Lúc đức Phật còn tại thế, có một vị trưởng giả tên là Âm Duyệt, nhà rất 
		giàu có, cuộc sống không có điểm nào đáng phàn nàn trừ ra một điều là 
		tuổi đã cao mà chưa có đứa con trai nào. Thế nên từ sáng đến tối ông cứ 
		luôn rầu rầu nét mặt.
		Nhưng nhờ căn lành đời trước nên một hôm, liên tiếp có bốn loại phúc đức 
		cùng đến với ông trong một lúc. Thứ nhất, vợ ông sinh được một cậu con 
		trai kháu khỉnh xinh xắn không ai bì kịp; thứ hai, trong chuồng ngựa có 
		vô số ngựa trắng đều sinh sản rất nhiều ngựa con khoẻ mạnh trong cùng 
		một lúc; thứ ba, ông được vua phái người tới tận nhà phong thưởng chức 
		tước; thứ tư, những chiếc tàu buôn ông gởi ra nước ngoài tìm kho tàng 
		đều về tới bến, thành công mỹ mãn.
		Vị trưởng giả hoan hỉ vô cùng, ông nghĩ rằng đó là do chư thiên ban phúc 
		cho mình nên phải tập họp gia tộc lại, làm một bữa tiệc cỗ cao lương mỹ 
		vị để cúng tế, tạ ơn lòng tốt của chư thiên.
		Lúc ấy đương nhiên có rất nhiều Thiên vương cùng bát bộ thiên long và 
		chư thiên cõi trời rải rác trong hư không, thấy vị trưởng giả phúc đức 
		đầy đủ như thế, đều âm thầm tán thán. Đức Phật Thích-ca vì đời trước có 
		chút nhân duyên nên cũng đến trước cửa nhà trưởng giả nói kệ cát tường:
		Phúc đức trổ mạnh mẽ,
		Niềm vui tới một lúc.
		Do phúc đức đời trước,
		Nay đến lúc thành thục.
		Trưởng giả Âm Duyệt nghe pháp âm vi diệu của đức Phật Thích-ca, mừng rỡ 
		chạy ra ngoài cửa cung kính lễ bái mà nói:
		– Ngài là vị xuất gia được cả pháp giới này tôn kính bậc nhất, phúc tuệ 
		song toàn nên độ hóa được chúng sinh trong cả mười phương thế giới! Hôm 
		nay biết trước nhà tôi có may mắn vô hạn nên Ngài tới tận đây mà tán 
		dương, lòng tôi thật vô cùng cảm kích!
		Nói xong, bèn đem ra những tấm thảm nhung trắng loại thượng hảo hạng ra 
		cúng dường Phật. Đức Phật tiếp nhận rồi bèn chú nguyện cho ông và còn từ 
		bi khai thị rằng:
		– Trên thế gian này, ngay trong bản thể của tiền tài vốn đã bị năm loại 
		tai nạn nguy hiểm chi phối, nhưng người ta không biết cái đạo lý này nên 
		cứ mong cầu không chịu biết đủ, tính toán chi li, đến khi chết dù một 
		đồng xu nhỏ cũng không mang theo được. Tiền tài như thế chỉ đem lại 
		phiền não cho chúng ta mà thôi. Hôm nay nếu trưởng giả dùng những tiền 
		tài bất an ấy để bố thí cúng dường thì sau này phúc đức và chuyện vui 
		nào cũng sẽ theo nhân duyên đó mà đến với ông.
		Trưởng giả thưa hỏi:
		– Năm loại tai nạn nguy hiểm ấy là gì?
		Đức Phật đáp:
		– Thứ nhất là không biết sẽ bị lửa thiêu cháy lúc nào; thứ hai là đề 
		phòng nạn bão lụt không kịp; thứ ba là bị quan quyền dùng sức mạnh tịch 
		thu mà không sao kháng cự; thứ tư là sinh con bất hiếu hư đốn tiêu phí 
		đến khánh tận gia sản; thứ năm là giặc cướp đến cướp đoạt. 
		Trong năm loại tai nạn trên, bất cứ tai nạn nào xảy ra cũng đều làm cho 
		gia sản bị tổn thất. Thí dụ, nếu có một người phạm tội với quan, thì 
		không những của cải bị tịch thu hết mà còn có thể còn bị giam cầm trong 
		lao tù, thậm chí có thể bị xử tử nữa! Lúc ấy, người đó biết làm cách nào 
		để chống chọi hay bảo vệ tài sản cho được an toàn? Lại nói, kiếp trước 
		có người đã từng bố thí 7 lần, nhưng mỗi lần bố thí xong đều vô cùng hối 
		hận tiếc rẻ. Do không bố thí với tâm chí thành nên sau đó, người ấy tuy 
		có vô số tiền của, nhưng cũng bị phá sản 7 lần.
		Trưởng giả nghe thế, sinh tâm chí thành bố thí một cách hoan hỉ. Đức 
		Phật nói xong cũng tức khắc quay trở về núi Kỳ Xà Quật.
		Lúc ấy có một vị ngoại đạo tên là Bất Lan Ca Diếp, nghe nói đức Phật chỉ 
		thuyết có một bài kệ cát tường mà được vô số thảm nhung trắng, bèn sinh 
		tâm ganh tị, tìm cách bắt chước. Nhưng ông không biết nói kệ nên đến xin 
		đức Phật dạy cho. 
		Đức Phật biết trước trưởng giả Âm Duyệt trong tương lai sẽ mất hết tài 
		sản lẫn phúc đức trong cùng một lúc, nên dùng lời khéo léo để khuyên can 
		ngoại đạo, nhưng người này cho rằng đức Phật không chịu dạy cho mình nên 
		cứ theo nài nỉ mãi. 
		Đức Phật có đại thần thông, thấy rõ nhân duyên kiếp trước của Bất Lan Ca 
		Diếp, biết nghiệp chướng không thể tránh được, nên nói với đại chúng 
		rằng: “Tội không tránh được, có nợ phải trả.” Rồi Ngài đem bốn câu kệ 
		cát tường dạy cho Bất Lan Ca Diếp.
		Không lâu sau, trưởng giả Âm Duyệt đã mất hết tài sản trong một trận hỏa 
		thiêu, rất nhiều ngựa con cũng chết cháy trong cùng một lúc, đứa con 
		trai quý bất hạnh yểu mệnh, đồng thời bị người khác ganh ghét sàm tấu 
		với vua, nên bao nhiêu chức vị được phong thưởng ngày nào nay đều bị 
		tước mất. Chưa hết, những con tàu ông gởi đi tìm kiếm kho tàng đều bị 
		bão tố lật úp, cả vốn lẫn lời đều chìm sâu trong biển cả.
		Đúng lúc ấy, Bất Lan Ca Diếp hồ hởi phấn khởi đến trước nhà trưởng giả, 
		đọc to lên những câu kệ cát tường. Trưởng giả đang phiền não không có 
		chỗ để trút giận, đột nhiên nghe những câu kệ cát tường, ngỡ rằng Bất 
		Lan Ca Diếp cố ý chọc tức mình, lập tức nổi giận, mặt mày đổi màu từ 
		trắng ra xanh, bất chấp hết thảy, thuận tay tóm lấy cây gậy dựng ngay 
		bên cửa đánh Bất Lan Ca Diếp một trận túi bụi. 
		Đáng thương cho Bất Lan Ca Diếp, trong thoáng chốc bị một trận đòn nên 
		thân, cả người bầm tím mang đầy thương tích, bò lê bò càng đau đớn trở 
		về nhà. Nhưng tuy vậy vẫn chưa tỉnh ngộ, cứ ngỡ rằng tại đức Phật không 
		chịu dạy kệ cho rõ ràng!
		Lúc ấy đức Phật đang ở vườn trúc La Duyệt Tri thuyết pháp, nói với đại 
		chúng rằng:
		– Bất Lan Ca Diếp hôm trước tới đây đòi ta dạy cho kệ cát tường, ta 
		khuyên can mà không nghe, hôm nay đến đó bị đả thương rồi!
		Ngài A Nan liền thưa hỏi đức Phật:
		– Bất Lan Ca Diếp và vị trưởng giả kia có nhân duyên gì với nhau mà bị 
		quả báo ấy?
		Đức Phật nói:
		– Đó là do một nhân duyên rất lâu xa về trước. Thuở ấy có một ông vua 
		tên là Âm Duyệt. Một hôm vua đang ngủ trưa thì có một con chim anh vũ 
		bay lên trên mái cung đình mà hót, tiếng hót nghe rất cảm động. Vua nghe 
		nó hót vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, bèn hỏi người xung quanh rằng: “Đó 
		là loại chim gì, sao nó hót nghe cảm động đến thế?” Người xung quanh 
		đáp: “Có một con chim kỳ diệu, mới bay tới hót ở trên mái cung đình.”
		
		Vua nghe thế, sai rất nhiều người đi lùng kiếm khắp mọi nơi, cuối cùng 
		bắt được chim. Vua vui mừng khôn kể xiết, bèn dùng ngọc châu cơ, thủy 
		tinh, lưu ly, trân châu, san hô, anh lạc v.v.. rất nhiều châu báu như 
		thế làm lồng cho nó ở, từ sáng tới tối giữ nó mãi bên mình không chịu 
		lìa xa. 
		Về sau có một con chim khác tên là mộc điểu, thấy thế bèn hỏi chim anh 
		vũ rằng:
		– Làm sao mà bạn được sung sướng tột cùng như thế?
		Anh vũ đáp:
		– Tôi tình cờ hót chơi giải buồn trên mái cung đình, vua nghe được cho 
		rằng tiếng hót của tôi cảm động nên sủng ái tôi như thế.
		Chim mộc ganh tức nói:
		– Tôi có thể hót hay hơn cả bạn!
		Thế rồi, lúc vua đang ngủ trưa, chim mộc bèn bay đến trước cung đình hót 
		rầm rĩ. Vua giật mình tỉnh giấc, rởn cả tóc gáy, nổi giận hỏi người xung 
		quanh: “Tiếng gì nghe rùng rợn như thế?” Người xung quanh đáp: “Đó là 
		tiếng con chim mộc đang hót trước cửa.” Vua nổi giận, lập tức ra lệnh 
		bắt chim vặt lông và đánh cho một trận rồi mới thả về. 
		Chim mộc bò ngả bò nghiêng trở về tổ, có rất nhiều chim khác thấy tình 
		trạng của nó như thế thì kinh hoàng hỏi nguyên do, chim mộc không những 
		không chịu nhận sự thật mà còn oán trách chim anh vũ, nói với đồng loại 
		rằng:
		– Tại con chim anh vũ tôi mới ra nông nỗi này!
		Đức Phật ngừng một lúc rồi lại nói tiếp:
		– Âm thanh hay có thể đem lại phúc đức, âm thanh dở thì đem đến tai hoạ. 
		Chim mộc tự làm hại lấy mình mà còn giận chim anh vũ. Vị vua thuở ấy 
		chính là trưởng giả Âm Duyệt ngày nay, chim mộc là Bất Lan Ca Diếp trong 
		quá khứ đã ganh tị với chim anh vũ nên bị đánh đập đau đớn, kiếp này lại 
		ganh tức với Phật, cũng lại bị nạn gậy gộc. Chính vì tâm ganh tị thiêu 
		đốt mà không chịu hối cải!
		A Nan lại thưa hỏi đức Phật:
		– Trưởng giả Âm Duyệt đời trước làm công đức gì mà lại được bốn loại 
		phúc báo, và tại sao bây giờ phúc đức ấy lại bị tiêu mất?
		Đức Phật trả lời:
		– Trong đời trước, lúc còn trẻ Âm Duyệt tín phụng Phật pháp, chí thành 
		cúng dường thánh chúng, nguyện cho được giàu có. Quả nhiên về sau được 
		như nguyện, nhưng khi cưới vợ rồi thì bất hạnh đâm ra đam mê tửu sắc, 
		khinh mạn Tam Bảo. Đã thế còn không có tâm từ bi, không gieo trồng căn 
		lành, vì thế nên phúc báo của ông ta tan đi như bóng trăng đáy nước, hoa 
		đốm trong không, biến mất trong nháy mắt.
		Sau đó, thật đáng thương, sẽ bị vô hạn thống khổ bức bách, chịu tận cùng 
		khổ báo rồi mới tiêu trừ nghiệp chướng được.