Thời gian trôi đi như tên bắn, ngày tháng như dòng nước chảy [không bao giờ quay lại]. Nghiệp báo một khi đã đến, dù muốn trốn tránh cũng không có phương cách nào. Nên biết nhân lúc sức vóc còn khỏe mạnh, dũng mãnh quay đầu hướng thiện, từ bỏ việc xấu ác. Sáu căn nếu không còn xao động chạy theo trần cảnh, thì tám nỗi khổ liền đồng thời dứt hết.
Phần thứ nhất: Thân cận Tam bảo.
1. Thường nghiên tầm học hỏi đạo thiền [để đạt đến trí tuệ sáng suốt].
2. Thường tu tập tinh tấn pháp môn Tịnh độ [để thành tựu viên mãn quả Phật].
3. Thường xiển dương Phật pháp, làm hưng thịnh đạo Phật.
4. Thường tôn tạo, trang nghiêm hình tượng Phật.
5. Thường tu sửa, kiến tạo chùa chiền, tự viện.
6. Thường dốc sức sao chép, in ấn lưu hành Kinh điển.
7. Thường chuyên tâm trì tụng thần chú [do chư Phật truyền dạy].
8. Thường tham bái, học hỏi với các vị đại đức, cao tăng, cung kính cúng dường bốn món nhu yếu.
9. Không nghĩ đến lỗi lầm của các vị tăng, ni.
10. Nếu đang giữ chức quan, phải luôn hết sức hộ trì Chánh pháp.
Mười điều nêu trên, trước tiên đề cập tổng quát việc quy y Tam bảo, sau bàn chi tiết đến Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, cuối cùng đúc kết lại [là phải hộ trì Chánh pháp].
Phần thứ hai: Phát nguyện sâu rộng.
1. Chúng sinh số lượng nhiều không kể xiết, xin phát thệ nguyện cứu độ tất cả.
2. Phiền não nhiều vô tận, xin phát thệ nguyện [tu tập] dứt trừ tất cả.
3. Pháp môn tu tập nhiều không thể đo lường, xin phát thệ nguyện tu học tất cả.
4. Phật đạo cao quý không gì hơn được, xin phát thệ nguyện [tu tập] thành tựu.
Bốn điều nêu trên, trước nói về tâm bi mẫn, tiếp đến nói về tâm trí tuệ, cuối cùng là tâm thành tựu viên mãn.
Phần thứ ba: Sám hối dứt trừ nghiệp chướng.
1. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với các bậc tôn trưởng và lục thân quyến thuộc.
2. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với các vị xuất gia nói riêng, hoặc với bốn chúng nói chung.
3. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với bạn bè thân hữu, vợ cả, vợ lẽ.
4. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với nô bộc, người hầu, tỳ nữ.
5. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với hạng ca kỹ lầu xanh.
6. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với các vị thần nữ, tiên cô.
7. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với hàng trời, rồng, tám bộ chúng.
8. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với các loài yêu ma, quỷ mỵ.
9. Nguyện chí thành sám hối tội tà dâm từ vô thủy đến nay đối với các loài ngạ quỷ, súc sinh.
10. Tất cả những tội lỗi nhơ nhớp như trên đã chí thành sám hối, nguyện được tiêu trừ, dứt sạch hết thảy.
11. Nguyện thay mặt cho cha mẹ, lục thân quyến thuộc trong đời này và các đời trước, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
12. Nguyện thay mặt cho các vị quốc vương, sư trưởng, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
13. Nguyện thay mặt cho các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
14. Nguyện thay mặt cho các vị bằng hữu, các bậc tri thức, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
15. Nguyện thay mặt cho tất cả những kẻ có oán thù ngang trái với mình từ vô lượng kiếp đến nay, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
16. Nguyện thay mặt cho tất cả chúng sinh trong các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
17. Nguyện thay mặt cho tất cả chúng sinh [đã tạo các ác nghiệp phải sinh ra vào lúc có nạn] đao binh, mất mùa đói kém, bệnh dịch lan tràn, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
18. Nguyện thay mặt cho chư thiên các cõi trời và các vị tiên nhân, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
19. Nguyện thay mặt cho tất cả chúng sinh hữu tình đang chịu khổ não trong cõi pháp giới cùng khắp cả hư không, chí thành sám hối tất cả những tội lỗi như trên.
20. Tất cả những tội lỗi nhơ nhớp [của hết thảy những chúng sinh khác nhau] như trên đã chí thành sám hối, nguyện được tiêu trừ, dứt sạch tất cả.
Hai mươi điều nêu trên, trước là tự mình sám hối tội lỗi của bản thân, sau là thay mặt cho [tất cả các loài chúng sinh] để sám hối.
Phần thứ tư: Tu tích phước lành lợi ích cho người khác.
1. Biếu tặng [để lưu hành rộng rãi] các sách răn ngừa sự dâm dục [thái quá].
2. Đốt bỏ những sách khiêu dâm, [ngăn cản không để cho lưu hành rộng rãi].
3. Ra sức giúp đỡ bảo toàn tiết hạnh trong sạch cho phụ nữ.
4. Giúp đỡ tiền bạc [cho người nghèo để họ có thể] gả con lấy chồng.
5. Bỏ tiền thay người chuộc tự do cho những con gái nhà lành [đã bị bán làm tỳ nữ, kỹ nữ].
6. Nhận nuôi dưỡng những trẻ em [không nơi nương tựa].
7. Bố thí thuốc men cần thiết cho phụ nữ mang thai.
Bảy điều nêu trên, trước là bố thí trí tuệ, tiếp đến là bảo vệ thanh danh cho người, cuối cùng là bố thí tài vật.
Phần thứ năm: Tỉnh giác nhận biết trong hiện tại.
1. Nhìn thấy vợ mình chịu đựng nhiều sự khổ não khi sinh nở và nuôi nấng con cái, nên quán tưởng đó là do chính mình đã khiến người ấy phải chịu khổ, nhân đó liền thầm niệm danh hiệu Phật, nguyện cho người ấy được đời đời kiếp kiếp về sau không phải sinh làm thân nữ, được vãng sinh về cõi Phật thanh tịnh.
2. Nhìn thấy con cái mình chịu bệnh khổ, cho đến những nỗi khổ khi sinh nở, nuôi con, lại cũng quán tưởng đó là do chính mình đã gây ra những nỗi khổ ấy, nhân đó liền phát nguyện cứu độ cho tất cả đều được thoát khỏi khổ não luân hồi.
3. Nhìn thấy các tỳ nữ, nô tỳ khổ nhọc bồng bế chăm sóc con cái của mình, lại cũng quán tưởng đó là do chính mình đã gây ra những nỗi khổ ấy, nhân đó liền phát nguyện cứu độ cho tất cả đều được thoát khỏi khổ não trong luân hồi.
4. Nghĩ đến việc lâu xa về sau nữa, con cháu nhiều đời của mình rồi cũng sẽ đời này sang đời khác cưới vợ, gả chồng, lại cũng đời này sang đời khác sinh con rồi nuôi dưỡng khó nhọc, cho đến đời đời kiếp kiếp phải lưu chuyển mãi mãi trong sinh tử luân hồi, lại cũng quán tưởng đó là do chính mình đã gây ra những nỗi khổ ấy, nhân đó liền phát nguyện cứu độ cho tất cả đều được thoát khỏi khổ não luân hồi.
Bốn điều nêu trên, trước là nhân nơi những việc nhìn thấy trước mắt mà tỉnh giác nhận biết, sau là do sự suy xét quán tưởng mà tỉnh giác nhận biết.
Phần thứ sáu: Vui theo niềm vui của người khác.
[Gặp những trường hợp như sau đây nên khởi tâm hoan hỷ tán thành, trợ giúp cho thành tựu và cùng vui theo với niềm vui của người:]
1. Nhìn thấy những gương trinh tiết của phụ nữ.
2. Nhìn thấy con gái nhà nghèo hoặc đã lớn tuổi có thể lấy được chồng, yên bề gia thất.
3. Nhìn thấy vợ chồng người khác [chia lìa rồi lại] được đoàn tụ như xưa.
4. Nhìn thấy những sách khuyến thiện, khuyên người tránh ác làm thiện [được lưu hành rộng].
5. Nhìn thấy người khác có thể dứt lìa tham dục, xuất gia tu hành.
Năm điều nêu trên, trước là nói về công đức [tùy hỷ] của thế tục, sau nói về công đức [tùy hỷ với] việc xuất thế.
Phần thứ bảy: Biểu hiện của sự dứt trừ tội lỗi.
[Khi sự tu tập thành tựu, tội lỗi được dứt trừ, người tu sẽ nhận thấy có các biểu hiện như sau:]
1. Tự nhiên không còn nghĩ tưởng đến chuyện ái dục nam nữ.
2. Tự nhiên nhận biết được những sự uế trược nơi thân người nữ.
3. Tự nhiên thấy chán ghét, không ưa thích những chuyện xướng ca múa hát.
4. Tự nhiên muốn trừ bỏ hết những sách khiêu dâm, tiểu thuyết gợi tình.
5. Tự nhiên phát khởi tâm từ bi [đối với tất cả chúng sinh].
6. Tự nhiên thấy vững tin sâu sắc vào nhân quả.
7. Tự nhiên thấy ưa thích, hoan hỷ làm chuyện bố thí.
8. Tự nhiên thấy tôn trọng, kính tin Tam bảo.
9. Tự nhiên tỉnh giác nhận biết về việc mình sẽ chết.
10. Tự nhiên thấy chán ghét thân xác [giả tạm] này, liền phát khởi ý tưởng muốn [tu tập pháp môn] xuất thế.
Mười điều nêu trên, trước là nói những chuyển biến liên quan đến ái dục, sau nói đến những chuyển biến khác khi đã lìa bỏ được ái dục.