được ông dạy cho niệm câu “Nam Mô
Phật”. Đứa bé rất khôn ngoan nên học xong là biết niệm “Nam Mô Phật”
ngay, do đó được cha rất mực cưng chìu.
Có một con quỷ chúa ở ngoài đồng hoang, bị đói khát bức bách, thình lình
đến nhà của trưởng giả, thấy một đứa bé bèn bắt cóc bỏ chạy, đem về chỗ
đồng hoang của mình tính xé xác ra ăn thịt ngay, nhưng đứa bé niệm lên
câu “Nam Mô Phật”, nên quỷ vương đột nhiên bị tê liệt, không cách nào
chạm tới đứa bé được. Nhưng từ cặp mắt hung ác sáng như điện của quỷ
vương bốc lên lửa dữ, đứa bé sợ quá, miệng niệm “Nam Mô Phật” không
ngừng.
Cứ như thế trong một thời gian dài, quỷ vương không cách nào ăn thịt
thằng bé như ý mình muốn, nên càng lúc càng nóng nảy và giận dữ.
Đức Phật với thiên nhĩ thông, từ xa nghe tiếng đứa bé niệm danh hiệu của
Ngài cầu cứu, bèn lập tức dùng thần thông đến chỗ đồng hoang, phóng ánh
sáng hào quang màu trắng để bảo vệ đứa bé. Quỷ vương thấy đức Phật quang
lâm nhưng không hề cảm thấy sợ hãi. Hào quang màu trắng của đức Phật
càng làm tăng thêm ngọn lửa sân khuể trong lòng hắn, khiến hắn nổi xung
thiên lồng lộn lên, nhấc một tảng đá lớn toan ném tới đức Phật.
Nhưng đức Phật đã nhập Hỏa Quang Tam muội, dùng lửa đốt sạch cánh đồng
hoang, ngọn lửa mãnh liệt ngùn ngụt cháy chiếu thấu suốt cả quả đất, và
trong ánh sáng ấy lại có hóa hiện vô số ức hóa Phật. Thế mà quỷ vương ác
độc và khó độ vẫn không hề tàm quý, vẫn không chịu hàng phục.
Lúc ấy, có một vị thần Kim Cang thấy tình trạng như thế, vô cùng tức
giận, một tay cầm chày kim cương, một tay múa một cây kiếm bén thật lớn,
hướng tới quỷ vương phác cử chỉ chém xuống đầu hắn. Quỷ vương sợ quá, ôm
lấy đứa bé, quỳ mọp xuống trước mặt đức Phật mà nói:
– Thế Tôn! Xin Ngài từ bi cứu mạng con với!
Đức Phật như người cha lành, dầu gặp người ác hơn thế nữa nhưng nếu đã
biết chân thành sám hối, Ngài cũng sẵn sàng tha thứ. Thần Kim Cang bèn
ra lệnh cho quỷ vương:
– Ngươi còn chờ gì mà chưa quy y Phật, Pháp, Tăng? Nếu chưa quy hàng, ta
sẽ đập ngươi tan nát như bụi, hiểu chưa?
Quỷ Vương sợ sệt chắp tay thưa với đức Phật:
– Thế Tôn! Từ trước đến giờ con ăn thịt uống máu người, bây giờ Ngài dạy
con từ nay về sau không được giết người nữa thì con lấy gì mà ăn đây?
– Quỷ vương, đừng lo chuyện ấy. Nếu ngươi giữ được giới không giết hại
thì ta sẽ dặn đệ tử của ta bố thí thức ăn cho ngươi từ giờ cho đến lúc
pháp của ta diệt tận. Dựa vào sức Phật, ngươi sẽ được no đủ.
Quỷ vương nghe thế rất vui mừng, lập tức thọ nhận Tam quy, Ngũ giới, rồi
hướng về thần Kim Cang nói một cách biết ơn:
– Nhờ Đại Đức chỉ giáo cho con nên con mới được uống nước cam lồ, được
Pháp vị vô thượng, bỏ đường mê lầm mà quay về nẻo chính.
Đứa bé được cứu thoát, trưởng giả Tài Đức mừng rỡ ôm con đến xin xuất
gia theo Phật. Từ đó ông tu hành rất tinh tiến, tín tâm kiên cố thêm.
Từ trước đến nay, tốt hơn hết là tự mình phát tâm tin tưởng tu hành.
Nhưng chúng sinh ngu si, đôi khi cần phải có áp lực từ bên ngoài mới
chịu hối lỗi mà tín tu, đó gọi là “nghịch tăng thượng duyên”.
27. Bào thai chắp tay
Có một lần, lúc đức Phật đang tuyên thuyết pháp Đại thừa tại thành Vương
Xá, trong đạo tràng của Ngài có một người đàn bà hiền đức tài giỏi tên
là Tỳ Lâu.
Bà Tỳ Lâu không những là một người vợ đảm đang, một người mẹ hiền trong
gia đình, mà ngoài xã hội cũng được tiếng là một người đàn bà gương mẫu.
Vì thế, một khi bà lên tiếng kêu gọi ai làm chuyện gì, thì lời kêu gọi
của bà có hiệu lực rất lớn.
Trong pháp hội ngày hôm ấy, bà đã tập họp được hàng trăm, hàng ngàn
người đàn bà khác đến nghe pháp.
Tuy họ toàn là những người sơ phát tâm, nhưng ai cũng bắt chước Tỳ Lâu
chắp tay chăm chú nghe thuyết pháp.
Đức Phật đang giảng kinh bỗng ngừng lại, hướng về tôn giả A Na Luật đang
ngồi giữa đại chúng mà hỏi:
– A Na Luật! Ông đã thấy được chuyện gì? Có thấy điều chi đặc biệt và lạ
lùng không?
Ngài A Na Luật được đức Phật hỏi đến như thế, liền đứng dậy cung kính
trả lời:
– Bạch Thế Tôn, mọi người yên tịnh lắng nghe pháp âm của Phật thì đương
nhiên tự động chắp tay kính cẩn lắng nghe. Con nay lại thấy thai nhi mà
tín nữ Tỳ Lâu đang mang trong lòng mà cũng chắp tay nghe pháp, con rất
lấy làm lạ!
Lúc ấy, quả thật Tỳ Lâu đang mang thai, và đứa bé gái trong bào thai hấp
thụ tính hiền hòa của mẹ, cộng với thiện duyên của chính mình nên tuy
hãy còn ở trong bụng mẹ mà cũng biết chắp tay nghe kinh.
Tôn giả A Na Luật là một vị A-la-hán đã chứng đắc được thiên nhãn thông,
nên bất cứ vật gì dầu trong dầu ngoài, ngài cũng đều có thể thấy hết.
Đức Phật lại nói:
– Lành thay! Lành thay! Trong số đông những vị A-la-hán ở đây, A Na
Luật, ông là người có thiên nhãn thông, có thể thấy được những việc hiếm
có mà người khác chưa từng thấy. Đó là điều khiến ông hơn tất cả mọi
người.
A Na Luật, ông thấy không, trong mười phương thế giới, chim bay thú
chạy, ngay cả trong loài côn trùng, chưa hề có một đứa bé còn trong bụng
mẹ mà đã biết chắp tay nghe kinh như mẹ. Đó chính là vì âm thanh viên
mãn của Phật có năng lực thấu suốt qua tất cả mọi cảnh giới, khiến cho
chúng sinh nào nghe được cũng đều phải chắp tay cung kính.
Đức Phật nói xong, muốn cho mọi người hiểu biết một chút về những sự
kiện hy hữu trên thế giới, nên từ thân Ngài phóng ánh sáng làm cho bốn
phương tám hướng, từ trên xuống dưới, tất cả được chiếu sáng không có gì
trở ngại. Trong ánh từ quang sáng chói của Phật, không còn sự phân biệt
giữa trong và ngoài, đâu đâu cũng y như nhau. Như thể được chiếu rọi bởi
một tấm kính lớn đằng trước, không có vật gì có thể che giấu được.
Lúc ấy, những người trong pháp hội nghe kinh, nương nhờ pháp lực của đức
Phật có thể thấy được những gì mà từ trước đến nay họ chưa hề được thấy
nên ai nấy đều vui mừng vô kể.
Lúc ấy bà Tỳ Lâu cũng biết rằng đứa con mình đang mang trong bụng sắp
sửa ra đời, vì thế bà bèn đứng dậy, đảnh lễ đức Phật rồi lui xuống phía
dưới, và chính lúc đó bà hạ sinh một đứa bé gái.
Khi đứa bé chào đời, trong không trung vang lên thiên nhạc tuyệt vời và
những đóa hoa ngũ sắc lả tả rơi xuống. Rất nhiều người đàn bà vội vàng
đem đến một bộ quần áo mới phủ lên thân thể hài nhi, tránh cho đứa bé bị
lõa thể khi đối diện với đại chúng.
Vị đệ tử thượng thủ của đức Phật là Tôn giả Xá-lợi-phất thấy mọi chuyện
xảy ra như thế, bèn đứng dậy hỏi rằng:
– Bạch Thế Tôn! Nữ hài nhi này từ quốc độ nào đến? Kiếp trước đã tạo
phước báo nào mà được chào đời giữa pháp hội cao quý này?
Đức Phật từ mẫn giảng cho Xá-lợi-phất và đại chúng biết về lai lịch của
đứa bé:
– Đứa bé sơ sinh này đến từ một nơi cách đây rất xa ở phía đông nam,
nước ấy tên là Diêm Phù Đàn. Rất nhiều kiếp về trước, cô luôn luôn cúng
dường Phật và trai tăng, và còn phát nguyện tương lai sẽ sinh ra đời nơi
pháp hội của Phật đang thuyết pháp, vì thế nên kiếp này cô được như
nguyện và chào đời tại nơi đây.
Pháp âm của Phật cùng tất cả những điềm lành lúc đứa bé sinh ra đời làm
cho thính chúng ngày hôm đó vô cùng hoan hỉ, họ phát nguyện đời đời kiếp
kiếp quy y thánh pháp, cứu độ chúng sinh.