Ở đâu cũng có một ông thần thổ địa, giống như mỗi địa phương phải có một 
		quan chức an ninh vậy. Nhưng ở chân núi Hoa Oanh tỉnh Tứ Xuyên lại không 
		có thần thổ địa! Tại sao lạ thế? Về chuyện này, ở đây có một câu chuyện 
		khá thú vị được lưu truyền.
	  Lúc đó, ngôi chùa ở Ngũ Lý Pha dưới chân núi Hoa Oanh đang được trùng 
		tu. Dân chúng ở Ngũ Lý Pha là những Phật tử thuần thành, ai cũng đóng 
		góp tiền bạc mướn vài chục người thợ gạch, thợ nề về tu sửa ngôi chùa. 
		Nhưng chỗ xây cất cách thị trấn rất xa, trên núi lại khó kiếm thức ăn 
		thức uống, họ bèn mời một người tới chuyên lo nấu ăn cho thợ thuyền. 
		Nhưng điều kiện làm việc quá khổ cực, nào gánh nước, nào nấu nướng thật 
		là nhọc nhằn, người nào tới cũng chỉ làm được vài ngày rồi xin thôi vì 
		làm không nổi. Mời người khác đến thay thế chỉ được vài ngày rồi cũng 
		đi.
	  Một hôm, có một ông lão râu trắng đến tìm vị trưởng lão cai quản việc 
		sửa chữa ngôi chùa, nói rằng mình tự nguyện lên núi nấu cơm cho thợ. Vị 
		trưởng lão nhìn ông lão râu tóc bạc phau phau, tạng người thì gầy còm, 
		với cái tướng ấy thì làm sao gánh nước thổi cơm nổi? Nghĩ vậy, ông bèn 
		can:
	  – Thưa cụ, việc này không phải là một việc nhẹ nhàng đâu. Phải gánh 
		nước, phải thổi cơm; mà gánh nước thì phải đi thật xa mới có nước. Chùa 
		đã mời nhiều anh thanh niên trẻ tuổi về làm, mà tất cả đều chỉ làm có 
		vài hôm là xin nghỉ hết. Họ than cực quá làm không nổi, vậy thì cụ làm 
		sao chịu được?
	  Ông lão cười ha hả, trả lời:
	  – Làm nổi, làm nổi! Ông đừng chê tôi lớn tuổi, cái bộ xương già này còn 
		chịu cực được mà! Mấy ông thợ làm việc mệt nhọc như thế để xây chùa sửa 
		miếu, nếu không cho mấy ông ấy ăn uống đàng hoàng thì họ lấy sức đâu mà 
		làm? Xin trưởng lão an tâm, tôi cam đoan không thua gì bọn trai tráng 
		khoẻ mạnh đâu. Tôi không sợ mệt, dọn cơm chắc chắn không bao giờ trễ 
		nãi!
	  Trưởng lão nửa tin nửa ngờ nhưng không có lời nào để đối đáp với ông 
		lão. Hơn nữa, người có khả năng thì lại kiếm không ra nên đành chấp 
		thuận vậy.
	  Ông lão quả nhiên nói không ngoa, làm việc vượt hẳn bọn trai tráng. Ông 
		đi thật xa mới tới cái suối trên núi để múc hai thùng nước thật đầy gánh 
		về, đường đi cũng phải vài dặm, thế mà ông lão da mồi tóc bạc này lại 
		gánh một cách nhẹ nhàng thư thái, đi nhanh như bay, đi đi về về mấy lần 
		là các lu nước trong chùa đã đầy ắp.
	  Gánh nước xong xuôi ông lại lên đến giữa núi nhặt củi, và chẳng bao lâu 
		lại cõng về một bó củi thật to, thong thả ung dung chồng củi ở trước cửa 
		nhà bếp để phơi nắng cho khô.
	  Khoảng một giờ trước bữa ăn, ông mới bước vào nhà bếp và thật là thần 
		kỳ, chỉ trong một giờ mà ông đã sửa soạn xong bữa cơm cho vài chục người 
		ăn, tất cả đều được bày biện tươm tất trên bàn, cơm thơm phưng phức, rau 
		thơm lừng lựng, thợ thuyền ăn ngon miệng nên luôn luôn hớn hở tươi cười.
	  Ông lão là người rất tốt, gặp thợ thuyền lúc nào cũng chào hỏi chuyện 
		trò vui vẻ. Thợ mà có bệnh là ông lập tức lo lắng cho, đem trà đem nước 
		cho uống tận tình. Nhưng ông có một khuyết điểm lớn là hay nói, thích la 
		cà chuyện phiếm với những người thợ trẻ tuổi, mà nói toàn là chuyện nghe 
		có vẻ như khoác lác, thần kỳ, thí dụ lúc còn trai trẻ ông đã một mình 
		đánh đuổi được hơn một chục tên cướp, hay là ông ăn uống rất khoẻ, có 
		lần đánh cá với người ta ông đã tu cả chục cân rượu già một lúc... Ông 
		lại kể đã từng đánh nhau với yêu quỷ, rất nhiều hồ ly tinh đã bị ông 
		đánh cho chạy dài! Ngoài ra ông cũng đã gặp rất nhiều Bồ Tát, thần tiên 
		nữa... 
	  Lúc cao hứng nói chuyện như thế, ông quên cả thời gian. Có một lần, gần 
		tới giờ cơm chiều rồi mà ông hãy còn đứng ba hoa với những người thợ mới 
		vừa bãi việc. Một vài người thấy trời sắp tối mới nhắc rằng:
	  – Ông bác ơi, ông nhìn xem đã giờ nào rồi, ông mau về nấu ăn đi chứ! 
		Trời đã sắp tối, ông chưa đi thì bao giờ mới được ăn cơm?
	  Ông lão nói:
	  – Ờ phải rồi, đúng đấy, trời đã sắp tối, nhưng mấy người đừng lo, tôi về 
		làm một tý là xong ngay!
	  Quả nhiên, ông lão về đến nhà bếp rồi, chỉ một chút xíu sau là gọi mọi 
		người vào bàn, và trên bàn cơm rau đã dọn ra sẵn sàng. Có người thấy 
		điều ấy lạ lùng bèn hỏi ông lão:
	  – Ông bác ơi, ông làm sao mà mau quá vậy?
	  Ông lão đáp:
	  – Ậy, tại làm xong từ trước lâu rồi!
	  Tuy nhiên cơm canh còn nóng hổi, còn bốc khói nghi ngút, không thể nào 
		nói là làm xong từ trước được. Tuy nhiên cũng chẳng ai nghi ngờ gì cả, 
		chỉ khen ông lão nhanh nhẹn và ăn cơm một cách khoái chí, vui vẻ.
	  Có một lần, ông lão lên núi gánh nước, gánh nước xong liền đi nhặt củi, 
		hôm ấy có thể nói là khó tìm hơn mọi lần nên ông lão đi thật lâu. Khi 
		ông vác củi trên đường về thì đi ngang qua công trường xây chùa, đúng 
		ngay lúc ấy có một người thợ sơ ý, bị một viên gạch từ trên nóc chùa rơi 
		xuống trúng lỗ đầu. Ông lão thấy thế bèn ở lại giúp mọi người săn sóc 
		nạn nhân, nào cõng ông ta đến một túp lều gần đó, vừa xức thuốc vừa băng 
		bó vết thương, bận bịu một lúc thì đã đến giữa trưa, phải có người nhắc 
		nhở:
	  – Ông bác à, gần giữa trưa rồi mà ông bác vẫn chưa đi làm cơm, bây giờ 
		làm sao cho kịp?
	  Ông lão chỉ nói:
	  – Úi dà, giữa trưa rồi, tôi phải đi gấp!
	  Lúc ấy thợ thuyền đã ngừng tay, cùng nhau đến phòng ăn, thì thấy ông lão 
		đi như bay vượt qua mặt họ. Mọi người nghĩ rằng ông lão đã giúp chăm sóc 
		người thợ bị thương quên cả làm cơm, nên chắc chắn hôm nay sẽ bị ăn trễ 
		và phải chờ đợi. Thế nhưng, kỳ lạ thay, khi họ vừa bước tới phòng ăn thì 
		thấy cơm canh nóng hổi đã dọn sẵn trên bàn, ông lão đứng đó không lộ vẻ 
		gì là cấp bách cả. Điều này làm cho mọi người phải kinh ngạc, thầm nghĩ 
		rằng ông lão này hẳn phải là thần tiên, ông chỉ tới trước có mấy phút mà 
		làm xong mọi sự rồi sao? Có người lại hỏi ông, ông bèn cười ha hả:
	  – Làm xong từ trước rồi!
	  Tuy nhiên từ hôm đó trở đi, có một người thợ để ý theo dõi ông lão. Theo 
		dõi ông một lúc thì khám phá ra rằng mỗi ngày ông lão chỉ gánh nước nhặt 
		củi chứ không hề làm cơm, cả ngày ông ở ngoài đường và hiếm khi đặt chân 
		vào nhà bếp. Thế nhưng ngày nào đi làm về cơm nước cũng được nấu nướng 
		xong xuôi chỉnh tề. Người thợ nọ không nhẫn nại được nữa, bèn hỏi thẳng 
		ông lão:
	  – Ông bác ơi, sao mỗi ngày chỉ thấy ông bác đi gánh nước nhặt củi chứ 
		không thấy nấu cơm, vậy thì cơm canh này ai nấu vậy?
	  Ông lão bị hỏi bất ngờ chỉ ấp a ấp úng, không nói được câu nào. Người 
		thợ lại hỏi:
	  – Ông bác, ông nói thật đi, có sao nói vậy, ông đừng có giấu cháu. Ông 
		bác có phải là Bồ Tát không?
	  Ông lão bị đẩy vào chân tường nên không có cách nào hơn là nói thật:
	  – Tôi không phải là Bồ Tát! Ôi, thôi được, tôi nói thật cho chú nghe, 
		cơm này không phải tôi nấu, chú muốn biết ai nấu thì đi theo tôi. Nhưng 
		có điều tôi cho chú xem, nhưng bằng bất cứ giá nào chú cũng không được 
		kể lại cho người khác biết. Chú mà nói ra là chết tôi đấy!
	  Nói xong ông lão đưa người thợ len lén đến nhà bếp, từ khe cửa bên ngoài 
		nhìn vào trong.
	  Ôi, trong bếp khói bốc mịt mù, quả nhiên có một người đang bận rộn thổi 
		cơm. Ban đầu, khói dày quá nên không nhìn rõ được người đang thổi cơm, 
		một lúc sau khói tan bớt đi thì mới thấy đó là một cô gái rất xinh đẹp, 
		người quấn một cái váy thêu hoa lan, thái rau làm bếp vừa khéo léo vừa 
		nhanh nhẹn. 
	  Người thợ từ bên ngoài đờ người ra, anh ta phải kiễng chân để nhìn cho 
		rõ, quá kinh ngạc nên vô ý động phải cánh cửa khiến cánh cửa mở toang 
		ra. Cô gái thấy có người nhìn trộm bèn chui vào lò lửa đỏ rực mà biến 
		mất. Ông lão ngây người ra một lúc rồi than rằng:
	  – Ôi chao, chú nhìn trộm đủ rồi, can chi mà chú làm bật tung cánh cửa 
		vậy? Bây giờ khổ thân tôi rồi! Bồ Tát Quán Âm bắt tội tôi, tôi phải làm 
		sao đây?
	  Thì ra Bồ Tát Quán Âm biết chùa đang tu sửa xây cất mà thiếu người nấu 
		cơm, vấn đề trở nên nan giải, vì thế Ngài âm thầm đến để giúp đỡ. Ngài 
		bàn tính trước rất kỹ với thổ thần địa phương, chia việc ra minh bạch: 
		thần thổ địa thì gánh nước nhặt củi đồng thời giữ bí mật cho Ngài ở 
		trong nấu bếp. Nhưng vị này lại quá thích ba hoa nên đã để lộ bí mật.
	  Khi người thợ đi khuất rồi, Ngài Quán Âm mới từ lò lửa bước ra, trách 
		thần thổ địa rằng:
	  – Ông gánh nước thì lo gánh nước, ta đã dặn ông không được nói rùm beng 
		lên mà ông không nghe lời, còn đem người lạ đến nhìn trộm là nghĩa làm 
		sao?
	  Bồ Tát nói đến đây, bèn dùng cái phất trần đuổi muỗi quét một cái, quét 
		thần thổ địa bay ra xa tới hơn chục dặm, không cho ông được làm việc 
		chung với Ngài nữa.
	  Vì thế, chùa được trùng tu xong, ở núi Hoa Oanh, nguyên một vùng trong 
		vòng hơn mười dặm không có thần thổ địa!