Nếu như các người có thể thấy được sức mạnh của sự bố thí giống như ta,
các người sẽ không bao giờ để cho một bữa ăn nào trôi qua mà không đem
ra chia sẻ với người khác.
− Lời Phật dạy
Vài năm trước, có một thiền sư tu tập trong rừng ở Thái Lan sang viếng
thăm Hoa Kỳ. Chỉ sau một thời gian ngắn, ông đưa ra lời phê bình khá ngộ
nghĩnh: “Ở Á đông, phương pháp tu tập của chúng tôi theo truyền thống,
trước nhất là bố thí, sau đó là trì giới và cuối cùng mới đến thiền
định, trí tuệ. Nhưng ở Hoa Kỳ thì thứ tự dường như có hơi khác, trước
nhất là thiền tập, kế đến là giới luật, và một thời gian sau, như là phụ
trội thêm, mới học về bố thí. Tại sao vậy?”
Đức rộng lượng phải là điểm khởi đầu của con đường tu tập. Chính đức
Phật cũng đã dạy những đệ tử mới tu về dana, tức bố thí hay cúng dường,
một pháp môn rất mầu nhiệm. Pháp môn này đến nay vẫn còn tồn tại trong
giáo pháp của Phật. Thật ra, chúng ta ngày nay thường bị quyến rũ bởi
những trạng thái thiền định, sẵn sàng công phu tinh tấn để đạt được
những trạng thái này. Nhưng ta nên nhớ rằng, những trạng thái thiền định
ấy sở dĩ có được là nhờ ở sự tu tập về bố thí và giới luật. Chính những
cái mà ta cho là tầm thường và trần tục ấy lại chính là những yếu tố
thiết yếu giúp cho những tâm thức siêu việt kia được lớn mạnh.
Đức rộng lượng hay bố thí có một năng lượng rất lớn, nhờ ở tính chất
buông xả và từ bỏ của nó. Và những khả năng ấy - buông xả, từ bỏ, quảng
đại, ban cho, và không màng thế sự - chúng đều phát xuất từ một nơi
trong ta. Khi ta bố thí, là ta đang tiếp xúc với tất cả những đức tính
cao quý ấy cùng một lúc, và chúng sẽ mang ta đến sự giải thoát cao
thượng và niềm an lạc rất lớn.
Đức Phật dạy, không thể có một đời sống tâm linh chân thật nếu không có
một con tim rộng lượng. Dana, tức cúng dường, là ba-la-mật đầu tiên
trong mười ba-la-mật, paramis. Con đường tu tập phải được bắt đầu từ nơi
đây. Giáo pháp của đức Phật cũng đã khởi điểm từ nơi này. Khi ta bố thí,
điều đó sẽ mang lại cho ta một niềm hân hoan, một niềm vui không ngăn
ngại. Bố thí đem lại cho ta hạnh phúc trong từng giai đoạn của nó. Ta
cảm thấy hạnh phúc khi khởi ý muốn bố thí; ta cảm thấy hạnh phúc khi
thực hiện hành động bố thí; và ta cảm thấy hạnh phúc khi nhớ lại hành
động bố thí ấy.
Một lần, trong khóa tu ở Úc, trong một bài pháp thoại nói về sự bố thí,
tôi có chia sẻ về một quyết định cá nhân của mình. Tôi có một quyết tâm
rằng, mỗi khi trong tôi có một sự thúc đẩy cho ai một vật gì - thì cho
dù trăm ý nghĩ sau đó có là: “Không được! Không được đâu! Mình còn cần
cái đó lắm.” - tôi vẫn đem ra cho. Cho dù nỗi sợ hãi hay những tính toán
nào có khởi lên, tôi vẫn quyết tâm tôn trọng sự thôi thúc đầu tiên ấy.
Sau khóa tu, có một thiền sinh đến gặp tôi và nói, nghe tôi kể về quyết
định ấy, anh ta muốn cho tôi một số tiền nhỏ để tôi bố thí. Anh ta yêu
cầu, khi nào về đến Hoa Kỳ, đáp xuống phi trường ở California, tôi hãy
cho người đầu tiên mà tôi cảm thấy cần món tiền đó. Anh ta trao cho tôi
100 Mỹ kim, một số tiền cũng không phải là nhỏ!
Về đến Hoa Kỳ, đáp xuống phi trường San Francisco, ngày hôm sau tôi đi
dọc theo đường Telegraph Venue ở Berkeley, tìm người để cho món tiền ấy.
Tôi chia số tiền đó ra để có thể cho được nhiều người. Nhưng không phải
tôi chỉ cho có một Mỹ kim thôi, mỗi lần tôi cho từ 10 đến 20 Mỹ kim.
Ngày hôm ấy thật vô cùng kỳ diệu. Tôi đi trên đường phố tìm xem có ai
cần gì để bố thí. Một việc làm rất là khác thường, và nó đã đập vỡ hết
những bức tường ngăn cách giữa con người với nhau. Có người nhảy múa
mừng vui trên đường phía sau lưng tôi. Ngày ấy cũng đã đem lại cho tôi
một niềm vui to tát không kém. Thật vậy, bố thí là một hạnh phúc vô
biên.
Trong kinh cũng có nói về nhiều lợi lạc do sự bố thí mang lại. Trước
hết, khi ta rộng lượng, người khác sẽ thương mến ta. Điều ấy không có
nghĩa là ta bố thí để cầu danh. Đó chỉ là định luật tự nhiên của vũ trụ,
hễ ta cho đi, ta sẽ nhận lại. Khi bạn nghĩ đến một người có tâm hồn
quảng đại, rộng lượng, bạn cảm thấy như thế nào đối với người ấy, cho dù
họ chưa trực tiếp ban cho bạn một điều gì? Một người rộng lượng sẽ khơi
dậy được sự rộng lượng trong chính ta.
Đức Phật dạy rằng, một người rộng lượng khi đi vào bất cứ nơi đâu cũng
không sợ hãi. Một phần của niềm hạnh phúc do sự bố thí mang lại được
phát xuất từ tình thương của ta đối với chính mình. Khi ta càng bố thí,
những đức tính can đảm, tinh tấn và tuệ giác trong ta sẽ càng lớn mạnh.
Chúng sẽ bảo vệ ta trong mọi hoàn cảnh, dầu khó khăn đến đâu. Người
chung quanh lúc nào cũng muốn được gần gũi ta, và đức tin của họ đối với
ta cũng sẽ tăng trưởng.
Bố thí còn mang lại cho ta những lợi lạc lớn khác về tâm linh. Sự quý
báu của một hành động bố thí là không thể nghĩ bàn. Con đường tu tập lúc
nào cũng được diễn đạt và thực hiện bằng sự bố thí: từ, bi, hỷ xả; buông
bỏ tham, sân, si. Bố thí là một phương pháp tu tập rất hiệu quả. Vì thế
mà đức Phật dạy, nếu chúng ta thấy được sức mạnh của sự bố thí giống như
ngài, ta sẽ không bao giờ để cho một bữa ăn nào trôi qua mà không đem ra
chia sẻ với người khác.
Thật ra, chia sẻ thức ăn chỉ là một tỉ dụ cho tất cả những hành động bố
thí. Khi chúng ta chia sẻ thực phẩm với ai, không phải ta chỉ ban cho
người ấy một món ăn, mà ta còn cho họ nhiều hơn thế. Ta ban cho họ sức
lực, sự khỏe mạnh, cái đẹp, sự trong sáng và ngay cả sự sống. Vì tất cả
những cái đó không thể nào có mặt nếu ta thiếu thực phẩm. Vì vậy, khi ta
cho ai thức ăn, là ta đang trao tặng họ điều căn bản nhất của sự sống.
Đức Phật dạy, trong giây phút ta chia sẻ thức ăn với người khác là ta
đang bước một bước dài trên con đường tu tập. Trong giây phút ấy, bốn
trú xứ của hạnh phúc, bốn tâm vô lượng đồng thời có mặt. Ta có tâm từ và
tâm bi, vì ta thương người ta đang trao tặng, muốn cho họ được hạnh
phúc. Ta có tâm hỷ vì ta vui với niềm vui của người khác, muốn hạnh phúc
của họ được tăng trưởng và dài lâu hơn. Tâm xả cũng có mặt, vì trong
hành động ban cho ấy, ta muốn buông bỏ một cái gì mình đang có, ta sẵn
sàng chịu mất nó. Bốn tính chất nhiệm mầu - từ, bi, hỷ, xả - đồng thời
có mặt trong chỉ một hành động đơn giản ấy thôi.
Và trong giây phút bố thí ấy, chúng ta cũng đang trút bỏ được ba loại
phiền não gốc rễ (kilesa) của mình. Chúng ta sẽ buông bỏ được lòng tham
dục, sự nắm bắt. Chúng ta sẽ buông bỏ được lòng sân hận, một trạng thái
chia rẽ, xa cách, cảm thấy không nối liền với người khác. Và chúng ta
cũng buông bỏ được cả sự si mê, vì trong hành động bố thí ta có ý thức
sáng tỏ về việc mình đang làm, những sự chọn lựa và những giá trị trong
cuộc đời.
Một trong những sự si mê, sai lầm, to tát nhất của chúng ta là cho rằng
việc mình làm không thật sự có ảnh hưởng. Muốn trừ được sự si mê đó, ta
cần hiểu rõ hơn về luật nghiệp quả. Mặc dù bề ngoài có thể dường như
chẳng có một việc gì xảy ra hết, nhưng thật ra sự chọn lựa của ta qua
những hành động thiện lành sẽ đưa ta đến nơi mình muốn. Khi ta có những
hành động rộng lượng, cuộc đời này chắc chắn sẽ thay đổi và việc ấy rất
là hiển nhiên.
Khi đức Phật dạy ta quán tưởng về những điều tốt đẹp của mình, ngài
thường nhắc việc nghĩ đến niềm vui của những hành động bố thí. Hồi tưởng
lại những lỗi lầm, những lời nói vụng dại của ta, bao giờ cũng là quá
dễ. Trong một bài thực tập trước đây, tôi có yêu cầu bạn nhớ lại những
việc bố thí mình đã làm, và bảo bạn nên tự tán thưởng mình về những hành
động ấy. Bạn có cảm thấy việc ấy hơi khó làm không? Đa số chúng ta có
thể cảm thấy xấu hổ khi thực tập bài này!
Nhưng thái độ vui sướng trước hành động bố thí sẽ giúp ta rất nhiều trên
con đường tu tập. Ta nhớ lại những cử chỉ rộng lượng của mình không phải
vì tự mãn hoặc tự phụ. Nhưng là vì, trong cuộc sống có vô vàn những cơ
hội và sự chọn lựa khác nhau, ta vẫn quan tâm đến mình và người khác đủ
để chọn những hành động tốt lành cho tất cả. Ta cho đi thay vì giữ lại.
Ta ban phát thay vì tích trữ. Ta buông bỏ thay vì nắm bắt. Vui sướng với
những sự chọn lựa ấy tức là vui sướng với sự tốt lành trong ta.
Ở Miến Điện, khi tham dự một khóa tu trong các thiền viện, chúng ta
không phải trả một xu nào. Tất cả lệ phí đều được đóng góp bởi sự cúng
dường của dân địa phương. Thức ăn được họ dâng cúng mỗi ngày. Cũng theo
tinh thần này, tôi có lệ cúng dường một bữa ăn cho tất cả thiền sinh
trong tu viện, mỗi khi tôi có dịp đến viếng thăm và tu tập. Nhưng điều
này cũng có chút vấn đề. Tên của người cúng dường được viết trên một tấm
bảng đen lớn đặt ngay trước cửa phòng ăn. Ai đi ngang qua cũng nhìn
thấy. Và mỗi khi đến phiên tôi cúng dường, tôi phải đi ngang qua tấm
bảng lớn có ghi tên mình trước khi vào phòng ăn. Ý nghĩ đầu tiên của tôi
mỗi khi thấy nó là: “Ước gì ngày hôm nay qua mau. Phải chi bây giờ là
ngày mai. Tên mình sẽ nằm trên đó cả ngày. Mình cảm thấy kỳ cục và khó
chịu quá. Phải chi đừng ai biết gì hết.”
Người Miến Điện loan báo tên người cúng dường thức ăn không phải để tăng
lòng tự phụ. Nhưng vì bố thí là một hành động cao thượng, và họ muốn mọi
người được cảm thấy hạnh phúc và phấn khởi vì việc làm ấy. Nghĩ nhớ đến
những hành động bố thí có thể mang lại niềm vui lớn trong tâm ta. Nếu
chúng ta, nhất là người Tây phương, có thể vượt qua được những mặc cảm
tự ti của mình, chắc chắn ta sẽ tiếp nhận được hạnh phúc kỳ diệu ấy.
Mục đích của sự bố thí có hai phần: để giải thoát người khác và để giải
thoát chính ta. Thiếu một trong hai điều ấy, sự bố thí sẽ không thể nào
trọn vẹn được. Nếu chúng ta cho ai một vật gì, không quyến luyến, không
thắc mắc, không đòi hỏi, thì người cho và người nhận, cả hai đều đạt
được sự tự do. Trong giây phút ấy, chúng ta không bị mắc kẹt vào vai trò
của mình. Không có giai cấp, không có sự cách biệt giữa ta và người
khác. Chúng ta không bao giờ nghĩ: “Người này giàu có, đầy đủ hơn mình,
có cho họ thì cũng có ích lợi gì đâu? Vả lại, biết họ có thích mình
không, hay là ta chỉ làm trò cười cho họ mà thôi!” Trong giây phút ban
cho đơn thuần ấy, người cho, người nhận và đồ vật trao tặng, tất cả đều
trở thành một.
Khi không còn những sự ngăn cách và phân biệt nữa, ta sẽ nhớ rằng, tất
cả chúng ta đều có chung một mong ước mà thôi, đó là được hạnh phúc. Và
qua hành động bố thí ta sẽ thể hiện được niềm mong ước chung ấy. Tôi có
kinh nghiệm này trong một khóa tu thiền quán nhiều ngày trong thinh lặng
tại trung tâm Insight Meditation Society. Vì tôi là một thành viên sáng
lập của trung tâm, nên tôi biết hết tất cả nhân viên, và quen rất nhiều
bạn trong cộng đồng tu học. Và vì vậy, tôi thường được những người không
tham dự khóa tu tặng cho những món bánh kẹo nho nhỏ. Mỗi ngày trở về
phòng, tôi lại bắt gặp những món đồ mang tặng không biết từ ai, để ngoài
cửa. Môi trường trong một khóa tu đôi khi cũng khá khắc khổ, thế nên
việc nhận được những món bánh kẹo nho nhỏ như vậy rất có ý nghĩa, khác
với bình thường khi tất cả đều đầy đủ.
Khi thấy mình có đủ mọi thứ quà bánh, trong khi những thiền sinh khác
trong khóa tu không được gì cả, vì không quen biết ai, tôi cảm thấy hơi
có lỗi. Họ không được thêm những thứ phụ trội đặc biệt như tôi. Thế nên,
tôi bắt đầu phân phát cho tất cả mọi người. Tôi để ý đến một người, tôi
biết rằng chị ta có lẽ nhìn thấy những món đồ trước cửa phòng tôi mỗi
ngày. Và tôi đặt một món quà trước cửa phòng của chị.
Nhưng rồi cũng chính trong ngày hôm ấy, chị bắt đầu nhận được những gói
bánh trái từ nhà gửi đến, và chị lại mang đến chia sẻ với tôi. Tôi càng
được nhiều quà hơn và lại càng phải đem ra biếu nhiều hơn. Một nguồn
suối sung túc đột nhiên phát hiện giữa một môi trường vật chất khắc khổ.
Trong thời gian đầy sự chia sẻ ấy, khi con tim của chúng tôi rộng mở nhờ
sự thực tập trong khóa tu, tất cả cảm thấy như là một. Không cần biết
những đồ vật ấy đến từ đâu hoặc chúng gồm có những gì, chúng tôi chỉ cảm
thấy mỗi một điều cần thiết là thương nhau và biết lo cho nhau mà thôi.
Càng thực tập bố thí, ta sẽ càng làm cho tâm bố thí mỗi ngày một thêm
lớn mạnh. Bên ngoài, nó sẽ đem lại tự do cho người chung quanh, và bên
trong nó sẽ giải thoát ta. Những hành động rộng lượng của ta bên ngoài,
phản ảnh được một con tim buông xả và quảng đại bên trong. Buông xả - sự
từ bỏ - cũng có cùng một trạng thái tâm thức với sự rộng lượng. Và vì
vậy, hành động bố thí có một ảnh hưởng trực tiếp đến công phu thiền định
của ta, và ngược lại cũng thế. Tính rộng lượng là nền tảng giúp cho công
phu thiền tập của ta được thăng tiến. Sự vững vàng và rộng lớn của hạnh
phúc ấy giúp ta có thể đối diện với bất cứ việc gì khởi lên trong tâm
khi ngồi thiền, và buông bỏ nó dễ dàng.
Buồn thay, nền văn hóa của chúng ta ngày nay không chú trọng gì đến sự
bố thí! Ngược lại, nó còn khuyến khích ta nên thu thập, tranh giành và
tích trữ nhiều hơn. Một người bạn tâm sự với tôi rằng, từ ngày chị bắt
đầu biết nói cho đến giờ, những câu mà chị sử dụng nhiều nhất là: “Tôi
cần nó! Tôi muốn nó! Tôi phải có nó mới được!” Từ thuở nhỏ, lúc nào chị
cũng kèo nài, đòi hỏi ba má chị, hết chuyện này đến chuyện khác. Mà thật
sự chúng ta là như vậy đó. Ta nắm bắt, ta bám víu, ta uốn nắn sự vật
theo ý mình muốn. Và ta vất vả cố gắng giữ cho chúng được như vậy mãi.
Tình trạng của tất cả chúng ta là như thế đó!
Vũ trụ quan Phật giáo có nói đến một cõi gọi là ngạ quỷ, tức loài ma
đói. Những chúng sinh trong cảnh giới này có những cái bụng thật to
nhưng cổ họng của họ chỉ nhỏ bằng cây kim, vì vậy họ lúc nào cũng đói
khát. Một lần, có người hỏi thầy Nhất Hạnh về cuộc sống ở cõi ngạ quỷ
giống như thế nào, thầy trả lời vỏn vẹn có một chữ: “Hoa Kỳ!” Đó là thế
giới Tây phương sung túc của chúng ta, không biết gì đến sự nhường nhịn,
chia sẻ và buông bỏ.
Thế giới này của chúng ta còn được gọi là samsara, cõi sinh tử luân hồi.
Đây chính là cuộc sống của ta. Một tính chất rất đặc biệt của cõi
samsara này là không cần biết ta đã có được bao nhiêu, đầy đủ bao nhiêu,
ta lúc nào cũng nghĩ rằng đâu đó ngoài kia vẫn có cái khác nhiều hơn. Sự
bất toại nguyện thì vô cùng tận, vì trong thế giới đổi thay này, những
sự việc đến và đi không bao giờ ngừng nghỉ, mà sự thèm khát và so sánh
của ta thì không thể nghĩ bàn được.
Có lần, tôi nói chuyện với một người bạn trên điện thoại. Anh ta đang
sửa soạn cho chuyến đi Ấn Độ ngày hôm sau. Người đi chung với anh đã lo
việc mua vé máy bay, nhưng anh ấy không biết rằng chỉ cần trả thêm một
số tiền nhỏ thôi, cả hai đã có thể mua được vé cho ghế hạng nhì sang
hơn, chỗ ngồi thoải mái hơn. Trên một chuyến bay dài, chỗ ngồi rất quan
trọng. Vì thế, tôi và anh bạn bàn với nhau xem có nên đổi vé không, làm
như vậy có phải trả thêm nhiều tiền không? Ngồi ghế hạng nhì thì rộng
rãi hơn, đến nơi khỏe khoắn hơn, thay vì mệt mỏi có thể làm ta không
vui. Trong khi nói chuyện, người bạn tôi thốt lên: “Không biết nếu mình
mua vé hạng nhất thì sẽ tốn bao nhiêu nhỉ?” Vâng, tôi hiểu trạng thái
tâm thức ấy quá rành. Vừa mới tính chuyện lên ghế hạng nhì chưa xong, ta
đã bắt đầu nghĩ đến chuyện lên ghế hạng nhất! Chúng ta là như thế đó.
Vòng sinh tử luân hồi là vậy. Lúc nào cũng có một cái gì khác để ta
muốn.
Năng lực tối thượng của sự cúng dường, dana, là giúp ta giải thoát được
sự ràng buộc của những sợi dây xiềng xích tham, sân và si. Chúng trói
buộc và giới hạn sự sống của ta. Nếu trong giờ phút này bạn vẫn còn đi
tìm một người nào, hoặc một vật nào, hy vọng nó có thể làm cho bạn cảm
thấy trọn vẹn hơn, là bạn đã quên đi sự thật rằng mình đang đầy đủ và
toàn vẹn trong mỗi giây, mỗi phút. Nắm giữ cõi luân hồi này cũng giống
như là ta đang bắt giữ một ảo ảnh. Nó không thể nào chống đỡ và duy trì
được ta, vì nó không có thật! Thực tập bố thí để ta có thể giải thoát ra
khỏi ảo ảnh đó, và tiếp xúc được với một hạnh phúc trường cửu hơn.
Sự bố thí mang lại cho ta rất nhiều lợi lạc. Nó tập cho con tim ta biết
buông thả. Cũng giống như trọn một đời, bàn tay ta đã nắm chặt lại quá
lâu, giờ đây nó đang từ từ mở ra. Càng mở ra bao nhiêu ta lại càng cảm
thấy thư thái và an lạc bấy nhiêu. Cuộc sống này sẽ trở nên rộng lớn vô
biên khi ta biết buông xả. Ta có thể từ bỏ và không chút sợ hãi. Mà thật
ra trên cuộc đời này, muốn có được hạnh phúc, ta không cần phải nắm giữ
bất cứ một điều gì hết.
Nhưng cảm nhận rộng lớn ấy không phải chỉ là chuyện lý thuyết mà thôi.
Chúng ta có thể thật sự nhìn nó phát triển và lớn mạnh khi ta thực tập
bố thí. Mỗi khi chúng ta đi đến mức giới hạn của sự bố thí, vì sự dính
mắc của mình, ta có thể nhìn những biên giới ấy từ từ tan rã. Có thể ban
đầu ta nghĩ rằng: “Tôi chỉ có thể cho bấy nhiêu đây thôi, không thể nào
làm hơn được nữa” hoặc là “Tôi sẵn sàng cho, nếu như tôi được người khác
biết tới và cảm ơn.” Nhưng khi chúng ta tiến đến những mức hạn định này
rồi, ta sẽ nhìn xuyên qua được chúng, và ý thức rằng chúng không có
thật. Những giới hạn ấy không phải là một thực thể, chúng không có khả
năng giam giữ ta lại. Và ta sẽ bước được ra ngoài. Trong sự thực tập, ta
lại tiếp tục tiến xa hơn, nới rộng con tim bao la và rộng mở của mình
hơn nữa.
Sự khác biệt giữa một tâm thức rộng lớn và một tâm thức nhỏ nhoi rất rõ
ràng. Ví dụ, một hôm bạn bị trặc chân. Bây giờ, bỗng nhiên bạn phải đối
diện với cái đau và khó khăn của một phế tật tạm thời. Có thể bạn phải
chống nạng hoặc bị bó chân. Nếu như bạn có một tâm thức nhỏ nhoi và giới
hạn, bạn sẽ đáp ứng với tình trạng này như thế nào? “Trời ơi, bị trặc
chân rồi! Bây giờ thì còn đi đâu chơi được nữa. Nghĩ chán thật! Chẳng có
ai bị hết, ngoài mình thôi. Cũng cái tánh vụng về không cẩn thận nên mới
ra nông nỗi này. Chưa chắc là nó sẽ có thể lành hẳn đâu. Có thể là bị
như thế này suốt đời chứ chẳng chơi!” Với một tâm ý nhỏ hẹp, ta khó có
thể nào chấp nhận được những khó khăn của mình mà không than phiền.
Ngược lại, với một tâm thức rộng mở, khi có một kinh nghiệm khó khăn nào
khởi lên, ta không bao giờ nghĩ rằng nó sẽ làm cho ta mất mát hoặc thấp
hèn đi. Chúng ta không than van vì ta không hề sợ hãi kinh nghiệm ấy. Ta
cũng không cần phải đón nó bằng một con tim khép kín.
Và cũng với sự rộng mở ấy, khi có một kinh nghiệm vui sướng nào khởi
lên, ta cũng không cần phải hối hả nhào tới để bắt giữ nó. Vì ta biết
rằng, mình không cần phải có nó mới được hạnh phúc. Chúng ta có thể nói:
“Đây là một nhóm người rất hay và tốt mà mình có dịp gặp và tham dự.
Tuyệt vô cùng.” Nhưng khi nó qua, ta sẵn sàng để cho nó qua, không luyến
tiếc, vì trong ta lúc nào cũng cảm thấy toàn vẹn và hạnh phúc. Ta biết
rằng mình bao giờ cũng được đầy đủ!
Có biết bao nhiêu cách thức bố thí khác nhau. Chúng ta có thể ban cho
người khác tài vật. Chúng ta có thể ban cho người khác thời giờ và sự
phục vụ. Ngay cả khi ta không đòi hỏi người khác phải thay đổi theo ý
mình, đó cũng là một hình thức bố thí. Trong một ngày, ta có biết bao
nhiêu cơ hội để bố thí. Một người nào cắt ngang trước mặt bạn giành một
chỗ đậu xe. Bạn có vui vẻ bỏ qua được không? Nếu làm được việc ấy là đã
hiểu ý nghĩa của sự rộng lượng. Chúng ta đâu cần phải giành giật với
người khác làm gì. Chúng ta có thể chọn con đường buông xả và quảng đại
đối với nhau.
Một đồng minh của sự rộng lượng là cảm giác sung túc và giàu có - lúc
nào ta cũng cảm thấy mình dư thừa để chia sẻ với tất cả. Bạn nên nhớ,
cảm giác này không được đặt trên một tiêu chuẩn nào hết. Có những người
rất giàu nhưng họ lại cảm thấy nghèo túng bên trong. Lúc nào họ cũng giữ
thật chặt những gì họ có, và không thể đem ra cho ai bất cứ vật gì, mặc
dù bên ngoài họ rất sung túc. Và cũng có những người đời sống kinh tế
khó khăn nhưng rất rộng lượng, mặc dù bên ngoài dường như họ không có gì
để cho. Nhưng họ không nghĩ như vậy. Họ vẫn cho những gì họ có thể cho
được. Nếu bạn có dịp thăm viếng những quốc gia còn đang phát triển, bạn
sẽ thấy được điều này. Chắc chắn bạn sẽ nhận được những món quà tặng từ
những người nghèo khó hơn bạn. Thật ra, không cần biết theo tiêu chuẩn
của xã hội thì bạn giàu hay nghèo đến đâu, nếu như bạn biết đủ, bao giờ
bạn cũng có thể chia sẻ được. Và ta có thể mở rộng con tim mình ra, biểu
hiện tâm từ, bằng cách ấy.
Làm cách nào để ta phát triển được cảm giác đầy đủ và sung túc ấy trong
tâm? Trong những năm tu tập, lúc nào tôi cũng dùng câu hỏi này như là
một nguyên tắc hướng dẫn: “Trong giây phút này tôi thật sự cần gì để có
hạnh phúc?” Ở Miến Điện, có những cá nhân và gia đình đã phải lặn lội từ
những nơi rất xa đến các tu viện để cúng dường thức ăn. Trong một nền
văn hóa chú trọng đến sự bố thí, những việc cúng dường như vậy được xem
là một đặc ân rất lớn. Đó là cơ hội để họ được làm phước, bày tỏ sự biết
ơn đối với giáo pháp của Phật, và tỏ lòng tôn kính những người đang thể
hiện giáo pháp ấy qua sự tu tập của họ.
Những người này, tôi biết chắc, họ đã cúng dường những món quý giá nhất
của họ. Trong nhiều trường hợp, có khi những món ăn ấy còn sang trọng
hơn những gì họ có trên bàn mỗi ngày. Các bữa ăn trong tu viện được cúng
dường bởi đủ mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội. Có khi bước vào nhà
ăn, tôi thấy những cỗ ăn thơm ngon thật hậu hĩ, đủ mọi thứ cao lương mỹ
vị của Miến Điện. Và có khi đó chỉ là vài cọng rau đắng trôi lềnh bềnh
trong một tô canh đầy dầu mỡ.
Tại Miến Điện, trong những khóa tu chúng tôi phải giữ Bát quan trai
giới, trong đó có một giới không cho phép ăn sau 12 giờ trưa (giờ ngọ).
Bữa điểm tâm bắt đầu vào năm giờ sáng, và bữa ăn trưa được dọn lên vào
lúc 10 giờ. Điều ấy có nghĩa là mọi sự ăn uống chánh thức chấm dứt vào
khoảng mười giờ rưỡi sáng, và chúng tôi không được ăn gì cho đến 5 giờ
sáng ngày hôm sau. Trong hoàn cảnh đó, bữa ăn trưa đối với chúng tôi rất
quan trọng! Nhưng cũng chính trong hoàn cảnh này mà tôi ý thức được giá
trị của sự cúng dường.
Trong nhà ăn ở một tu viện tôi đến tu tập có treo bức hình đức Phật.
Theo thông lệ, chúng tôi lạy ba lạy trước khi đi vào nhà ăn. Mỗi khi vào
ăn trưa, nhìn lên hình đức Phật và đảnh lễ ngài, tôi thường cảm thấy một
niềm vui và sự biết ơn dâng tràn. Có lúc sau khi lễ Phật, tôi đứng nhìn
xuống bàn ăn xem hôm nay có bày những thứ thức ăn gì, và thấy rằng không
có món nào mình có thể ăn được cả. Tôi cảm thấy sợ hãi, lo lắng cực độ
trước viễn tượng của 19 giờ đồng hồ nhịn đói!
Nhưng rồi tôi nhìn lên gương mặt của những người đến cúng dường cho bữa
ăn hôm ấy. Họ thường muốn đến để xem các thiền sinh dùng những thức ăn
của họ. Gương mặt họ sáng rỡ vì hân hoan. Rõ ràng là họ rất sung sướng
vì đã có cơ hội đóng góp một chút gì đến cho những người đang đi tìm
chân lý, đang tu tập để thanh lọc thân tâm.
Chưa đầy một phút, tôi đi từ một niềm hân hoan khi nhìn lên đức Phật,
đến nỗi sợ hãi, lo lắng khi nhìn đến thức ăn, và rồi nhìn sang gương mặt
rạng rỡ của những người cúng dường. Trong giây phút ấy, khi tôi cảm nhận
được sự thành tâm cúng dường và biết ơn của họ, tôi đã tự hỏi: “Trong
giây phút này tôi thật sự cần gì để có hạnh phúc?” Câu hỏi ấy giúp tôi
thức tỉnh và ý thức được rằng, tôi đang được nuôi dưỡng bằng niềm vui và
hạnh phúc của họ, hơn là những món ăn mà họ mang đến. Thật vậy, niềm vui
phát xuất từ một con tim chân thành mới quan trọng hơn, và bổ dưỡng hơn.
“Trong giây phút này tôi thật sự cần gì để có hạnh phúc?” Thế giới này
chắc chắn sẽ đem lại cho bạn biết bao nhiêu câu trả lời. Có thể bạn cần
một cái này mới, hoặc một cái kia khác hơn. Nhưng thật ra trong giờ phút
này bạn đang thiếu thốn cái gì? Bạn có thật sự cần phải thay đổi một
điều gì không? Tiến trình của sự tu tập là để ta chuyển hóa việc ấy,
giúp ta thoát ra khỏi sự đeo đuổi và khao khát vô tận ấy. Nếu chúng ta
can đảm thách thức chúng, thoát ra khỏi sự kìm kẹp của chúng, ta sẽ khám
phá được một thứ hạnh phúc hoàn toàn mới. Ta hiểu rằng, chỉ có chân lý
mới mang lại cho ta hạnh phúc mà thôi. Và chân lý ấy bao giờ cũng đang
có mặt trong giây phút này, khi ta thấy được sự vật đúng thật như chúng
đang hiện hữu, khi ta biết buông bỏ mỗi khi chúng đến rồi đi, khi ta
biết rằng chúng sẽ sinh lên và diệt đi, không bao giờ ngừng nghỉ.
Gương mặt rạng rỡ của sự cúng dường là một trong những biểu hiện của sự
tốt lành trong ta. Hãy sung sướng với điều ấy. Sự mong cầu được hạnh
phúc có rất nhiều lợi lạc và thiện xảo, vì nó thúc đẩy ta làm việc tốt.
Bạn hãy sung sướng đi, vì ta có khả năng chọn lựa những điều thiện, biết
vun trồng những việc tốt, và buông bỏ những gì gây hại, hoặc mang lại
khổ đau. Niềm vui ấy sẽ đem lại cho ta sự tự tin và hạnh phúc cần thiết
trên đường tu tập, giúp ta cởi mở và phát triển những việc thiện, tuy
vẫn còn mới lạ và chưa quen thuộc với ta.
Bạn nên nhớ rằng, trong chúng ta không có ai làm được những việc này một
cách hoàn toàn cả! Bởi thế ta mới gọi là “thực tập”. Chúng ta tập rộng
lượng với người khác, và ta tập rộng lượng với chính ta, hết lần này đến
lần khác. Ta tiếp tục thực tập cho đến một ngày những điều đó sẽ trôi
chảy như một dòng thác lớn, cho đến ngày những điều đó trở thành tự
nhiên như con người thật của chính ta.