Tương truyền đời vua Đường Tuyên Tông, có một vị tăng người Nhật tên là
Huệ Ngạc đến Trung Quốc. Thầy đã từng viếng thăm rất nhiều núi cao sông
rộng, đã từng lễ bái rất nhiều chùa cổ, chùa lớn.
Hôm ấy, phong trần dày dạn, thầy rảo bước lên núi Ngũ Đài, một trong
những thánh địa Phật giáo ở Trung Quốc. Cảnh Ngũ Đài Sơn rất đẹp, với
những tảng đá linh sừng sững, những cây tùng cổ chọc trời, những dòng
nước róc rách từ khe núi chảy ra, với trăm hoa đua nhau khoe sắc, hoặc
những mái chùa ẩn hiện sau lùm cây, núi thẳm. Thật là một phong cảnh
huyền bí, thanh tịnh.
Thầy Huệ Ngạc và phương trượng của Ngũ Đài Sơn cùng nhau tụng kinh, nói
Pháp, tham thiền, đánh cờ, hai người trở thành đôi bạn tri kỷ.
Một hôm, thầy Huệ Ngạc thấy được một bức tượng Bồ Tát Quán Âm ở hậu viện
của chính điện. Tượng khắc bằng gỗ đàn hương, thần thái an tường, mọi
chi tiết được khắc một cách cân xứng và tỉ mỉ, cho tới búi tóc, lông mi
cũng tinh vi sinh động như người sống.
Thầy Huệ Ngạc đứng trước tượng Bồ Tát Quán Âm, hết ngắm nghía đến tán
thán, say mê đến nỗi thầy phương trượng đến mời dùng cơm, thầy cũng
không nghe thấy.
Thầy phương trượng thấy thầy say mê như thế bèn hỏi:
– Pháp sư thấy tôn tượng Bồ Tát điêu khắc thế nào?
Thầy Huệ Ngạc không tiếc lời khen ngợi:
– Đẹp! Đẹp! Tôi đến từng tuổi này, lần thứ nhất mới thấy được một bức
tượng như thế! Điêu khắc tinh vi đến nỗi biểu hiện được thái độ an tường
của Đại Sĩ, thật là một đức Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát sống vậy!
Thầy phương trượng thấy thầy quá ưa thích nên cười tủm tỉm mà nói:
– Nếu Pháp sư ái mộ Ngài như thế thì tôi xin cúng dường pháp sư đem về
thờ đó!
Thầy Huệ Ngạc nghe thế vội vàng chắp tay lễ tạ. Thầy tiếp lấy bức tượng,
mừng quá không kềm chế được nên quyết định trở về Nhật Bản lập tức, xây
chùa thờ tượng của Ngài để cho người Nhật có cơ duyên đến lễ bái Bồ Tát.
Thầy Huệ Ngạc rời Ngũ Đài Sơn rồi còn đến Cửu Hoa Sơn, cuối cùng từ
Thiên Đài Sơn xuống tàu ở cửa biển Linh Giang, giương buồm về nước.
Hôm ấy, tàu đến hải phận Phổ Đà Sơn, bỗng nhiên có một ngọn gió lớn thổi
đến, thổi mạnh đến nỗi tàu nghiêng bên này, ngả bên kia rồi cuối cùng
xoay vòng vòng tại chỗ. Thầy Huệ Ngạc không còn cách nào hơn là cho tàu
tiến đến một thung lũng trong đảo Phổ Đà, hạ buồm thả neo, chờ sóng yên
gió lặng rồi mới tính chuyện đi tiếp.
Hôm sau, gió đã yên và sóng đã lặng. Thầy Huệ Ngạc lại cho giương buồm
nhổ neo. Nhưng tàu vừa mới rời khỏi thung lũng, mặt biển đột nhiên nhả
ra từng cuộn từng cuộn sương mù màu trắng xám. Sương mù bay lên mỗi lúc
mỗi cao, giống như một bức mành vải được treo ngay trước mặt tàu vậy,
ngăn không cho tàu đi tiếp.
Thầy Huệ Ngạc thấy chuyện kinh dị, đứng trên boong tàu ngước mặt lên
trời, thì trên đầu là một khoảng trời xanh biếc; nhìn trái nhìn phải,
thì hai bên bức mành sương mù là màu nước biển xanh trong. Thầy Huệ Ngạc
đành cho quay mũi tàu, đi vòng bức mành sương mù mà tiến tới phía trước.
Những hễ mũi tàu hướng về bên trái thì mành sương mù cũng bay về bên
trái; hễ quay về bên phải thì mành sương mù cũng phất phới bay về bên
phải. Con tàu cứ chuyển lui chuyển tới trên biển mà không tiến lên được,
cuối cùng phải quay về hải phận của Phổ Đà Sơn.
Thầy Huệ Ngạc không nghĩ ra cách nào khác nên lại đành một lần nữa cho
tàu đến thung lũng, hạ buồm thả neo, chờ sương tan rồi sẽ đi tiếp.
Qua sáng sớm thứ ba, mặt trời đỏ ửng từ đáy biển từ từ trồi lên, phóng
ngàn tia ánh ráng nhuộm sáng cả bốn phương trời. Thầy Huệ Ngạc ra đứng ở
khoang tàu ngước nhìn lên trời thì thấy giữa những áng mây ngũ sắc có
một toà lầu nguy nga lộng lẫy, cờ phướng sáng ngời, tiên nữ vây quanh,
phóng ánh sáng màu ngọc chói lòa cả mắt. Thầy rất hoan hỉ, chắp tay đảnh
lễ, rồi lập tức cho giương buồm, nhổ neo. Nhưng kỳ lạ thay, tàu vừa rời
khỏi thung lũng thì những cảnh vật kỳ diệu trên trời cũng đột nhiên biến
mất, mây đen che kín mặt trời, gió biển khơi dậy những ngọn sóng khổng
lồ.
Thầy Huệ Ngạc đâm ra lo lắng, nghĩ rằng mình đã trì hoãn ở đây hết mấy
ngày trời rồi, lần nào cũng kết thúc như vậy thì bao giờ mới có thể
thỉnh tượng Ngài Quán Âm về Nhật Bản đây? Thôi thì chút gió, chút sóng
có là gì đâu, cứ cho tàu chạy! Mau cho tàu chạy!
Thầy Huệ Ngạc yêu cầu đoàn thủy thủ lái tàu đi ngược gió, rẽ sóng hướng
về phía trước mà đi. Gió trở nên dữ dội hơn, sóng vọt cao hơn, nhưng
thầy Huệ Ngạc không hoảng không loạn, cứ điềm tĩnh đứng ở mũi tàu mà
chắp tay tụng kinh niệm Phật.
Tuy gió và sóng từ từ bình lặng trở lại, nhưng tàu chưa đi được bao xa
bỗng nhiên đứng lặng như thể mọc rễ rồi vậy. Thầy cúi đầu nhìn thì thấy
có từng đóa, từng đóa hoa sen sắt nổi lên, trong nháy mắt, cả mặt biển
Phổ Đà Sơn đều phủ kín hoa sen sắt, con tàu buồm bị bao vây và kềm chặt
ở giữa.
Thầy Huệ Ngạc quá sợ hãi, tâm nghĩ rằng cứ mỗi lần tàu chạy là đều bị
sóng gió ngăn chận, hôm nay lại có hoa sen sắt kềm chặt khóa tàu đứng
yên, không lẽ đó là vì Quán Âm Đại sĩ không chịu đi Nhật Bản chăng? Thầy
trở lại khoang tàu, quỳ trước tượng Bồ Tát Quán Âm khấn nguyện rằng:
– Nếu như chúng sinh ở Nhật Bản không có cơ duyên được chiêm ngưỡng
thánh nhan, đệ tử nguyện tuân lệnh Bồ Tát, Bồ Tát chỉ đâu đệ tử đi đó,
và xây chùa viện để thờ Bồ Tát ở nơi ấy.
Khấn chưa dứt lời đã nghe “lập cập, lập cập”, từ đáy biển nổi lên một
con trâu sắt. Trâu sắt một mặt bơi thẳng về phía trước, một mặt há miệng
thật to nuốt chửng những đóa hoa sen sắt. Chỉ một lúc sau, trên mặt biển
bỗng mở ra một con đường vừa đủ cho tàu chạy.
Thầy Huệ Ngạc cho tàu chạy theo con trâu sắt, và nương theo con đường
mới được mở ra ấy mà tiến. Không lâu sau, lại nghe “lập cập, lập cập”,
con trâu sắt chìm xuống đáy biển sâu, và những đóa sen mới đây còn tràn
đầy mặt biển cũng không còn nữa. Thầy Huệ Ngạc định thần nhìn kỹ, thì ra
con tàu đã trở lại thung lũng của Phổ Đà Sơn.
Mây đã tan, trời quang đãng, mặt trời đã treo cao trong hư không. Lúc ấy
có một người đánh cá họ Trương từ trên núi xuống, nói với thầy Huệ Ngạc
rằng:
– Tôi đã thấy hết những gì xảy ra mấy hôm nay, ngài đi không được đâu!
Thôi chi bằng thỉnh Pháp sư đến nhà tôi ở lại vài bữa rồi hãy đi!
Thầy Huệ Ngạc thấy vị này sốt sắng như thế thì nhận lời. Tay thầy ôm bức
tượng Bồ Tát Quán Âm, đi theo người đánh cá trèo lên núi Phổ Đà. Phóng
tầm mắt nhìn ra xa thì thấy một bãi cát vàng óng ánh, thủy triều lúc
dâng lúc lùi, những đỉnh núi cây cỏ xanh tươi vây quanh đảo, rồi xa hơn
nữa là mặt biển như một tấm gương sáng mang mang không biên giới.
Sáng thì thưởng thức mặt trời mọc, đêm thì lắng nghe tiếng thủy triều,
nếu so với Ngũ Đài Sơn thì đảo này có một nét đặc sắc khác hẳn. Thầy Huệ
Ngạc lại nghĩ, Bồ Tát Quán Âm đã không muốn sang Nhật thì mình ở lại đây
xây chùa, để Ngài Quán Âm định cư ở Phổ Đà Sơn vậy!
Người đánh cá họ Trương nghe tới chuyện xây chùa thì mừng rỡ vô cùng,
tình nguyện nhường căn nhà tranh của mình biến thành một ngôi miếu nhỏ.
Tạo miếu xong thầy Huệ Ngạc bèn đặt tượng lên thờ, và sáng tối lễ bái.
Từ đó, bức tượng Bồ Tát Quán Âm khắc bằng gỗ đàn hương đã lưu lại ở Phổ
Đà Sơn. Còn căn miếu nhỏ kia thì được mang tên “Bất Khẳng Khứ Quán Âm
Viện” (Viện Quán Âm không chịu đi).