Cuối đời Đường, đầu nhà Tống, chuyện Bồ Tát Quán Âm giúp đỡ một người 
		hiền lương thoát khỏi bàn tay gian ác hãm hại được lưu truyền rộng rãi 
		trong khắp khu vực thành Cô Tô.
	  Người hiền lương nói trên tên là Yêu Nhất Phong, chủ một cửa tiệm tạp 
		hóa. Đó là một người thành thật, lương thiện, tốt bụng, đối với người 
		khác thì vui vẻ tử tế, không bao giờ so bì tị nạnh, không tranh giành 
		hơn thua. Vì thế người ta thường gọi ông là “người hiền”.
	  Ông thâm tín Phật giáo, trong nhà hay ngoài tiệm đều có thờ Bồ Tát Quán 
		Âm, mỗi ngày sớm chiều thành tâm lễ bái, rảnh thì ngồi trước bàn thờ 
		tụng kinh niệm Phật, không ngày nào giải đãi.
	  Tuy Yêu Nhất Phong là người tốt nhưng có một bà vợ đẹp thì lại rất dâm 
		đãng. Bà thừa lúc chồng phải đi xa buôn hàng để thông gian với một tên 
		vô lại ở ngay bên cạnh nhà tên là Khang Thất. Những chuyện tình cảm lăng 
		nhăng như vậy thường không qua mắt được ai, vì thế người ngoài ai cũng 
		biết, chỉ trừ có Yêu Nhất Phong thật thà khờ khạo là trước sau không hề 
		hay biết gì cả.
	  Mọi người ai cũng than thở và bất bình giùm ông. Họ nói rằng: “Ai cũng 
		nói là thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, mà sao người tốt bụng này, đã 
		không có quả báo thiện thì thôi, đằng này còn phải chịu ác báo? Huống 
		chi ông lại là người tin Phật, không lẽ Bồ Tát không linh ứng hay sao?”
	  Không phải là Bồ Tát không linh ứng, vì đúng lúc đó Bồ Tát Quán Âm vừa 
		vặn đến Cô Tô. Không những Ngài biết hết chuyện nhà của Yêu Nhất Phong, 
		mà còn biết sau này Yêu Nhất Phong phải chịu nhiều tai ách.
	  Hôm ấy, Yêu Nhất Phong lại đi ra khỏi tỉnh để buôn hàng, ban đêm bỗng 
		nhiên nằm mộng thấy Bồ Tát Quán Âm xuất hiện trong nhà của mình. Tay 
		Ngài cầm ngọc Như Ý, trên đỉnh đầu lại có một con rồng xanh. Ngài đặt 
		viên ngọc Như Ý lên đỉnh đầu Yêu Nhất Phong và nói:
	  – Yêu Nhất Phong, nghe ta nói đây, không lâu nữa ông sẽ gặp đại họa. Ta 
		thấy ông là người chân thành tin Phật, không nhẫn tâm để cho ông bị tai 
		nạn nên tới đây cứu ông. Ta dạy cho ông bốn câu kệ, ông hãy nhớ cho kỹ:
	  Gặp cầu chớ dừng tàu,
	  Gặp dầu trét lên đầu.
	  Đấu thóc ba thăng gạo,
	  Ruồi xanh bu bút đầu.
	  Bằng bất cứ giá nào ông cũng không được quên bốn câu kệ này.
	  Quán Âm nói xong liền ẩn mất. Yêu Nhất Phong giật mình thức giấc, những 
		gì xảy ra trong mộng còn rành rành trước mắt. Nghĩ tới sự Bồ Tát ứng 
		mộng để cứu mình, Nhất Phong vừa mừng rỡ vừa kinh sợ, biết rằng điều Bồ 
		Tát nói tất nhiên không thể sai, ông vội quỳ xuống đất nhìn lên không 
		trung khấu đầu lễ lạy. Rồi tuân lời dặn dò của Bồ Tát, ông nhẩm đi nhẩm 
		lại bốn câu kệ cho tới thuộc lòng như cháo, ghi khắc trong đầu không làm 
		sao quên được.
	  Hôm sau ông đáp tàu ra đi, mới khởi hành thì sóng yên gió thuận, tiết 
		trời quang đãng. Nhưng đến khoảng chừng nửa ngày đường thì đột nhiên mây 
		đen giăng mịt, sấm chớp ngang trời, mưa như trút nước. Cũng vừa đúng lúc 
		ấy, tàu hướng tới một cái cầu trước mặt. Người phu lái tàu sợ ướt, nghĩ 
		rằng gặp cái cầu này thật đúng lúc, tốt nhất là dừng tàu ở dưới cầu để 
		trốn mưa nên tính gác mái chèo đậu lại ngay ở đấy. Còn Nhất Phong thì 
		lúc nào cũng nghĩ tới bốn câu kệ của Bồ Tát dạy, tuy không mấy gì hiểu 
		nghĩa, nay thấy tàu muốn dừng lại dưới một cái cầu thì câu “gặp cầu chớ 
		dừng tàu” chợt loé lên trong óc khiến ông lập tức nhận ra, vội lớn tiếng 
		la người phu lái tàu:
	  – Không thể dừng lại ở đây, mau chèo tiếp!
	  Tuy ông không hiểu rõ tại sau gặp cầu lại không được dừng tàu, nhưng ông 
		nghĩ cứ làm đúng theo lời Bồ Tát dạy thì không thể sai lầm. Ông không 
		cần biết người phu lái chịu hay không chịu, cứ bắt buộc ông ta phải chèo 
		tiếp để ra khỏi gầm cầu.
	  Khi tàu rời khỏi gầm cầu không tới một tầm tên bắn thì một tiếng “rầm” 
		long trời lở đất đập vào tai họ chát chúa, những ngọn sóng tung toé lên 
		tới trời, người phu lái tàu cùng Yêu Nhất Phong quay đầu lại nhìn thì 
		thấy cái cầu mình mới đi ngang đã sập xuống quá nửa. Nếu tàu ngừng lại 
		tránh mưa ở dưới ấy thì có lẽ giờ này đã bị đập nát!
	  Người phu tàu líu lưỡi lại vì sợ hãi:
	  – Ghê quá! Ghê quá! Nếu không có ông hối phải chèo tiếp thì giờ này chết 
		toi rồi! Ông Phong ơi, ông có phải là thần tiên không mà biết trước vậy?
	  Yêu Nhất Phong bèn kể lại chuyện Bồ Tát ứng mộng cho phu lái tàu biết. 
		Người này cũng cảm tạ ơn đức của Bồ Tát, nên từ đấy cũng trở thành một 
		Phật tử thuần thành.
	  Yêu Nhất Phong đến thị trấn nọ, buôn xong hàng hóa rồi lên đường trở về. 
		Mỗi lần đi, về như vậy phải tính vắng nhà hai tháng trời. Trong suốt hai 
		tháng trời ấy, vợ ông cùng tên du đãng Khang Thất đã sống những ngày 
		trăng hoa nóng bỏng. Khi Nhất Phong về nhà thì trời đã hoàng hôn, nhờ có 
		Bồ Tát báo mộng sập cầu cứu ông nên việc đầu tiên sau khi vào nhà là đến 
		trước bàn thờ Bồ Tát Quán Âm chí thành đảnh lễ bái tạ.
	  Lễ xong đứng dậy, đột nhiên cây đèn lưu ly treo trên xà nhà bị đứt dây 
		rơi xuống, ông bị dầu bắn lên khắp cả người, và vì bị dầu bắn lên người 
		như thế nên ông lập tức nhớ đến câu kệ thứ hai “gặp dầu trét lên đầu”, 
		thế là còn bao nhiêu dầu trong đèn ông bèn đổ cả lên đầu lên tóc.
	  Lễ Phật xong, ông mới gặp vợ hỏi han việc nhà và sau khi ăn cơm, hai vợ 
		chồng vào phòng thay quần áo đi ngủ.
	  Tên du đãng Khang Thất biết rằng Yêu Nhất Phong đã về rồi. Trong hai 
		tháng vừa qua, hắn đã cùng người đàn bà kia mặn nồng trăng gió với nhau, 
		một phút cũng không muốn rời. Nay Yêu Nhất Phong trở lại rồi thì đêm nay 
		hắn không thể qua nhà người đàn bà để cùng nhau mây mưa, về sau cũng sẽ 
		khó mà tiếp tục dan díu với nhau lâu dài. Đêm hôm ấy hắn không ngủ được, 
		cứ trăn qua trở lại, lửa ghen thiêu đốt tâm cang, càng nghĩ càng căm 
		giận, hận là không thể tức khắc xông qua nhà bên cạnh bắt con dâm phụ ấy 
		về với mình. 
	  Ý nghĩ giết người manh nha trong đầu từ đấy, hắn nghĩ rằng giải pháp gọn 
		nhất là giết quách Yêu Nhất Phong đi, giấu thi thể để phi tang rồi sau 
		đó mới có thể cùng tình phụ ăn ở với nhau lâu dài được. Nghĩ xong là 
		làm, hắn xuống bếp lấy một con dao nhọn và bén, trèo tường qua nhà hàng 
		xóm, lẻn vào phòng ngủ của Yêu Nhất Phong. 
	  Trong phòng tối đen như mực, Khang Thất cầm dao mò mẫm đến trước giường, 
		nhưng hắn không thể phân biệt ai là Yêu Nhất Phong ai là người đàn bà. 
		Hắn lại nghĩ, trong đêm tối không nên giết lầm người, đàn bà vốn thường 
		hay xoa dầu thơm lên đầu nên phân biệt hai người có lẽ cũng dễ thôi. Hắn 
		đưa mũi đánh hơi, thấy rằng người ngủ phía ngoài có mùi dầu sực nức, thì 
		chắc chắn đây là người đàn bà rồi, vậy người nằm trong ắt phải là Yêu 
		Nhất Phong. Tức thời hắn vung dao lên chém mạnh xuống, chỉ nghe “phập!” 
		một tiếng, đầu dâm phụ bị chẻ làm hai mảnh. Yêu Nhất Phong nghe tiếng 
		chém thì giật mình thức dậy, hô hoán lên ầm ĩ, khoác áo vào ngồi dậy đốt 
		đèn. Tên sát nhân Khang Thất biết mình giết lầm người, vội vàng trèo cửa 
		sổ chạy trốn mất.
	  Yêu Nhất Phong thấy đầu vợ bị bửa ra thành hai mảnh thì thương tâm quá 
		khóc rống lên, tìm kiếm khắp nơi mà hung thủ thì đã biệt tăm biệt tích. 
		Ông bèn sai người đi liền đêm ấy báo cho nhạc phụ biết tin dữ.
	  Khi nhạc phụ tới nhà Yêu Nhất Phong xem xét thì không cần biết trắng đen 
		phải trái ra sao, nhất định buộc tội Yêu Nhất Phong giết vợ, lồng lộn 
		tra vấn con rể:
	  – Cửa ngoài vẫn đóng, cửa nhà không mở, ngay trên giường mi xảy ra án 
		mạng, không phải mi giết thì còn ai vào đây?
	  Yêu Nhất Phong tình ngay lý gian, có miệng mà không cãi được.
	  Hôm sau người nhạc phụ ra nha môn trình cáo, vị quan huyện đến điều tra 
		rồi cũng nghi rằng hung thủ chính là Yêu Nhất Phong.
	  Đây là một vị quan huyện rất hà khắc, ưa dùng hình phạt tàn khốc để bắt 
		tù nhân khai tội, nên cho tra tấn Yêu Nhất Phong trong lúc thẩm vấn. Yêu 
		Nhất Phong là một thương nhân, một chủ tiệm, làm sao chịu nổi cuộc tra 
		tấn đau đớn ấy, chỉ biết tự than rằng kiếp trước đã gây tội, vận mệnh đã 
		an bài như thế rồi, thôi thì cứ nhận tội oan, dẫu có chết cũng còn đỡ 
		khổ hơn là sống mà phải chịu đọa đày như vậy. Quyết định như thế rồi ông 
		bèn nhận tội.
	  Quan huyện thấy Yêu Nhất Phong đã nhận tội rồi bèn một mặt cho giam ông 
		vào ngục tối, một mặt chuẩn bị phác thảo tờ công văn để xử án tử hình. 
		Ngờ đâu khi ông cầm bút lông lên vừa tính đặt xuống giấy thì đột nhiên 
		có vài con ruồi xanh bay tới, vây chặt lấy đầu bút khiến cho ông không 
		thể nào đặt bút xuống. Ông đưa tay xua ruồi, nhưng vừa tính hạ bút thì 
		chúng lại bay tới bu lấy đầu bút, cứ thế nhiều lần nên tờ công văn không 
		sao viết được. Vị quan huyện cảm thấy kỳ quái, bèn nghĩ rằng ruồi xanh 
		bu vào đầu bút không cho ông viết công văn để xử tội, phải chăng có oan 
		tình chi đây? Ông bèn cho mời vị quan cố vấn tới thỉnh ý. Quan cố vấn 
		nói:
	  – Để tôi vào ngục hỏi lại Yêu Nhất Phong rồi sau đó hãy tính.
	  Quan cố vấn vào ngục, thấy Yêu Nhất Phong ngồi bình tâm niệm Phật lại 
		càng thấy quái lạ, bèn hỏi:
	  – Ông đã khai rồi, tội giết người đã định, niệm Phật có ích gì?
	  Nhất Phong đáp:
	  – Tôi không chịu nổi tra khảo nên phải nhận tội chứ sự thật oan cho tôi 
		lắm. Tôi không hề giết người! Bồ Tát có nói sẽ cứu tôi nên tôi niệm Phật 
		cầu Ngài đến cứu, vì Bồ Tát tuyệt đối không bao giờ gạt người.
	  Tới đây ông kể lại chuyện được Bồ Tát báo mộng và đem bốn câu kệ lặp lại 
		cho quan cố vấn nghe. Quan cố vấn nghe rồi vô cùng kinh dị, nghĩ thầm:
	  – “Ruồi xanh bu bút đầu” phải chăng là ứng cho chuyện quan huyện mới gặp 
		vừa rồi chăng? Vậy thì câu thứ ba “đấu thóc ba thăng gạo” có nghĩa là 
		gì? 
	  Ông suy nghĩ, nghiền ngẫm, trở đi trở lại vấn đề trong đầu nhưng vẫn 
		nghĩ không ra. Cuối cùng bỗng nhiên ông đại ngộ:
	  – Một đấu là mười thăng, nếu một đấu thóc mà chỉ cho có ba thăng gạo thì 
		phải chăng còn lại bảy thăng cám? Chữ cám (khang - 糠), bỏ bộ mễ (米 - 
		gạo) ra còn lại họ Khang (康). Bảy là Thất (七), vậy phải chăng hung thủ 
		tên là Khang Thất?
	  Nghĩ thế xong ông bèn hỏi Yêu Nhất Phong:
	  – Ở chỗ ông ở có ai tên là Khang Thất không? Ông có quen ai tên đó 
		không?
	  Yêu Nhất Phong đáp:
	  – Có, có người tên đó, mà tôi cũng biết ông ta nữa. Đó là người hàng xóm 
		bên tay trái của nhà tôi, đúng tên là Khang Thất.
	  Quan cố vấn gật đầu bỏ đi, đem hết câu chuyện trình lại cho quan huyện 
		nghe. Hôm sau, tên gian phu Khang Thất bị bắt đem lên nha môn, và bị tra 
		vấn ngay tại chỗ. Khang Thất bèn khai thật mọi sự, Yêu Nhất Phong được 
		xử trắng án.
	  Qua tai nạn bất ngờ nói trên và tuy được xử trắng án, thoát được họa bị 
		xử tử hình, nhưng Yêu Nhất Phong cảm thấy thế sự biến đổi vô thường, 
		chán nản cùng cực, bèn đem tài sản ra bố thí hết cho người nghèo và 
		quyết định đến Hàng Châu, vào chùa Linh Ẩn xuất gia. 
	  Ông đi bộ suốt cả đoạn đường, một hôm đến Gia Hưng, nghỉ lại trong một 
		lữ điếm. Trong đêm sâu ông mơ hồ nghe ai gọi tên mình, mở mắt ra nhìn 
		thì thấy vợ mình cùng Khang Thất, hai người mỗi người đều ôm cái đầu lâu 
		đẫm máu xông tới đòi mạng. Nhất Phong sợ quá run bần bật, vội vàng nhắm 
		nghiền đôi mắt niệm thầm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, sau một lúc không 
		nghe động tĩnh gì nữa, bèn mở mắt ra nhìn, không thấy hai con quỷ đâu mà 
		lại thấy một vị Bồ Tát đứng trên một chiếc lá sen, bên cạnh có một cậu 
		bé trai thân trần, đứng chắp tay hướng về Bồ Tát như thể đang lễ bái. 
		Chỉ trong sát na, cảnh ấy cũng biến mất luôn. 
	  Lúc ấy Nhất Phong mới biết là mình mới nằm mộng. Nhớ lại chuyện vừa qua, 
		biết rằng Bồ Tát Quán Âm đã một lần nữa hiển linh để cứu mình, ông thấy 
		mình quá sức có phúc nên quyết định xuất gia nương cửa Phật càng thêm 
		kiên cố.
	  Hôm sau ông rời huyện Gia Hưng, tiếp tục nhắm hướng Hàng Châu mau lẹ 
		tiến bước. Gần tới Hồ gia trang, thấy có một đám người đang đứng vây 
		xung quanh một luống ruộng, chẳng biết xảy ra chuyện gì, ông bèn nhanh 
		chân tiến đến gần xem. 
	  Thì ra có một người nông phu họ Vương, trong lúc cuốc đất, cuốc phải một 
		pho tượng Phật cao cỡ một xích rưỡi. Pho tượng này làm bằng ngói lưu ly màu xanh ngọc bích, điêu khắc rất 
		tinh vi đẹp mắt, mọi người tranh nhau nhìn ngắm nên mới tụ lại vây quanh 
		đông đảo như vậy. Nhưng tượng Phật này là Phật nào?
	   Yêu Nhất Phong chen vào nhìn, nhìn kỹ càng rồi thì mới nhận ra rằng tuy 
		tượng Phật có tướng người nam nhưng mắt mũi diện mục thì đích thị là Bồ 
		Tát Quán Âm. Ông hân hoan thấy rằng giữa Bồ Tát và mình quả thật có 
		duyên nên đã được gặp Ngài mấy lần, vì thế ông vui vẻ nói với mọi người 
		rằng:
	  – Quý vị ở đây thật có phúc nên hôm nay được gặp Bồ Tát. Quý vị hãy mau 
		thỉnh Bồ Tát về ngôi chùa nào trong thành mà cúng dường, Bồ Tát sẽ hộ 
		trì cho quý vị được bình an và năm nào gặt hái cũng được mùa.
	  Người nông phu họ Vương hỏi:
	  – Ông nói đây là Bồ Tát, vậy chứ tôi hỏi ông, ông có biết đây là Bồ Tát 
		nào không chứ chúng tôi nhìn mãi mà không biết?
	  Yêu Nhất Phong nói:
	  – Đây là Bồ Tát Quán Thế Âm.
	  Mọi người nghe thế nhao nhao lên cãi:
	  – Không phải, không phải, pháp tượng của Bồ Tát Quán Âm như thế nào 
		chúng tôi đây ai cũng đã từng nhìn thấy, không phải là lối ăn mặc như 
		thế này, là người nữ chứ không phải là người nam. Còn tượng này là tướng 
		người nam, làm sao là Bồ Tát Quán Âm được?
	  Nhất Phong nói:
	  – Sau khi đắc đạo rồi, vì muốn cứu độ người đời và đi khắp thế gian nên 
		Bồ Tát tùy thời tùy nơi mà ứng hóa, có khi thân nam có khi thân nữ, có 
		khi già có khi trẻ không nhất định, có khi lại còn ứng hóa đủ thứ thân 
		để cảnh báo thế gian. Sao quý vị lại còn nghi ngờ?
	  Sau đó ông đem chuyện mình hai lần gặp Bồ Tát hiển linh kể cho mọi người 
		nghe. Lúc ấy mọi người mới chịu tin và đem pháp tượng Bồ Tát vào chùa 
		thờ phụng. Vì tượng Bồ Tát này từ luống cày xuất hiện nên mọi người đặt 
		tên là “Lũng Kiến Quán Âm” (Quán Âm gặp trong luống cày).
	  Yêu Nhất Phong đi suốt ngày lẫn đêm, cuối cùng cũng đến chùa Linh Ẩn ở 
		Hàng Châu. Có một vị thiền sư pháp hiệu là Nguyên Tịch, thấy ông chí 
		thành muốn xuất gia nên thâu nhận ông làm đệ tử. Từ đó Nhất Phong xuống 
		tóc xuất gia làm tăng, theo chúng mà tu hành, về sau người ta gọi ông là 
		Nhất Phong Hòa thượng.
	  Nhất Phong mới xả bỏ phàm trần nên tuy có nhiều thiện căn, nhưng vì đã 
		lăn lộn nhiều trong thế gian nên trong tâm hãy còn nhiều tạp niệm, lục 
		căn chưa thanh tịnh, lúc mới học ngồi thiền ông không cách nào định tâm 
		được. Thường thường hễ ngồi xuống lại thấy hồn ma Khang Thất cùng vợ 
		mình bưng đầu lâu đẫm máu đến phá quấy. Buổi thiền tọa hôm ấy hai hồn ma 
		lại về quấy nhiễu nhưng lần này hung tợn hơn, Khang Thất dẫn đầu một 
		đoàn quỷ sứ không đầu ào ào ùa tới khiến Nhất Phong hồn phi phách tán, 
		vội niệm thầm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát. 
	  Một lúc sau ông thấy một vị Bồ Tát xuất hiện trước mặt, vị Bồ Tát này có 
		cái cổ màu xanh, một đầu mà ba khuôn mặt, mặt chính ở giữa là mặt từ bi 
		của một vị Bồ Tát, mặt tay phải là mặt sư tử, mặt tay trái là mặt heo. 
		Đầu Ngài đội mũ báu, trên mũ có hóa thân của Vô Lượng Thọ Phật. Ngài có 
		tới 4 cánh tay, tay thứ nhất bên phải cầm tích trượng, tay thứ hai cầm 
		hoa sen: tay thứ nhất bên trái cầm bánh xe, tay thứ hai cầm loa ốc. Ngài 
		mặc áo bằng da cọp, tua ren là những con rắn đen, đứng trên một hoa sen 
		tám lá, tay đeo vòng anh lạc, xung quanh có hào quang, trông rất là uy 
		dũng. 
	  Vị Bồ Tát cổ xanh này tóm lấy những con quỷ không đầu mà ăn, chỉ trong 
		thoáng chốc là ăn trọn hết bầy quỷ. Ăn xong, Ngài dùng tích trượng gõ 
		Nhất Phong hoà thượng một cái, Nhất Phong chợt thấy tâm mình trở nên 
		minh mẫn sáng suốt, từ đó trong tâm không còn cấu nhiễm, trần duyên cắt 
		tuyệt.
	  Ngày hôm sau, Nhất Phong hòa thượng đem chuyện đêm qua trình lên Nguyên 
		Tịch Thiền sư, Thiền sư nói:
	  – Đêm qua ông thấy Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát (Bồ Tát Quán Tự Tại cổ 
		xanh), chính là Bồ Tát Quán Âm dưới hình tướng của Minh Vương, ông hãy 
		thành tâm trì niệm danh hiệu vị Bồ Tát này thì có thể thoát khỏi mọi sợ 
		hãi khủng bố.
	  Nói xong ngài lấy ra một quyển kinh “Thanh Cảnh Quán Tự Tại Bồ Tát Đà La 
		Ni” trao cho Nhất Phong, dặn ông khi nào còn gặp cảnh khủng bố thì đọc 
		tụng kinh này để giải trừ.
	  Hoà Thượng Nhất Phong tu hành tại chùa Linh Ẩn một cách chí thành, công 
		hạnh tinh tiến, vài năm sau trở thành một vị cao tăng nổi danh. Ngài đi 
		khắp nơi đảnh lễ các danh sơn, vì nhớ ân sâu của đức Quán Âm đã nhiều 
		lần cứu hộ cho mình nên cứ thấy những tảng đá lạ ở danh sơn nào đều lấy 
		để tạc tôn tượng của ngài Quán Âm lưu truyền cho hậu thế. Ngài đã bốn 
		lần được thấy Bồ Tát Quán Âm hiển hóa: một lần thấy trong mộng thị hiện 
		trên đầu có con rồng xanh, một lần thấy Ngài đứng trên chiếc lá sen, một 
		lần thấy pháp tượng của Ngài giữa một luống cày và một lần thấy Quán Âm 
		cổ xanh, vì thế những bức tượng ngài khắc nếu không là “Thanh Long Quán 
		Âm”, thì cũng là “Lũng kiến Quán Âm”, nếu không là “Nhất Diệp Quán Âm” 
		hoặc “Đồng Tử bái Quán Âm” thì cũng là “Thanh Cảnh Quán Âm”.
	  Về sau, Nhất Phong hòa thượng đi triều bái ở Nam Hải, đứng trên bờ bất 
		ngờ nhìn thấy trong sóng to một pho tượng Quán Âm bằng lưu ly dài một 
		xích ba thốn, toàn thân trong suốt, bảy báu trang nghiêm. Nhất Phong Hoà 
		thượng cung kính cẩn thận vớt pho tượng lên đem về chùa Linh Ẩn ở Hàng 
		Châu thờ phụng. Bức tượng này được đặt tên là “Lưu Ly Quán Âm”. Vì tượng 
		này đã bồng bềnh trên sóng nên cũng có tên là “Thỗn Lai Quán Âm” (Quán 
		Âm bồng bềnh trôi đến).
	  Cho đến ngày nay, chuyện Nhất Phong hòa thượng được Bồ Tát Quán Âm cứu 
		độ rồi xuất gia tu hành cho đến thành một vị cao tăng, suốt đời có những 
		kỳ duyên hạnh ngộ với ngài Bồ Tát Quán Âm vẫn còn được lưu truyền.