Một hôm, Bồ Tát Quán Âm đến chân núi Cửu Hoa Sơn. Cửu Hoa Sơn ở trong
địa phận của tỉnh An Huy, sở dĩ mang tên Cửu Hoa Sơn là vì dãy núi này
có tổng cộng 9 đỉnh núi, và đỉnh nào cũng giống y như một đóa hoa sen.
Chín đỉnh núi đâm vào tận mây xanh, giống như chín đóa hoa sen xanh nở
rộ trong không trung. Ngài Quán Âm ngước lên nhìn thắng cảnh núi Cửu
Hoa, không khỏi lấy làm ưa thích.
Bồ Tát Quán Âm hóa thành một vị tăng hành cước, thong thả bước lên núi.
Mới cất bước, Ngài chợt nghe tiếng tụng kinh. Ngài đưa mắt nhìn thì thấy
trong một thung lũng có một vị tăng Tây Tạng đang ngồi kết già phu, đối
mặt vào tường mà tụng Bát Nhã Tâm Kinh một cách thành kính.
Nhìn thấy vị tăng Tây Tạng đang tụng Bát Nhã Tâm Kinh, Bồ Tát Quán Âm
cảm thấy tâm mình bị chấn động. Câu mở đầu của Bát Nhã Tâm Kinh là: “Lúc
Bồ Tát Quán Tự Tại thực hành Bát Nhã Ba La Mật Đa một cách thâm sâu,
quán chiếu thấy năm uẩn là Không, thoát khỏi tất cả mọi khổ ách.”
Quán Âm, Quán Âm, đó có nghĩa là quán sát âm thanh của tiếng kêu cầu mà
tìm đến cứu khổ. Vị tăng Tây Tạng này ngồi kiết già tụng Tâm Kinh trong
thung lũng, chắc hẳn phải có nguyên do gì đây. Ông tụng Tâm Kinh, hiển
nhiên là muốn cầu nguyện Bồ Tát Quán Âm độ cho thoát khỏi khổ ách. Ngài
Quán Âm nghĩ, hôm nay đến Cửu Hoa Sơn có lẽ là có chút nhân duyên với vị
tăng Tây Tạng này chăng, ta nên đến xem lai lịch của vị tăng Tây Tạng
này như thế nào ?
Ngài Quán Âm bèn thi triển chút thần thông để nhìn vào quá khứ của vị
tăng Tây Tạng.
Thì ra vị tăng này là hoàng tử của Tân Quốc ở Tây Tạng, tên là Cầu Na
Bạt Đà. Sinh ra sẵn có túc căn, từ nhỏ đã chán ghét mọi điều thế tục
vinh hoa, về sau còn dứt khoát lìa bỏ vương cung, trốn thành đi tu. Ngài
rất thông minh, trí huệ sâu sắc, căn cơ giác ngộ rất cao, nghiên cứu đến
chỗ thâm áo của kinh điển Phật giáo, công phu tu hành tinh chuyên, chẳng
bao lâu làu thông Tam tạng, thâm nhập Đại thừa. Ngài phát đại nguyện
hoằng dương Đại thừa Phật giáo ở Trung độ (Trung Hoa), nên vừa đi vừa
khất thực hướng về phía đông, vào đến nội địa Trung Quốc, giảng kinh Hoa
Nghiêm cho dân chúng ở Trung độ.
Nhưng vì ngài không biết nói tiếng Trung Hoa nên khi ngài tuyên giảng
kinh Hoa Nghiêm chả ai nghe hiểu ngài muốn nói gì cả, khiến cho ngài đau
lòng và xấu hổ, bèn trốn vào núi Cửu Hoa đối diện với vách tường tĩnh
tọa, hy vọng được Ngài Quán Âm giúp đỡ bằng cách đến chỉ giáo cho mình.
Vừa khéo đúng lúc ấy ngài Quán Âm đến Cửu Hoa Sơn và biết được chuyện
của ngài. Thấy Cầu Na Bạt Đà thành tâm và cương quyết như thế, Bồ Tát
Quán Âm càng thêm tán thán:
– Vị tăng Tây Tạng này thật có quyết tâm, nghị lực kiên cường, nếu ta
không đến giúp đỡ ông thì ai giúp ông bây giờ!
Ngài Quán Âm bèn ẩn thân đi, quyết định đến chỉ dẫn cho vị tăng Tây
Tạng.
Lúc trời vừa tối, Cầu Na Bạt Đà vẫn tiếp tục ngồi thiền nhập định như
mọi ngày. Bỗng nhiên, ngài thấy trên tường đá trước mặt hiện ra một vùng
ánh sáng, ánh sáng chói cả mắt. Một hồi lâu sau, trong vùng ánh sáng ấy
hiện ra một đóa hoa sen, và trên hoa sen ấy hiện lên Pháp tướng của Bồ
Tát Quán Âm, và ngay trên đầu Bồ Tát có một con ngựa báu xuất hiện.
Cầu Na Bạt Đà nhìn Pháp tướng của Bồ Tát Quán Âm, thấy Bồ Tát thật sự
đến bên mình, trong lòng vừa mừng rỡ vừa kinh ngạc vạn phần, vội vàng
chắp tay lễ bái, khấu đầu cảm tạ, đem tâm sự của mình ra bạch với Bồ Tát
và cầu xin Bồ Tát từ bi khai thị, chỉ dẫn cho mình phải làm sao. Bồ Tát
Quán Âm từ bi nhìn Cầu Na Bạt Đà nhưng không nói lời nào, khuôn mặt lộ
vẻ tươi cười, sau Ngài nhè nhẹ ngước lên, thì thấy trên đầu Ngài con
ngựa báu đang dậm bốn vó, rồi chạy trong không trung không ngừng. Pháp
tướng của Bồ Tát Quán Âm lập tức biến mất.
Cầu Na Bạt Đà nhìn ngựa báu hốt nhiên đại ngộ, nghĩ rằng Bồ Tát để cho
ngựa chạy không ngừng trong không trung phải chăng là để chỉ đạo cho ta
một cách rõ ràng, rằng muốn thông thạo tiếng Trung hoa, phải làm như con
ngựa báu tức là chạy không ngừng, chu du bốn phương và chuyên tâm học
hành? Phải rồi, ta phải lập tức lìa bỏ chốn thâm sơn này, đến đại địa
của Trung độ. Thế là, hôm sau Cầu Na Bạt Đà xuống núi.
Xuống núi rồi, ngài đi vân du ở khắp nơi, quan sát và học tập một cách
nghiêm chỉnh. Sau 9 năm bôn ba gian khổ, ngài đã thông thạo tiếng Hán,
nhờ thế ngài thực hiện được nguyện ước của mình nghĩa là tuyên giảng Đại
thừa Phật Pháp ở Trung độ một cách sâu rộng, mọi người đã có thể hiểu
lời của ngài để tin phục và lãnh hội, Phật Pháp đại thừa cuối cùng rồi
cũng được lưu hành ở Trung độ.
Sau 9 năm, Cầu Na Bạt Đà lên núi Cửu Hoa trở lại, tới chỗ mà năm nào
mình đã đối diện với vách đá tĩnh tọa và được Bồ Tát Quán Âm đến chỉ
đạo, xây lên một cái miếu Quán Âm nhỏ, trong đó khắc một pháp tượng của
Bồ Tát Quán Âm, pháp tượng này không khác gì những pháp tượng khác nhưng
chỉ có điều là ở trên đầu Ngài có một con ngựa báu, vì thế người sau gọi
hình tướng này là “Quán Âm nhiều đầu” hay là “Mã Đầu Minh Vương”, cũng
lại tôn xưng là giáo chủ của súc sinh.
Nhưng khi pháp tượng Ngài Quán Âm được khắc xong thì có một số tín đồ
địa phương cảm thấy thắc mắc, bảo rằng:
– Một bức tượng Bồ Tát Quán Âm đẹp như thế mà trên đầu lại có thêm một
con ngựa, đặt súc sinh lên trên đầu Bồ Tát có phải là tỏ ra bất kính với
Ngài không?
Thế là mọi người nhao nhao đến chất vấn ngài Cầu Na Bạt Đà.
Cầu Na Bạt Đà kể lại cho đại chúng nghe chuyện chín năm về trước, Ngài
Quán Âm đã hiển hóa lên con ngựa báu chạy trong không trung để chỉ đạo
cho mình, rồi nói tiếp:
– Chúng sinh chia làm sáu nẻo, phân làm sáu loài, tức là những con đường
thiên, nhân, a tu la, súc sinh, ngạ quỷ, và địa ngục. Bồ Tát Quán Thế Âm
đại từ đại bi, muốn cứu độ tất cả chúng sinh trong sáu nẻo nên mới hiện
ra sáu loại Pháp tướng:
– Đường địa ngục khổ nhất, nên Ngài hiện thân Quán Âm Thiên Thủ Thiên
Nhãn, tượng trưng cho Đại Bi tướng, truyền rằng đó là giáo chủ của địa
ngục;
– Loài súc sinh hùng mạnh hiểm ác, nên Ngài hiện thân Quán Âm Mã Đầu,
tượng trưng cho Sư Tử Vô Uý tướng, là giáo chủ của loài súc sinh;
– Đường A Tu La đa nghi và hiếu chiến, Ngài hiện thân Quán Âm thập nhất
diện (Quán Âm 11 mặt) tượng trưng cho Đại Quang Phổ chiếu tướng, là giáo
chủ loài A Tu La;
– Đường Nhân thì có thể nói theo sự hay lý, nhìn theo sự thì họ kiêu mạn
nên được gọi là Thiên Nhân, nhìn theo lý thì họ có Phật tính nên được
gọi là Trượng Phu, do đó Ngài hiện thân Chuẩn Đề Quán Âm, tượng trưng
cho Thiên Nhân Trượng Phu tướng, là giáo chủ của loài người;
– Đường Thiên có Đại Phạm Vương, nên Ngài hiện thân Như Ý Luân Quán Âm,
tượng trưng cho Đại Phạm Thâm Viễn tướng, giáo chủ các cõi trời.
Ngoài sáu tướng này, Bồ Tát Quán Âm còn có thể tùy cơ ứng hóa mà biến đủ
các loại hình tướng khác nhau. Quán Âm thập nhất diện có mười một mặt,
ba mặt ở giữa là mặt của Bồ Tát, ba mặt bên trái hung bạo giận dữ, ba
mặt bên phải giống như mặt Bồ Tát tuy từ bi hoà ái giống ba mặt trước,
nhưng có răng nanh trắng chĩa lên. Mặt sau là mặt “bạo nộ đại tiếu”, và
trên đỉnh là mặt Phật. Mỗi mặt có đội mũ báu, trên mũ báu có tượng A Di
Đà Phật. Ngài Quán Âm Chuẩn Đề thì có ba mặt và mười tám cánh tay. Lại
còn có Như Ý Đà Quán Âm, Lục Tý Kim Thân. Nói tới Thiên Thủ Thiên Nhãn
Quán Âm lại càng khó có thể nghĩ bàn hơn nữa, vì không gì có thể sánh
bằng.
Ngài giảng một cách sinh động cụ thể, nên người nghe ở dưới toà cứ thế
mà nhao nhao gật đầu đồng ý. Cầu Na Bạt Đà nói tiếp:
– Bần tăng phát nguyện từ nay trở đi sẽ đi quyên hóa để khắc tôn tượng
của sáu Pháp tướng Bồ Tát Quán Âm nói trên. Nếu quý vị phát tâm giúp đỡ
thì thật là công đức vô lượng.
Mọi người vội móc hầu bao giúp đỡ, và cuối cùng sáu tôn tượng Bồ Tát
Quán Âm được hoàn thành, người đời gọi là “Lục Quán Âm”.