QUYỂN 6 - (4 nước)
Fascicle VI - Four Countries, from Śrāvastī to Kusinagara
● Nước Thất-la-phạt-tất-để ● Nước Kiếp-tỷ-la-phạt-tốt-đổ ● Nước Lam-ma ● Nước Câu-thi-na-yết-la
1. The Country of Sravasti
2. The Country of Kapilavastu
3. The Country of Rama[grama]
4. The Country of Kusinagara
1. Nước Thất-la-phạt-tất-để
Nước Thất-la-phạt-tất-để chu vi gần 2.000 km. Kinh thành hoang phế, đổ nát, không còn xác định được phạm vi đến đâu. Nền cũ cung điện chu vi khoảng 6.5 km, tuy cũng hoang vu đổ nát nhưng vẫn còn có người ở. Nơi đây lúa má tốt tươi, khí hậu ôn hòa, phong tục thuần phác chân chất, người dân ham học, ưa thích làm việc phước thiện.
The country of SravastI is over six thousand li in circuit. Its capital city is in
899a desolation and there is nothing to mark its boundaries. The old foundations of the palace city are more than twenty li in circuit. Although mostly in ruins it is still inhabited. It abounds in cereal crops and the climate is temperate.
The people are sincere and honest by custom, diligent in study, and like to perform meritorious deeds.
Có khoảng mấy trăm ngôi chùa, hư hoại đổ nát quá nhiều, tăng sĩ rất ít, tu tập theo phái Chính lượng [thuộc Tiểu thừa]. Đền thờ Phạm thiên có khoảng trăm nơi, rất nhiều người theo ngoại đạo. Nơi đây khi đức Như Lai còn tại thế, có vua Bát-la-tê-na-thị-đa trị vì. Bên trong cung điện xưa còn lại một nền móng cũ, chính là nền cung điện của vua Thắng Quân.
There are several hundred monasteries, most of which are dilapidated, with few monks who are followers of the Sammitfya school. Deva temples amount to a hundred and they have many heretics.
This was the capital of the country ruled by King Prasenajit (known as Shengjun, “Victorious Army,” formerly called Bosini erroneously in abbreviation) when the Tathagata was living in the world. The old foundations in the palace city are the remnant bases of King Prasenajit’s palace.
Tiếp theo về hướng đông cách đó không xa lại có một khu nền cũ, trên ấy dựng lên một ngọn tháp nhỏ, chính là nơi ngày xưa vua Thắng Quân đã vì đức Như Lai mà cho xây dựng pháp đường rộng lớn.
Not far to the east is another old foundation, on which a small stupa has been built to mark the site of the Great Dharma Hall constructed by King Prasenajit for the Tathagata in olden times.
Bên cạnh pháp đường này, cách đó không xa lại có một nền cũ khác, bên trên có tháp, chính là di tích ngôi tinh xá ni của Tỳ-kheo ni Bát-la-xà-bát-để, di mẫu của đức Phật, do vua Thắng Quân xây dựng.
Not far from the Dharma Hall a stupa was built on the old foundations of the temple of the Buddha’s maternal aunt, Prajapati (known as Shengzhu, “Protectress of Creatures,” formerly mistranscribed as Boshe-boti) Bhiksuni, constructed for her by King Prasenajit.
Ngọn tháp tiếp theo về phía đông [xây dựng trên nền] nhà cũ của ông Tô-đạt-đa. Bên cạnh nền nhà này có một ngọn tháp lớn, là nơi Ương-cũ-lợi-ma-la bỏ tà theo chánh.
Next to the east, a stupa marks the site of the old residence of Sudatta (known as Shanshi, “Good Almsgiver,” formerly mistranscribed as Xuda).
Beside the residence of Sudatta is a great stupa built at the spot where Angulimala (known as Zhiman, “Chaplet of Finger Bones,” formerly mistranscribed as Yangjuemoluo) gave up his evil ways.
Ương-cũ-lợi-ma-la là một người hung ác ở Thất-la-phạt-tất-để, giết hại nhiều người, tàn bạo độc ác, giết người rồi lấy ngón tay xâu lại thành vòng đội lên đầu. Khi ông sắp giết mẹ mình để lấy cho đủ số ngón tay, đức Thế Tôn vì lòng bi mẫn liền hiện đến hóa độ. Từ xa nhìn thấy đức Thế Tôn, Ương-cũ-lợi-ma-la trong lòng vui mừng tự nghĩ rằng: “Ta nay chắc chắn sẽ được sinh lên cõi trời, vì thầy ta trước đây có dạy, những ai hại Phật, giết mẹ ắt được sinh lên cõi trời.” Liền nói với mẹ: “Bà hãy đợi ở đây, ta đi giết gã sa-môn kia trước.” Nói rồi cầm gươm chạy đến để giết đức Thế Tôn. Đức Như Lai từ hòa chậm rãi lui bước, nhưng Ương-cũ-lợi-ma-la cố hết sức chạy nhanh theo vẫn không kịp. Đức Thế Tôn nói: “Sao ngươi lại giữ tâm xấu ác, bỏ gốc lành, buông thả theo việc ác?”
Angulimala was a wicked man of Sravasti who harmed living beings and committed atrocities in the city and throughout the country. He murdered people in order to collect their finger bones to make a mala. Just as he was about to kill his mother to get her finger bone to complete the number of bones required for the mala, the World-honored One, with a mind of compassion, was making a tour of edification. Seeing the World-honored One from a distance, Ahgulimala felt glad and thought, “I am sure to be reborn in the heavens, as my late teacher taught me that anyone who hurts the Buddha and kills his own mother will be reborn in Brahma Heaven.” He said to his mother, “Old lady, you may stay here for a while. I will go kill that great sramana first.” Saying this, he wielded a sword and went to meet the World-honored One. As the Tathagata slowly retreated the wicked Ahgulimala could not catch up with him, even though he walked very fast. The World-honored One said to him, “Why do
899b you hold on to your ignoble ideas? You have abandoned the root of goodness and aroused the source of wickedness.”
Ương-cũ-lợi-ma-la nghe lời Phật dạy, chợt nhận ra việc làm sai trái của mình, nhân đó liền xin quy y, xuất gia tu tập, tinh tấn chuyên cần không giải đãi, cuối cùng chứng quả A-la-hán.
On hearing this admonition Ahgulimala became aware that his behavior was wrong. He took refuge [in the Buddha] and sought to learn the Dharma and, as he studied diligently, he attained arhatship.
Phía nam kinh thành, cách xa khoảng 1.5-1.9 km có rừng Thệ-đa, là khu vườn của ông Cấp Cô Độc xưa kia. Đại thần Thiện Thí của vua Thắng Quân đã vì Phật mà xây dựng tinh xá. Trước đây là một tu viện lớn nhưng nay đã hoang phế. Nơi cửa phía đông [của tinh xá], hai bên đều có dựng trụ đá, cao hơn 23 mét. Trụ đá bên trái chạm khắc hình luân tướng trên đỉnh, trụ đá bên phải có khắc hình con bò ở bên trên. Cả hai đều do vua Vô Ưu dựng lên. Phòng ốc nơi đây đã đổ nát hết, chỉ còn lại nền móng cũ, duy nhất có một căn nhà bằng gạch nung vẫn còn tồn tại trơ trọi, trong đó có một tượng Phật. Thuở xưa khi đức Như Lai lên cõi trời Ba mươi ba vì mẹ thuyết pháp, vua Thắng Quân nghe chuyện vua Xuất Ái cho khắc tượng Phật bằng gỗ chiên-đàn nên cũng cho khắc tượng Phật này.
Five or six li to the south of the city is Jetavana (known as Shenglin, “Victor’s Wood,” formerly mistranscribed as Qituo), the garden of Anathapindika, where King Prasenajit’s minister Sudatta constructed a temple for the Buddha. In the old days it was a monastery but now it lies in ruins. There are two stone pillars over seventy feet high, one at each side of the east gate. On top of the left pillar a wheel sign is carved, and a figure of a bull is engraved on top of the right pillar. Both pillars were erected by King Asoka. The buildings are dilapidated and only the remains of the old foundations still stand, with the exception of a brick chamber that stands alone. In this chamber there is an image of the Buddha. After the Tathagata preached the Dharma for his mother in Trayastrimsa Heaven, King Prasenajit made this image, after hearing that King Udayana had carved a sandalwood image of the Buddha.
Trưởng giả Thiện Thí là người nhân từ, thông minh mẫn tiệp, có thể tạo ra của cải rất nhiều mà cũng có thể ban phát bố thí, cứu giúp những người nghèo khổ, cô độc, nên người thời bấy giờ ngưỡng mộ đức hạnh của ông, tôn danh hiệu là Cấp Cô Độc.
Elder Sudatta was a kind and intelligent man who knew how to accumulate wealth and how to spend money to help the poor and needy and provide alms to kinless and aged people. In praise of his virtue the people of his time called him Anathapindika (“Giver of Alms to the Poor and Helpless”).
Ông Cấp Cô Độc nghe nói về công đức của đức Phật, sinh lòng tôn kính sâu xa nên phát nguyện xây dựng tinh xá, thỉnh Phật quang lâm đến đây. Đức Thế Tôn cho ngài Xá-lợi-phất theo đến vùng này xem xét tìm hiểu, thấy chỉ có khu đất vườn của thái tử Thệ-đa là thoáng rộng thích hợp. Ông Cấp Cô Độc liền đến gặp thái tử trình bày rõ sự việc và ý muốn của mình. Thái tử nói đùa rằng: “Trải vàng kín đất thì ta mới bán.” Ông Thiện Thí nghe xong trút sạch lo lắng, liền lập tức xuất vàng trong kho trải lên khắp mặt đất đúng như lời thái tử. Khi chỉ còn một ít chưa phủ kín, thái tử bảo chừa lại rồi nói: “Đức Phật đúng là ruộng phước, chúng ta nên cùng gieo hạt giống lành.” [Rồi phát tâm cúng chỗ đất ấy.]
Hearing about the Buddha’s virtues, he cherished a deep adoration for him and wished to build a temple to which to invite the Buddha. The World-honored One sent Sariputra to go [with Sudatta] to survey the location, and they found that only Prince Jeta’s garden was a suitably high and dry site. They went to see the prince and told him their intention. The prince said in jest, “I will sell my garden for as many pieces of gold as it takes to completely cover the ground!”
On hearing this, Sudatta was exhilarated and took gold coins from his treasury to pave the ground of the garden, as Prince Jeta had suggested. When only a small portion of the land remained uncovered the prince begged to retain it for himself, saying, “The Buddha is really like a plot of good land and I too should sow good seeds in it.”
Sau đó, tinh xá được xây dựng trên những phần đất trống, [còn cây vườn giữ nguyên.] Đức Thế Tôn nhân việc ấy bảo ngài A-nan: “Đất vườn ông Thiện Thí đã mua, còn cây vườn do thái tử Thệ-đa cúng dường. Hai người đồng lòng làm nên việc rất lớn lao này. Từ nay về sau nên gọi nơi đây là Vườn ông Cấp Cô Độc, cây của Thệ-đa.”
He built a temple on the remaining portion of the ground. The World-honored One went there and said to Ananda, “As the ground of the garden has been purchased by Sudatta and the trees have been given by Prince Jeta, these two have the same purpose in mind and their merits should be equally esteemed. Henceforward this place should be called the Garden of Jetavana-Anathapindika.”
Phía đông bắc khu vườn Cấp Cô Độc có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai tắm rửa cho một tỳ-kheo bị bệnh.
To the northeast of the Garden of Anathapindika is a stupa at the place where the Tathagata once bathed a sick bhiksu.
Thuở Như Lai còn tại thế, có một vị tỳ-kheo bị bệnh, đau nhức khổ sở ở riêng một mình. Đức Thế Tôn thấy vậy hỏi rằng: “Vì sao ông đau đớn khổ sở như thế? Vì sao ông ở một mình?”
Once, when the Tathagata was living in the world, there was a sick bhiksu, suffering from pain, who lived alone in solitude. Seeing him, the World-honored One asked, “What is your malady and why are you living alone?”
Vị tỳ-kheo thưa: “Tánh tình con lười nhác, [xưa nay] không chịu chăm sóc người bệnh, vì thế nay con mắc bệnh chẳng ai ngó ngàng đến con.”
The bhiksu said in reply, “I am indolent by nature and cannot endure medical treatment. That is why I am sick and without anyone to attend me.”
Bấy giờ, đức Như Lai thương xót nói rằng: “Thiện nam tử, nay ta sẽ chăm sóc cho ông.”
With a mind of compassion the Tathagata said to him, “Good man, now I am here to attend you.”
Như Lai nói rồi đưa tay xoa vào người vị tỳ-kheo, bệnh khổ liền tiêu trừ. Rồi đức Phật đỡ vị tỳ-kheo ra bên ngoài nhà, lại giúp thay cỏ thuốc đắp trên vết thương, đích thân tắm rửa cho rồi thay y phục mới. Sau đó, đức Phật khích lệ vị tỳ-kheo: “Hãy nỗ lực tinh tấn lên.”
Saying this, he stroked the sick bhiksu with his hand, completely curing him, and then helped then bhiksu to go out through the door. The Buddha then changed the bhiksu’s bedding, bathed him, and dressed him in new clothes. The Buddha said to him, “You should always be diligent and exert yourself.”
Vị tỳ-kheo nghe lời Phật dạy hết sức biết ơn, thân tâm đều cảm thấy vui mừng khoan khoái.
Hearing this instruction, the bhiksu felt grateful and was happy in mind and comfortable in body.
Phía tây bắc của khu vườn Cấp Cô Độc có một ngọn tháp nhỏ, là nơi ngài Một-đặc-già-la vận sức thần thông nhưng không thể nhấc lên nổi cái dải y của ngài Xá-lợi tử.
To the northwest of the Garden of Anathapindika is a small stupa at the place where Maudgalyayana could not lift the belt of Sariputra’s robe with his supernatural powers.
Thuở ấy, khi Phật đang ở tại hồ Vô Nhiệt Não, đại chúng trời, người đều tụ họp đến, duy chỉ có ngài Xá-lợi tử chưa đến được đúng lúc, Phật dạy ngài Một-đặc-già-la đến triệu vời. Ngài Một-đặc-già-la vâng mệnh ra đi, đến nơi thấy ngài Xá-lợi tử đang ngồi vá tấm pháp y. Ngài Một-đặc-già-la nói: “Đức Thế Tôn hiện đang ở tại hồ Vô Nhiệt Não, bảo tôi gọi ngài đến.”
The Buddha was once at Anavatapta Lake with a congregation of human and heavenly beings. Only Sariputra was absent from the meeting and the Buddha asked Maudgalyayana to summon him to the congregation. When Maudgalyayana went by the Buddha’s order to the place of Sariputra, the latter was mending his clerical robe. Maudgalyayana said to him, “The World-honored One is now at Anavatapta Lake and has ordered me to summon you.”
Ngài Xá-lợi tử đáp: “Xin đợi một lát, tôi vá y xong sẽ cùng đi.”
Sariputra said, “Wait a moment. When I have finished mending my robe I will go with you.”
Ngài Một-đặc-già-la nói: “Nếu ngài không đi ngay, tôi sẽ vận sức thần thông đưa cả ngài và gian thạch thất này đến chỗ đại hội.”
Maudgalyayana said, “If you do not go with me immediately I will exercise my supernatural powers and carry you and your rock chamber to the congregation!”
Ngài Xá-lợi tử liền đặt dải buộc y trên đất rồi nói: “Nếu ngài nhấc cái dải buộc y này lên được thì thân tôi mới lay động.”
Sariputra then untied his belt and put it on the ground, saying, “If you can pick up my belt I will go with you immediately.”
Ngài Một-đặc-già-la vận sức đại thần thông cố nhấc dải buộc y lên nhưng vẫn thấy nằm yên, còn mặt đất thì chấn động, liền dùng phép thần túc quay về chỗ Phật. Đến nơi thì thấy ngài Xá-lợi tử đã ngồi trong chúng hội rồi.
Maudgalyayana exercised his great supernatural powers but he could not pick the belt up, even though his strength caused an earthquake. Then he returned to the Buddha through the air by the power of his magic feet and found that Sariputra was already seated in the congregation.
Ngài Một-đặc-già-la cúi đầu thán phục khen rằng: “Hôm nay mới biết là sức thần thông thật không bằng sức trí tuệ.”
Maudgalyayana remarked with a sigh, “Now I have realized that the power of divine capabilities is inferior to that of transcendental wisdom.”
Không xa chỗ ngọn tháp nơi ngài Một-đặc-già-la nhấc dải y có một cái giếng. Khi Như Lai còn tại thế, giếng luôn đầy nước đủ cho Phật dùng. Bên cạnh đó có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, trong đó có thờ xá-lợi của đức Như Lai. Ngoài ra những nơi di tích Phật kinh hành, thuyết pháp... đều có dựng trụ làm dấu hoặc xây tháp.
Not far from the stupa of belt-lifting is a well from which water was drawn for the Tathagata’s use when he was living in the world. Beside it is another stupa built by King Asoka, in which are preserved the relics of the Tathagata. Indicative emblems were raised and stupas constructed at the sites where he walked up and down and preached the Dharma.
Những nơi này đều có thiện thần hộ pháp âm thầm bảo vệ, thường hiện những điềm lành, hoặc có người nghe tiếng âm nhạc cõi trời, hoặc ngửi được mùi hương thần, điềm lành phúc lớn khó kể ra hết.
All of these places are protected by deities, who occasionally show spiritual manifestations in the form of celestial music or divine fragrance. Other auspicious signs of great blessedness are difficult for me to relate in detail.
Phía sau khu tinh xá không xa là nơi thuở xưa ngoại đạo Phạm chí đã giết hại cô kỹ nữ để [lấy cớ vu cáo] phỉ báng Phật.
Not far behind the monastery is the place where some young brahmanical students killed a prostitute in order to slander the Buddha.
Đức Như Lai có đủ Mười sức, Mười điều chẳng sợ, Trí hiểu biết tất cả [Nhất thiết chủng trí], nên chư thiên, loài người đều tôn trọng kính nguỡng, các bậc hiền thánh đều kính cẩn vâng theo. Lúc bấy giờ, bọn ngoại đạo cùng hội họp bàn nhau rằng: “Chúng ta nên dùng mưu dối trá để phỉ báng [sa-môn Cồ-đàm] giữa hội chúng.”
The Tathagata was in possession of the ten powers as well as fearlessness and omniscient wisdom, and he was honored by human and heavenly beings and respected by saints and sages. The heretics discussed the matter together, saying, “We should contrive a devious scheme to slander and publicly insult him.”
Bàn tính như vậy rồi, bọn họ liền nói dối để thuê một cô kỹ nữ, giả vờ vào nghe Phật thuyết pháp, chờ đến khi mọi người đều biết việc cô này đến nghe pháp, liền bí mật giết chết cô, đem chôn xác bên gốc cây rồi [giả vờ] oán trách, trình báo lên đức vua. Vua ra lệnh truy tìm thì trong vườn Thệ-đa [quân binh] tìm được xác chết. Lúc bấy giờ ngoại đạo lớn tiếng nói rằng: “Sa-môn Kiều-đáp-ma thường xưng là giữ giới, thế mà nay dan díu với cô gái này rồi giết người để bịt miệng. Đã phạm tội dâm dục lại phạm tội giết người, sao có thể gọi là giữ giới?”
Then they hired a prostitute to pretend to be a hearer of the Dharma. After she had became known as such to all, the heretics killed her in secret, buried the corpse beside a tree, and appealed to the king for redress. The king ordered an investigation and discovered the corpse in Jetavana Garden. The heretics exclaimed, “The great sramana Gautama often preached disciplinary rides and chastity. But now he has had illicit intercourse with this woman and killed her in order to shut her up. He has violated the rides against unchastity and killing. What disciplinary rules and austerities has he practiced?”
Chư thiên ở giữa không trung liền lên tiếng đáp trả rằng: “Đây là lời của bọn ngoại đạo hung ác vu cáo phỉ báng mà thôi.”
At that moment heavenly beings in the air cried out, “The wicked heretics are merely making up a slander!”
Từ tinh xá Kỳ viên đi về hướng đông khoảng 170 mét, có một cái hố lớn rất sâu. Đây là nơi Đề-bà-đạt-đa muốn dùng thuốc độc hại Phật, liền bị [chỗ đất này sụp xuống, khiến] đọa vào địa ngục ngay khi còn đang sống.
More than a hundred paces to the east of the monastery there is a large and deep pit, which was the place where Devadatta, who intended to poison the Buddha, fell into hell alive.
Đề-bà-đạt-đa là con vua Hộc Phạn. Ông tinh tấn chuyên cần trải qua 12 năm trì tụng 80 ngàn Pháp tạng. Sau vì lợi dưỡng mà cầu học thần thông rồi thân cận với bạn xấu ác, cùng tụ tập bàn luận, nói rằng: “Ta có 30 tướng tốt, nào kém Phật bao nhiêu? Nếu có đại chúng vây quanh thì đâu khác gì Như Lai?”
Devadatta (known as Tianshou, “Given by Heaven”) was the son of King Dronodana. Through twelve years’ study with zealous perseverance he mastered all the eighty thousand Dharma pitakas. Afterward he sought to learn supernatural powers for the sake of gaining material advantage and he associated with evil friends, to whom he said in a discussion, “I have as many as thirty of the physical marks of a great person, almost as many as the Buddha [who had thirty-two], and I also have a great following surrounding me. What is the difference between me and the Tathagata?”
Suy nghĩ như vậy rồi liền làm việc phá hòa hợp, gây chia rẽ chúng tăng. Ngài Xá-lợi tử và ngài Một-đặc-già-la vâng lời Phật dạy, nương oai thần của Phật, đến thuyết pháp răn dạy, Tăng chúng lại hòa hợp như trước. Nhưng Đề-bà-đạt-đa không bỏ tâm xấu ác, liền dùng thuốc độc bôi vào móng tay, dự tính nhân lúc lễ Phật sẽ làm hại Phật. Đang khi thực hiện mưu kế này, từ xa đi đến [chỗ Phật,] nhưng vừa đến đây thì đất nứt ra, liền bị rơi xuống địa ngục trong lúc còn sống.
With this thought in mind, he caused a schism in the community of monks. By the Buddha’s order and with the aid of his spiritual power, Sariputra and Maudgalyayana preached the Dharma and exhorted the monks who had gone astray to return to the harmonious community of monks. But Devadatta did not relinquish his evil mind and put poison on his fingernails, intending to harm the Buddha when he went to pay homage to him. He came from a great distance to carry out his plot but when he reached this spot the earth cracked open and he fell into hell alive.
Từ chỗ này nhìn về hướng nam lại có một hố lớn nữa, là nơi tỳ-kheo Cù-già-lê hủy báng Như Lai, liền bị rơi vào địa ngục trong lúc còn đang sống.
To the south of the pit is another one, which was the place where Kokalika Bhiksu fell into hell alive because he had slandered the Buddha.
Từ hố này đi về hướng nam hơn 700 mét có một hố lớn rất sâu nữa. Đây là nơi cô gái bà-la-môn Chiến-già hủy báng đức Như Lai, bị đọa địa ngục khi còn đang sống.
More than eight hundred paces to the south of the pit of Kokalika there is another large and deep pit, which was the place where the brahman woman Cinca fell into hell alive because she had slandered the Buddha.
[Thuở ấy,] đức Phật đã vì hàng trời, người thuyết giảng các pháp trọng yếu. Có người [nữ] đệ tử của ngoại đạo từ xa nhìn thấy đức Thế Tôn được đại chúng cung kính liền tự nghĩ rằng: “Nhất định hôm nay phải làm nhục Kiều-đáp-ma, khiến cho mất hết danh dự, để chỉ riêng thầy ta được nổi danh thôi.”
Once, when the Buddha was preaching the essentials of the Dharma to human and heavenly beings, a [woman] disciple of a heretical religion saw him from a distance in the assembly of respectfid people. [The woman] thought, “Today I must insult Gautama to spoil his fame so that only my teacher will enjoy a good reputation.”
Nghĩ rồi liền buộc một cái bát gỗ [giấu trong áo] trước bụng, rồi đi đến vườn Cấp Cô Độc, ở giữa đại chúng lớn tiếng nói rằng: “Người đang thuyết pháp kia đã cùng tôi tư thông, đứa con trong bụng này chính là dòng họ Thích.”
She hid a wooden basin inside her clothes and came to Anathapindika Garden, where she declared aloud in the assembly, “This preacher had illicit intercourse with me and the child in my womb is a Sakya!”
Những kẻ tà kiến đều tin lời ấy là thật, nhưng người trung thực đều biết đó là lời phỉ báng. Lúc bấy giờ, Thiên Đế Thích muốn trừ bỏ sự nghi ngờ [cho đại chúng], liền hóa làm một con chuột bạch, cắn đứt dây buộc bát gỗ. Bát gỗ rơi xuống thành tiếng làm chấn động đại chúng. Những người chứng kiến sự việc đều hết sức vui thích. Trong số đó có một người đứng lên cầm lấy cái bát gỗ, chỉ cho cô Chiến-già xem và hỏi: “Đây là con của cô sao?”
The heretics believed in her words but the staunch followers of the Buddha knew that she was committing slander. At that moment Indra, wishing to clear up their doubts, transformed himself into a white rat and gnawed through the cord that bound the basin, which dropped down with a thud and startled the assembly. All those who witnessed this event were greatly delighted. A man in the assembly picked up the wooden basin and showed it to the woman, saying, “Is this your child?”
Ngay lúc ấy, mặt đất tự nhiên nứt ra, toàn thân cô gái ấy rơi xuống, đọa ngay vào địa ngục Vô gián, chịu đủ mọi khổ não.
At that time the earth cracked open and the woman fell alive into the hell of uninterrupted pain to suffer retribution.
Ba hố sâu vừa nói trên đều như không đáy. Mùa thu, mùa hạ, mưa đổ dầm dề, hồ ao sông suối đều tràn ngập nước, nhưng các hố sâu này không có nước đọng.
All these three pits are bottomless and during the autumn and summer seasons, when torrential rains inundate the ditches and pools, water never collects in them.
Về phía đông của tinh xá Kỳ viên, cách khoảng 100 - 120 mét, có một tinh xá cao khoảng 20 mét, trong đó có một tượng Phật ngồi xoay mặt về hướng đông. Đây chính là nơi ngày xưa đức Như Lai luận nghị [khuất phục] các ngoại đạo.
Sixty or seventy paces to the east of the monastery is a temple over sixty feet high, in which there is an image of the seated Buddha facing toward the east. The Tathagata once held a discussion with the heretics at this place.
Kế tiếp về hướng đông lại có một đền thờ Phạm thiên, kích thước bằng như tinh xá. Buổi sáng mặt trời lên, nắng chiếu bóng của đền thờ không che đến tinh xá. Buổi chiều khi mặt trời sắp lặn thì bóng của tinh xá phủ lên đền thờ.
Further to the east is a deva temple, of the same size as the Buddhist temple. At sunrise the shadow of the deva temple does not fall on the Buddhist temple, but at sunset the shadow of the Buddhist temple covers the deva temple.
900b
Từ chỗ tinh xá này đi về hướng đông khoảng 1.3 km có một ngọn tháp, chính là nơi tôn giả Xá-lợi tử luận nghị cùng ngoại đạo.
Three or four li to the east of the overshadowing temple is a stupa built at the place where Venerable Sariputra had a discussion with the heretics.
Ban đầu, khi Trưởng giả Thiện Thí mua vườn của Thái tử Thệ-đa, muốn vì đức Như Lai mà xây dựng tinh xá, Tôn giả Xá-lợi tử đi theo trưởng giả để xem xét tìm nơi thích hợp. Lúc đó, bọn sáu thầy ngoại đạo đòi tỷ đấu thần lực. Ngài Xá-lợi tử đã nương theo việc này để nhiếp hóa, hàng phục những người theo ngoại đạo.
At the time Elder Sudatta first purchased Prince Jeta’s garden with the intention of building a temple for the Tathagata, Venerable Sariputra went together with the elder to make a survey of the plot. The teachers of the six heretical schools challenged him to a contest in demonstrating supernatural powers. Acting according to circumstances in carrying out edification, Sariputra subdued the heretics in conformity with their propensities.
Bên cạnh mặt trước của tinh xá có một ngọn tháp, là nơi Như Lai phá trừ ngoại đạo cùng nhận lời thỉnh cầu của bà Tỳ-xá-khư.
In front of the temple and beside the [Sariputra] stupa there is another stupa built at the spot where the Tathagata defeated various heretics [in debate] and also accepted the invitation of Mother Visakha.
Phía nam của ngọn tháp này là nơi vua Tỳ-lô-trạch-ca kéo quân đến để giết sạch họ Thích nhưng gặp Phật liền lui binh về.
To the south of the stupa of accepting the invitation is the place where King Virudhaka (formerly known as “Lord of Piliuli” erroneously), on his way to invade the Sakyas, saw the Buddha and turned back his army.
Vua Tỳ-lô-trạch-ca sau khi nối ngôi muốn rửa hận việc bị [người họ Thích] làm nhục trước đây nên huy động đại binh, sắp xếp vừa xong thì thân hành dẫn quân sang đánh. Lúc đó có vị tỳ-kheo nghe tin liền bạch Phật. Đức Thế Tôn liền đến ngồi dưới một gốc cây khô [bên đường chờ đón]. Vua Tỳ-lô-trạch-ca từ xa nhìn thấy đức Thế Tôn liền xuống ngựa kính lễ, rồi lui về phía sau đứng, thưa hỏi: “[Gần đây] có cây cành lá sum suê che mát sao ngài không ngồi, lại ngồi dưới một gốc cây khô trơ trụi?”
After ascending the throne King Virudhaka raised an army and mobilized his people to avenge a former insult. When his troops were deployed he ordered them to march. A bhiksu got wind of this and informed the Buddha about it. The World-honored One then went to sit under a withered tree. When King Virudhaka saw the World-honored One from a distance, he dismounted to worship him and stood to one side, asking, “Why do you not sit under a tree with luxuriant branches and rich foliage, but instead stay under this tree with dead branches and withered leaves?”
Đức Thế Tôn đáp rằng: “Người cùng tộc họ cũng như cành lá [che mát], cành lá mà gặp nguy thì bóng mát còn đâu nữa?”
The World-honored One said in reply, “My clansmen are like branches and leaves to me. Now that they are in danger where can I find shelter?”
Vua nói: “Đức Thế Tôn muốn vì người trong tộc họ của mình đây mà. Ta nên quay về thôi.”
The king remarked, “The World-honored One is speaking for his clanspeople. I should go back.”
Vua gặp Phật nên trong lòng cảm động, liền lui quân về nước.
He looked at the Buddha and, moved by his compassion, he recalled his army.
Kế bên chỗ nhà vua lui quân, có một ngọn tháp, chính là nơi những người phụ nữ họ Thích bị sát hại.
Near the place of withdrawing troops is a stupa marking the spot where the Sakya maidens were slaughtered.
Vua Tỳ-lô-trạch-ca thành công trong việc giết sạch [nam giới] cả dòng họ Thích, lại chọn 500 cô gái họ Thích đưa vào nội cung [phục vụ]. Những cô gái họ Thích vì quá giận dữ, không kiềm được lời oán hận, mắng nhiếc nhà vua: “Ngươi là con của đứa nô tỳ.” Vua nghe như vậy nổi giận, liền ra lệnh giết. Người thi hành lệnh y theo lời vua, [mang 500 cô gái ấy ra] chặt hết chân tay rồi ném vào hầm sâu. Lúc bấy giờ, các cô gái họ Thích đau đớn khổ sở nên đồng thanh xưng danh Phật. Đức Thế Tôn quán chiếu biết rõ cảnh khổ của họ, liền bảo các thầy tỳ-kheo cùng ngài đi đến đó, vì họ mà thuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, chỉ rõ do sự ràng buộc của năm món dục mà [chúng sinh] phải lưu chuyển trong ba đường ác, cứ trải qua ân ái rồi ly biệt, sống chết nối nhau lâu dài mãi mãi. Lúc ấy, những người con gái họ Thích nghe lời Phật răn dạy rồi, [trong tâm] liền xa lìa hết ô nhiễm cõi trần, chứng được mắt pháp thanh tịnh, tất cả đều cùng lúc qua đời, cùng được sinh lên cõi trời. Lúc ấy, Thiên Đế Thích hóa làm một người bà-la-môn thu nhặt thi hài của họ mang đi hỏa táng. Người đời sau đã ghi chép lại chuyện này.
After King Virudhaka won the battle against the Sakyas he selected five hundred Sakya maidens for his harem. The Sakya maidens indignantly uttered resentful words and insolently disparaged the king as the son of a slave. When the king heard about this he was enraged and ordered that the Sakya maidens be slaughtered. By the king’s order the executioners severed [the women’s] hands and feet and threw them into a pit. The Sakya maidens, suffering bitter pain, called on the Buddha. The World-honored One saw the sad plight of the maidens with his eye of discemmen, and ordered a bhiksn to send some clothes to the maidens. He then went to preach the wonderful Dharma to them, such as the bondage of the five desires, the three ways of transmigration, and the long and distant course of rebirth with the pain of separation from loved ones. On hearing the Buddha’s teachings the Sakya maidens got rid of defilements and gained the pure eye of the Dharma. They all died at the same time and were reborn in heaven. Indra appeared as a brahman and had their bodies collected and cremated. People of later times recorded this event.
Không xa bên cạnh ngọn tháp ghi dấu nơi sát hại những người con gái họ Thích có một hồ lớn khô kiệt nước. Đây là nơi vua Tỳ-lô-trạch-ca bị vùi lấp toàn thân, đọa vào địa ngục.
Not far from the stupa of the slaughter of the Sakya maidens is a large dried-up pool where King Virudhaka fell into hell.
Đức Thế Tôn đến chỗ những cô gái họ Thích rồi, khi về lại vườn Cấp Cô Độc liền nói với các vị tỳ-kheo: “Giờ đây, vua Tỳ-lô-trạch-ca sau bảy ngày nữa sẽ bị lửa thiêu.”
After visiting the Sakya maidens the World-honored One returned to Anathapindika Garden and told the bhiksus, “ King Virudhaka will be burned to death after seven days.”
Vua nghe Phật báo trước như vậy, hết sức lo lắng sợ hãi. Cho đến ngày thứ bảy vẫn được an ổn chưa gặp nguy hiểm, vua muốn làm tiệc ăn mừng, liền ra lệnh cho cung nữ cùng đi đến bờ sông ăn uống vui chơi. Nhưng vì sợ lửa thiêu [như lời Phật nói] nên vua cho chèo thuyền nhẹ ra sông, thả trôi theo sóng nước, [vui chơi trên đó]. Đột nhiên thuyền bốc lửa, thiêu rụi cả thuyền, rồi toàn thân vua từ trên thuyền rơi thẳng xuống đọa vào địa ngục Vô Gián, chịu đủ mọi sự khổ não.
Hearing the Buddha’s prediction, the king became very frightened. [But] on the seventh day the king was as happy as ever and had no [feeling of] danger. To celebrate, he ordered the ladies of his harem to accompany him on an outing to the riverside for merrymaking. But he still feared that a fire might occur, so he sailed in a boat and drifted with the waves of the river. A blazing fire suddenly broke out and burned the light boat and the king was thrown alive into the hell of uninterrupted torture.
Từ chỗ tinh xá này đi về hướng tây bắc khoảng 1-1.4 km thì đến rừng Đắc Nhãn. Nơi đây có di tích nơi đức Như Lai kinh hành và các vị thánh tu tập thiền định. Tất cả đều được rào chắn và có bảng ghi dấu hoặc xây dựng tháp.
Going three or four li to the northwest of the monastery I reached the Wood of Regaining Eyes. There are places where the Tathagata walked up and down and various saints practiced meditation and stupas were built to mark the sites.
Thuở xưa, nơi đây có một bọn cướp năm trăm tên, hoành hành khắp trong thôn xóm. Vua Thắng Quân bắt được rồi, ra lệnh móc mắt, thả vào rừng sâu. Bọn trộm đau đớn khổ sở quá, cầu khẩn xưng danh Phật. Lúc đó, Như Lai đang ở tinh xá Thệ-đa, nghe được tiếng cầu khẩn bi thương của họ liền khởi tâm từ bi, tạo một cơn gió mát êm dịu đưa cỏ thuốc từ Tuyết Sơn đến đắp lên mắt họ, khiến cho được sáng mắt như trước. Vừa mở mắt ra liền nhìn thấy đức Thế Tôn đứng trước mặt, tất cả đều vui mừng phát tâm Bồ-đề, cung kính lễ Phật, sau đó vất bỏ gậy gộc rồi đi. [Những cây gậy ấy] bén rễ xuống đất, mọc lên thành cây rừng.
In this country there was a band of five hundred brigands that ran amok in the villages and plundered the cities. King Prasenajit arrested them, put out their eyes, and threw them into a great forest. Suffering the painful torture of this punishment, the bandits sorrowfully called on the Buddha. The Tathagata was at Jetavana Temple, and he heard their pitiful voices and had compassion on them. A cooling breeze blew mildly and wafted some medicine down from the Snow Mountains, which filled their eyes and they recovered their eyesight. On seeing the World-honored One standing before them they cherished the mind of enlightenment (bodhicitta), worshiped him with happiness, and departed after throwing down their staves, which then took root in the ground.
Từ kinh thành đi về hướng tây bắc hơn 20 km lại có một thành cổ. Đây là nơi trong Hiền kiếp này, lúc tuổi thọ con người là 20.000 tuổi, có đức Phật Ca-diệp-ba ra đời. Phía nam thành này có một ngọn tháp, là nơi sau khi thành Chánh giác đức Phật [Ca-diệp-ba] lần đầu gặp lại phụ thân. Phía bắc thành phía bắc cũng có một ngọn tháp, là nơi lưu giữ xá-lợi toàn thân của đức Phật Ca-diệp-ba. Tất cả tháp đều do vua Vô Ưu xây dựng.
More than sixty li to the northwest of the great city is an ancient city that was the birthplace of Kasyapa Buddha, who was born in the bhadrakalpa (period of virtue) at the time when the human life span was twenty thousand years. To the south of the city is a stupa marking the spot where he first met his father after having realized full enlightenment. The stupa to the north of the city contains the entire body of Kasyapa Buddha and all of these stupas were erected by King Asoka.
Từ nơi đây đi về hướng đông nam hơn 163 km thì đến nước Kiếp-tỷ-la-phạt-tốt-đổ, thuộc miền Trung Ấn.
Going from here to the southeast for over five hundred li, I reached the country of Kapilavastu (formerly mistranscribed as Jialuowei, in the domain of Central India).
2. Nước Kiếp-tỷ-la-phạt-tốt-đổ
Nước Kiếp-tỷ-la-phạt-tốt-đổ chu vi khoảng 1.300 km, có mười mấy khu thành trống không, hoang phế vô cùng. Vương thành [khi xưa giờ] hư sụp đổ nát, phạm vi không còn xác định được, chỉ còn phần thành nội chu vi khoảng 4.6-4.9 km, xây bằng gạch nung, nền cao chắc chắn, hoang vắng đã lâu, dân cư thưa thớt.
The country of Kapilavastu is more than four thousand li in circuit and there are two palace cities, which are completely deserted. The wall of the royal city is dilapidated and its circumference is unknown. The inner palace city is fourteen or fifteen li in circuit and its wall is built of bricks; the foundation is thick and strong. The country has been deserted for a long time and is sparsely populated.
Trong nước không có vua, mỗi thành đều tự lập người cai quản. Đất đai màu mỡ, lúa má gieo trồng theo thời vụ, khí hậu điều hòa, phong tục ôn hòa dễ chịu. Có hơn ngàn nền chùa cổ nhưng kế bên cung thành nay chỉ có một ngôi chùa, tăng sĩ hơn 30 vị, đều tu tập theo phái Chính lượng thuộc Tiểu thừa. Đền thờ Phạm thiên có hai nơi, ngoại đạo các phái chung sống lẫn lộn.
There is no grand rider and each city has its own lord. The soil is rich and crops are sown and reaped in season. The climate is never abnormal and the people are genial by custom. There are more than one thousand ruined foundations of old monasteries and beside the palace city is a monastery inhabited by over three thousand monks, who study the Hinayana teachings of the Sammitiya school. There are two deva temples, with heretics living together.
Bên trong cung thành còn một nền móng cổ, là cung điện chính của vua Tịnh Phạn, trên đó có xây dựng một tinh xá, bên trong có tượng của nhà vua.
Inside the palace city is the old foundation of the main audience hall of 901a King Suddhodana. A statue of the king is placed in a shrine built on the old foundation.
Cách đó không xa có một nền cổ khác, chính là hậu cung của phu nhân Ma-ha-ma-da. Trên khu nền cũ này cũng có xây dựng một tinh xá và trong đó có tượng của phu nhân. Tinh xá kề bên đó là nơi Bồ Tát Thích-ca giáng thần vào thai mẹ, bên trong có tượng Bồ Tát giáng thần.
Not far from this is the old foundation of Lady Mahamaya’s bedchamber. A statue of the lady is kept in a shrine built on the old foundation. Beside it is another shrine, marking the place where Sakya Bodhisattva’s spirit descended to incarnate in his mother’s womb, and in this shrine there is a likeness depicting the Bodhisattva’s spirit [entering his mother’s womb].
Theo Thượng tọa bộ thì Bồ Tát giáng thần vào thai mẹ nhằm đêm ba mươi của tháng ốt-đa-la át-sa-đồ, nhằm vào ngày 15 tháng 5 [theo lịch Trung Hoa]. Các bộ phái khác đều cho rằng Bồ Tát giáng thần vào thai mẹ đêm 23 cùng tháng đó, nhằm ngày mồng 8 tháng 5.
According to the tradition of the Sthavira sect, the Bodhisattva’s spirit entered his mother’s womb on the night of the thirtieth day of the month of Uttara- Asadha, corresponding to the fifteenth day of the fifth month in our country. The tradition of the other sects holds that this event took place on the night of the twenty-third day of that month, corresponding to the eighth day of the fifth month in our land.
Từ nơi Bồ Tát giáng thần, nhìn về hướng đông bắc có một ngọn tháp, là nơi vị tiên A-tư-đa xem tướng thái tử.
To the northeast of the place of the descent of the Bodhisattva’s spirit there is a stupa marking the place where the rsi Asita read the prince’s physiognomy.
Ngày Bồ Tát đản sanh có rất nhiều điềm lành hội tụ. Vua Tịnh Phạn cho mời các vị thầy đoán tướng đến hỏi rằng: “Đứa con này sanh ra, tương lai lành dữ thế nào, các ông hãy nói cho thật rõ ràng chính xác.”
On the day when the Bodhisattva was born many fortunate and auspicious signs appeared simultaneously. King Suddhodana summoned various physiognomists and said to them, “Now a son has been born to me. What is his future, good or evil? Tell me straight in plain words.”
Đáp rằng: “Cứ theo như ghi chép của các bậc thánh xưa và khảo sát các điềm lành tương ứng [thì biết rằng, Thái tử] nếu ở đời sẽ làm Chuyển luân Thánh vương, nếu xuất gia sẽ thành bậc Đẳng Chánh Giác.”
They said, “According to the records of ancient sages and the appearance of good signs the prince will be a universal monarch if he remains at home, and if he renounces home he will become a fully enlightened person.”
Lúc bấy giờ, tiên A-tư-đa từ xa tìm đến, xin được diện kiến. Vua hết sức vui mừng, cung kính đón tiếp, kính lễ rồi mời ngồi trên tòa báu, thưa rằng: “Thật không ngờ hôm nay được đại tiên hạ cố giáng lâm.”
At that time the rsi Asita came from a distance and knocked on the door, requesting an audience. The king, greatly delighted, greeted the rsi and paid him due salutation. He invited the rsi to sit on a precious seat and said to him, “I did not expect that you, Great Rsi, would condescend to favor me with your presence today.”
Tiên A-tư-đa nói: “Ta đang ngồi yên ổn ở thiên cung, bỗng thấy chư thiên kéo nhau từng đoàn ca múa, liền hỏi: ‘Có việc gì các vị vui mừng đến thế?’ Chư thiên đáp rằng: ‘Đại tiên nên biết, đệ nhất phu nhân của vua Tịnh Phạn thuộc dòng họ Thích ở châu Nam Thiệm-bộ vừa hạ sanh thái tử, tương lai sẽ chứng quả Chánh giác, thành tựu Nhất thiết trí.’ Ta nghe như vậy nên tìm đến đây để chiêm nguỡng. Chỉ buồn cho ta nay đã già yếu, không thể chờ đến lúc Đại Thánh giáo hóa.”
The rsi said, “When I was sitting at ease in the heavenly palace I suddenly saw the heavenly beings dancing for joy. I asked them why they were so exhilarated. They said, ‘We should inform you, Great Rsi, that the first lady of King Suddhodana of the Sakya clan in Jambudvipa has given birth to a son today, who will attain perfect enlightenment and omniscient wisdom.’ Because I have heard this information, I have come to see him. I regret that I am getting old and I will not be able to hear his holy teachings.”
Cửa thành phía nam có một ngọn tháp, là nơi thái tử và các [thanh niên] họ Thích đọ sức, từng ném [xác] một con voi.
At the south gate of the city there is a stupa marking the place where the Prince Siddhartha wrestled with other Sakyas in a contest and threw an elephant [over the city moat].
Thái tử vốn nhiều tài nghệ, vượt xa hẳn những bạn cùng lứa. Vua Tịnh Phạn mừng vui khi nghe thái tử sắp trở về, liền sai người quản tượng chuẩn bị đưa voi ra ngoài thành đón. Đề-bà-đạt-đa vốn luôn cậy vào sức mạnh của mình, lúc ấy từ bên ngoài đi vào hỏi người quản tượng: “Chuẩn bị kiệu voi trang nghiêm thế này, để cho ai cưỡi vậy?” Người quản tượng đáp: “Thái tử sắp về nên đưa đến cho ngài cưỡi.”
A versatile youth, the prince was peerless and had no equal. When King Suddhodana [heard that his son] was on his way back home in a cheerful mood, he asked his mahout to drive an elephant out of the city to greet him. Devadatta, always boastful of his strength, was then coming into the city and asked the mahout, “You have caparisoned the elephant nicely; who is going to ride it?” The mahout said, “Prince Siddhartha is coming home. I am going out to serve him.”
Đề-bà-đạt-đa [nghe như vậy] nổi giận [vì ganh tức với thái tử], liền đến bên voi, dùng tay đấm vào trán voi, dùng chân đá vào bụng voi, khiến voi ngã lăn ra chết, nằm chặn giữa đường, không ai dịch chuyển nổi xác voi. Người đi đường đều bị cản trở, ùn tắc không qua lại được. Vương tử Nan-đà đến sau hỏi rằng: “Ai giết chết con voi này?”
Devadatta, irritated by these words, drew up next to the elephant, struck its forehead, and kicked its abdomen. The animal fell to the ground and its body obstructed the road, creating a hindrance in the way, but nobody could remove it. Later, Nanda came and inquired, “Who killed this elephant?”
Mọi người đáp: “Là Đề-bà-đạt-đa.”
“Devadatta,” was the reply.
Nan-đà liền kéo [xác voi] tránh ra ven đường. Khi thái tử đến lại hỏi: “Ai đã làm việc độc ác, giết chết con voi này?”
Nanda then pulled the dead elephant aside to the edge of the road.
When the
901b prince arrived, he also asked, “Who is so wicked as to have killed this elephant?”
Có người đáp rằng: “Đề-bà-đạt-đa giết chết voi làm bít cửa thành, Nan-đà kéo sang một bên để mở lối đi.”
to which was replied, “It was Devadatta who killed this elephant to blockade the city gate and Nanda pulled it aside to clear the way.”
Thái tử liền nâng xác voi ném lên cao, bay qua khỏi hào sâu quanh thành. Chỗ xác voi rơi xuống lún thành một cái hầm lớn, dân gian thường gọi là hầm Voi Rơi.
The prince then lifted up the dead elephant and flung it across the moat. When the corpse of the elephant fell to the ground it made a great pit, called by tradition the Pit of the Falling Elephant.
Kế bên [tháp ở cửa thành phía nam] có một tinh xá, bên trong có tượng của Thái Tử. Cạnh đó lại có một tinh xá khác, là [vị trí] hậu cung Thái tử phi [ngày trước], trong đó có tượng của Da-du-đà-la và La-hỗ-la. Bên cạnh lại có một tinh xá, dựng tượng thái tử trong tư thế đang học tập. Nơi đây chính là nền cũ ngôi trường học của thái tử.
In the shrine beside the pit is a statue of the prince. Another shrine beside it marks the site of the bedchamber of the prince’s consort, where statues of Yasodhara and Rahula are kept. In the shrine beside the palace is a statue [of the prince] in the posture of learning; this was the old site of the prince’s schoolroom.
Ở góc thành phía đông nam có một tinh xá, trong có tượng thái tử cưỡi ngựa trắng phi trên hư không. Đây là nơi thái tử vượt thành [ra đi xuất gia].
At the southeast corner of the city there is a shrine in which is a picture of the prince riding on a white horse galloping in the air. This is the place where he went out over the city wall.
Bên ngoài bốn cửa thành có bốn tinh xá, [tùy theo nơi] mà bên trong đó có tượng [thể hiện] người già, người bệnh, người chết và tượng sa-môn.
Outside the four gates of the city, there are four shrines, separately keeping the statues of an aged man, a sick man, a dead man, and a sramana.
[Thuở xưa,] thái tử sau khi dạo chơi [ra bốn cửa thành, lần đầu tiên] thấy các tướng [già, bệnh, chết] thì càng thêm ưu tư trong lòng, hết sức chán bỏ trần tục, nhân đó có sự xúc cảm và nhận biết [về cuộc nhân sinh], liền ra lệnh cho người đánh xe quay về.
These were the places where the prince witnessed on a pleasure trip the sorrowfid sights by which he was moved to disgust at worldly life, at which awakening he ordered the driver to him his carriage back and head for home.
Từ thành này đi về phía nam đi hơn 16 km thì gặp một thành cổ, trong có một ngọn tháp. Đây là nơi đản sinh của đức Phật Ca-la-ca-thôn-đà trong Hiền kiếp này, vào thời mà tuổi thọ trung bình của con người là 60.000 tuổi. Cách thành này về phía nam không xa có một ngọn tháp, là nơi [đức Phật Ca-la-ca-thôn-đà lần đầu tiên] gặp lại phụ thân sau khi thành Chánh Giác.
Going southward for more than fifty li from the city, I reached an old city with a stupa. This was the natal city of Krakucchanda Buddha at the time of the bhadrakalpa when the human life span was sixty thousand years. Not far to the south is a stupa marking the place where this buddha met his father after attaining full enlightenment.
Phía đông nam của thành này có một ngọn tháp, trong có xá-lợi di thân của đức Như Lai [Ca-la-ca-thôn-đà]. Phía trước tháp có dựng trụ đá cao hơn 10 mét, phía trên khắc hình tượng sư tử, bên cạnh [khắc chữ] ghi lại sự kiện [đức Phật] nhập diệt. Tháp và trụ đá đều do vua Vô Ưu xây dựng.
Inside the stupa at the southeast of the city the remains of Krakucchanda are contained, and in front of the stupa is a stone pillar over thirty feet high with a carving of a lion on top; the events of his nirvana are inscribed on its sides. This pillar was erected by King Asoka.
Từ thành này đi về hướng đông bắc khoảng 10 km thì đến một thành cổ rất lớn, trong có một ngọn tháp, là nơi đức Phật Ca-nặc-ca-mâu-ni đản sinh trong Hiền kiếp này, vào lúc tuổi thọ trung bình của con người là 40.000 tuổi.
Going northeast for more than thirty li from the city of Krakucchanda Buddha I reached a great ancient city with a stupa. This was the city where Kanakamuni Buddha was born in the bhadrakalpa at the time when the human life span was forty thousand years.
Không xa về phía đông bắc có một ngọn tháp, là nơi [đức Phật Ca-nặc-ca-mâu-ni] sau khi thành Chánh Giác đã hóa độ phụ thân. Tiếp theo về phía bắc cũng có một ngọn tháp, trong có xá-lợi di thân của đức Như Lai Ca-nặc-ca-mâu-ni, phía trước có dựng trụ đá cao gần 7 mét, phía trên có khắc hình sư tử, bên cạnh [khắc chữ] ghi lại sự kiện [đức Phật] nhập diệt. Tháp và trụ đá đều do vua Vô Ưu xây dựng.
Not far to the northeast is a stupa marking the place where this buddha converted his father after attaining full enlightenment. Further to the north is a stupa containing Kanakamuni’s remains. In front of the stupa is a stone pillar over twenty feet high with the carving of a lion on top; the events of his nirvana are inscribed on its sides. This pillar was erected by King Asoka.
Từ thành này đi về hướng đông bắc khoảng 13 km có một ngọn tháp, là nơi ngày xưa thái tử ngồi dưới bóng cây xem cày ruộng, nhân đó ngài nhập định, chứng pháp ly dục. Vua Tịnh Phạn nhìn thấy thái tử ngồi dưới bóng cây nhập định, mặt trời ngày càng lên cao mà chỗ bóng cây [che mát thái tử] vẫn không di động, trong lòng vua cảm nhận được sự thiêng liêng thánh thiện nên càng thêm kính quý.
More than forty li to the northeast of the city is a stupa that marks the spot where Prince [Siddhartha] once sat under the shade of a free, watching farmers plowing the land, and practiced meditation through which he became free of the passions. King Suddhodana saw the prince sitting in meditation under the shade of the tree, and he noticed that the shadow of the tree never moved even as the sunlight changed the direction. Reminded that the prince was a saintly person, the king treasured and respected him all the more.
Về phía tây bắc của thành này có đến mấy trăm ngàn ngọn tháp, là nơi dòng họ Thích bị tàn sát.
In the northwest of the city are hundreds and thousands of stupas built at the place where the Sakyas were slaughtered.
[Thuở xưa,] vua Tỳ-lô-trạch-ca đánh thắng họ Thích, bắt hết người trong tộc họ, tổng cộng 99.900.000 người, đều mang ra giết sạch, xác người la liệt phủ kín mặt đất, máu chảy đọng thành ao hồ. Chư thiên muốn lay động lòng người nên thu nhặt hết thi hài chôn cất.
After overcoming the Sakyas King Virudhaka captured ninety-nine million nine hundred thousand Sakya people and massacred them all. The corpses were piled up like haystacks and blood flowed into a pool. The corpses were collected and buried amid the panic of heavenly beings and the terror in human minds.
Phía tây nam của khu vực họ Thích bị tàn sát, có bốn ngọn tháp nhỏ, là nơi bốn người họ Thích kháng cự [quân của vua Tỳ-lô-trạch-ca].
To the southwest of the place where the Sakyas were slaughtered are four small stupas built at the spots where four Sakya men resisted the [invading] army.
[Thuở xưa,] vua Thắng Quân lên ngôi rồi, sang cầu hôn với người họ Thích. Họ Thích khinh chê vua thuộc dòng tộc kém hơn mình nên lừa dối lấy người con gái của một nữ tỳ gả cho. Vua Thắng Quân [lúc đó không biết] lập làm chánh hậu, rồi sinh ra một người con trai, chính là vua Tỳ-lô-trạch-ca [sau này].
When King Prasenajit first succeeded to the throne he sought a matrimonial alliance with the Sakya clan. The Sakyas despised him as someone who was not of the same caste and, with pompous ceremony, they deceitfully gave him a slave girl to be his bride. King Prasenajit made the girl his chief queen and their son was King Virudhaka.
Tỳ-lô-trạch-ca muốn về bên họ ngoại để học hỏi rèn luyện các kỹ năng. Lúc đến thành phía nam thấy một giảng đường mới xây, liền vào trong đó tạm nghỉ ngơi. Người họ Thích biết được liền đuổi ra, lại nhiếc mắng rằng: “[Ngươi là] con của tỳ nữ hèn hạ, sao dám vào giảng đường này! Nhà này do họ Thích xây dựng là để cúng dường đức Phật.”
Virudhaka wished to pursue his studies under the guidance of his maternal uncle. When he came to the south of the city he saw a new lecture hall and went in to take a rest. Hearing this, the Sakyas chased him while out chastising him, “How dare you, the son of a slave woman, stay in this hall?” The hall had been built by the Sakyas for the Buddha’s use.
Vua Tỳ-lô-trạch-ca sau khi nối ngôi, muốn rửa mối nhục ngày trước nên huy động quân binh, kéo đến đóng quân tại vị trí này. [Lúc đó,] bốn người họ Thích đang cày ruộng, liền lập tức xông ra kháng cự, đánh cho quân địch tán loạn thối lui, rồi mới quay vào trong thành. Những người họ Thích trong thành cho rằng, [họ Thích] kế thừa phúc lộc ông cha là Chuyển luân vương, lại là cùng tông tộc với đấng Pháp vương, mà nay [bốn người này] lại dám có hành vi hung bạo, nhẫn tâm giết hại [quân địch], thật là làm ô nhục tông môn, nên họ quyết định cắt đứt tình thân tộc, trục xuất bốn người này phải đi thật xa.
After ascending the throne, Virudhaka made up his mind to avenge the previous insult and stationed an army at this place. There were four Sakya men there, who were plowing the land, and they resisted and dispersed the invading army. Then the four men entered the city but their clans- people thought that, as the descendants of a universal monarch and the offspring of a dharmaraja, should not have dared to commit violence and so complacently kill others. Because they had blemished the clan’s good name they were expelled from the clan and banished,
Bốn người họ Thích bị trục xuất cùng theo hướng bắc, hướng về Tuyết sơn mà đi. [Về sau,] một người làm vua nước Ô-trượng-na, một người làm vua nước Phạm-diễn-na, một người làm vua nước Hứ-ma-đát-la và một người làm vua nước Thương-di, đời đời truyền nối cơ nghiệp, con cháu nối dòng không dứt.
exiled to the Snow Mountains in the north.
One of the four Sakyas became the king of Udyana, one the king of Barmyana, one the king of Himatala, and one the king of Shangmi. They handed down their dominions to their descendants from generation to generation without interruption.
Về phía nam của thành, cách khoảng 1-1.4 km, trong rừng cây ni-câu-luật có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi đức Phật Thích-ca sau khi thành Chánh Giác quay về nước gặp lại phụ vương, vì cha thuyết pháp.
Three or four li to the south of the city, in a banyan wood, is a stupa built by King Asoka. This was the place where Sakya Tathagata, returning home after having gained full enlightenment, saw his father and preached the Dharma for him.
Vua Tịnh Phạn sau khi biết rằng Như Lai đã hàng phục được ma quân và đang đi hóa độ nhiều nơi, trong lòng rất khao khát được gặp mặt kính lễ, liền sai sứ đến thỉnh Như Lai, dặn nói rằng: “Trước đây ngài có hẹn khi thành Phật rồi sẽ quay về quê quán, lời hứa này như vẫn còn bên tai, nay đã đến lúc xin cất bước quay về.”
Knowing that the Tathagata had subdued the army of Mara, the Evil One, and was traveling around to edify the people, King Suddhodana was eager to see him and pay homage to him. So he dispatched a messenger to invite the Tathagata with these words: ‘‘Formerly you promised to return to your native country after becoming a buddha. Your words are still ringing in my ears and it is time now for you to him your steps toward home.”
Sứ giả đến chỗ Phật nói rõ ý vua, Như Lai nói: “Bảy ngày nữa ta sẽ trở về quê quán.”
The messenger came into the Buddha’s presence and related the king’s message. The Tathagata told him, “After seven days I will return to my home country.”
Sứ giả về tâu lên, vua Tịnh Phạn liền ra lệnh cho dân chúng quét dọn đường sá, chuẩn bị sẵn hương hoa và cùng quần thần ra khỏi thành hơn 13 km, chờ để nghinh tiếp. Lúc bấy giờ, đức Như Lai cùng đi với đại chúng, tám vị thần Kim cương hộ vệ chung quanh, bốn thiên vương dẫn đường phía trước, Đế Thích và chư thiên các cõi trời Dục giới theo hầu bên trái, Phạm vương cùng chư thiên các cõi trời Sắc giới theo hầu bên phải, các vị tỳ-kheo đi thành hàng phía sau. Đức Phật nổi bật lên giữa đại chúng như mặt trăng ở giữa các vì sao, uy thần chấn động khắp Ba cõi, hào quang chiếu sáng hơn cả ánh sáng của mặt trời, mặt trăng và 5 vì sao lớn, bước đi trên hư không về lại nơi sinh của mình.
The messenger returned and reported this message to the king. So King Suddhodana ordered his ministers and the people to sprinkle water and sweep the roads and streets and prepare flowers and incense ready for use. Accompanied by his ministers, he went out to a distance of forty li to wait for the Buddha’s arrival.
At that time the Tathagata and his retinue of disciples, protected by the eight diamond (yajra) guardians and with the four heavenly kings as vanguards, with Indra and the celestial beings of the kamadhatu (realm of sensual desire) attending on his left and Brahma and the celestial beings of the rupa- dhcitu (realm of pure form) attending on his right, and with all the bhiksus following behind, walked through the air to his home country. In the assembly the Buddha was like the moon among the stars; his austerity moved all the three realms of the world and his radiance surpassed the light of the seven luminaries.
Vua Tịnh Phạn cùng triều thần lễ kính rồi lui về trong thành, [đức Phật cùng chư tỳ-kheo] nghỉ lại ở chùa Ni-câu-lô-đà.
After the king and his ministers had worshiped the Buddha they all returned to the capital city, and the Buddha stayed at Banyan Monastery.
Không xa bên cạnh [ngọn tháp nơi đức Phật gặp lại vua cha], có một ngọn tháp là nơi [trước đây] Như Lai ngồi dưới gốc cây đại thọ, xoay mặt về hướng đông, thọ nhận áo cà-sa bằng tơ vàng của di mẫu ngài. Kế đến là ngọn tháp ghi dấu nơi Như Lai hóa độ 8 vương tử và 500 người họ Thích.
Not far from the monastery is a stupa marking the place where the Tathagata once sat under a big tree, facing east, and accepted the gift of a robe sewn with golden thread offered by his aunt. There is another stupa nearby, built at the place where the Tathagata converted eight princes and five hundred Sakya clanspeople.
Bên trong cửa thành phía đông, phía bên tay trái con đường có một ngọn tháp, là nơi ngày xưa thái tử Nhất Thiết Nghĩa Thành học tập, rèn luyện các kỹ năng, nghệ thuật. Bên ngoài cửa thành có đền thờ Tự Tại Thiên, trong đền có tượng Tự Tại Thiên Vương trong tư thế đứng dậy [nghinh tiếp], chính là [mô tả] khi thái tử [còn bé] được bế vào đền.
Inside the east gate of the city, on the left side of the road, is a stupa at the place where Prince Siddhartha practiced various skills and attainments. Outside the gate is an Isvara deva temple in which a stone image of Isvara in the posture of standing up is enshrined. This was the temple that the prince entered when he was in his swaddling clothes.
[Thuở xưa,] khi Vua Tịnh Phạn từ vườn Lạp-phạt-ni đón thái tử về thành, trên đường đi ngang qua đền này. Vua nói: “Ngôi đền này có nhiều sự linh ứng. Các đứa bé dòng họ Thích đưa đến đây cầu nguyện gia hộ đều được linh nghiệm. Nên đưa thái tử vào đây lễ kính.”
When King Suddhodana brought the prince home from Lumbini he passed by this temple on the way and said, “This deva temple often manifests spiritual responses and is sure to answer the prayers of Sakya children. The prince should be sent in to worship the deva. ”
Lúc bấy giờ, người bảo mẫu bế thái tử vào đền, tượng Tự Tại Thiên bằng đá liền đứng dậy để nghinh đón thái tử. Khi đưa thái tử đi ra rồi, tượng mới ngồi xuống.
The nurse brought the prince into the temple and the stone image of the deva stood up to greet him; when the prince left the deva image resumed its seat.
Bên ngoài cửa nam của thành, phía bên trái của đường đi có một ngọn tháp, là nơi thái tử và những thanh niên họ Thích cùng tỷ thí võ nghệ, bắn tên vào trống sắt. Từ chỗ này đi về hướng đông nam khoảng 11 km có một ngọn tháp nhỏ, bên cạnh có dòng suối, nước trong như soi gương. Khi thái tử cùng những thanh niên họ Thích thi thố sức mạnh giương cung, mũi tên thái tử bắn ra đã xuyên thủng trống [bằng sắt] rồi bay luôn đến tận hồ này, cắm vào lòng đất mất tích. Từ chỗ đó một dòng nước trong chảy vọt ra, người đời sau gọi là suối Bắn Tên. Những ai có bệnh uống nước suối này, rất nhiều người được khỏi bệnh. Những người từ xa đến lấy bùn [ở đây] mang về, tùy chỗ đau khác nhau đều lấy bùn nhão này bôi lên trán, sẽ được thần linh bảo hộ, nhiều người nhờ vậy được khỏi bệnh.
Outside the south gate of the city, on the left side of the road, is a stupa at the place where the prince, competing with other Sakyas in the arts of war, shot at iron drums. At a distance of more than thirty li to the southeast from here is a small stupa, beside which is a spring flowing with clear water. While competing with other Sakyas in the skill of archery, the prince drew his bow, and, as the arrow left the bow it pierced through the surface of the drums and hit the ground, sinking into the earth up to its fletching. The spring of pure water formed at that spot, by tradition called Arrow Spring. When people are sick they drink the water or bathe in it and in most cases they are cured. People travel from distant places to collect the clay of the spring and make it into a paste, which is applied on on the forehead whenever they have any ailment. As the clay is protected by spirits and deities it has a healing effect in most cases.
Từ suối Bắn Tên đi về hướng đông bắc khoảng 2.5-3 km thì đến rừng Lạp-phạt-ni, có hồ tắm của dòng họ Thích, nước trong như soi gương, các loại hoa mọc phủ khắp mặt đất. Từ hồ tắm nhìn sang phía bắc khoảng 40 mét có cây hoa vô ưu, giờ đã khô héo, chính là nơi linh địa Bồ Tát đản sanh. Bồ Tát đản sanh vào ngày mồng tám của tháng phệ-xá-khư (vesakha), nhằm ngày mồng tám tháng ba [theo lịch Trung Hoa]. Theo Thượng tọa bộ thì là ngày 15 tháng phệ-xá-khư, nhằm ngày 15 tháng 3 [theo lịch Trung Hoa].
Going northeast from the Arrow Spring for eighty or ninety li I reached Lumbini Wood, where there is a bathing pool full of transparent water, with flowers of different descriptions spreading all over the place. Twenty-four or twenty-five paces to the north of the pool is an asoka tree, now withered; this was the place where the Bodhisattva was born into the world. The Bodhisattva was born on the eighth day of the second half of the month of Vaisakha, corresponding to the eighth day of the third month in our calendar, though the Sthavira sect holds that it was on the fifteenth day of the second half of the month of Vaisakha, corresponding to the fifteenth day of the third month in our calendar.
Tiếp đến về phía đông có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi hai con rồng phun nước tắm thái tử.
Further east is a stupa built by King Asoka at the place where two dragons bathed the [newborn] prince.
Bồ Tát sanh ra liền tự đi không cần nâng đỡ, đi về bốn hướng, mỗi hướng bảy bước, và tự nói rằng: “Khắp trong trời đất chỉ có ta là cao quý nhất. Sanh ra lần này là dứt trừ sanh tử.” Theo mỗi bước đi của ngài, dưới chân đều mọc lên một đóa hoa sen lớn, rồi hai con rồng bỗng xuất hiện trên không trung cùng phun nước xuống, một vòi nước lạnh, một vòi nước ấm để tắm cho thái tử.
After he had been born the Bodhisattva walked seven steps unaided to each of the four quarters and announced, “In the heavens above and on the earth below, I am the sole Honored One! From now on I shall have no more rebirth.” Under each step a large lotus flower sprang up from the earth. Two dragons appeared in the air, one emitting 902b cool water and the other warm water, to bathe him.
Kế bên ngọn tháp rồng tắm thái tử, về hướng đông có hai dòng suối trong, bên cạnh có hai ngọn tháp, là nơi hai con rồng từ dưới đất vọt lên.
To the east of the stupa of bathing the prince are two lucid springs, beside which are two stupas built at the place where two dragons emerged from the earth.
Bồ Tát sanh ra rồi, những người trong hoàng tộc đều hối hả đi tìm nước để tắm cho thái tử. Khi ấy thì phía trước hoàng hậu ra bỗng có hai dòng suối chảy vọt ra, một ấm một lạnh, liền dùng nước đó để tắm rửa.
After the Bodhisattva was born his relatives and clanspeople hurried to get the water to wash themselves, and in front of Lady Mahamaya two springs, one cold and one hot, gushed out water for them bathe in.
Từ đây nhìn sang phía nam có một ngọn tháp, là nơi Thiên Đế Thích đón đỡ lấy Bồ Tát khi vừa sanh ra.
A stupa at the south marks the place where Indra received the Bodhisattva with both hands when the Bodhisattva was bom.
Khi Bồ Tát vừa ra khỏi thai mẹ, Thiên Đế Thích lập tức hiện ra quỳ xuống dùng tấm y huyền diệu của cõi trời đỡ lấy Bồ Tát.
Indra knelt down to catch him in a piece of wondrous celestial cloth.
Tiếp theo đó có bốn ngọn tháp, là nơi Tứ thiên vương nâng bế Bồ Tát [lúc vừa sinh ra].
Next are four stupas marking the place where the four heavenly kings carried the Bodhisattva.
Bồ Tát từ hông phải [mẫu thân] sinh ra, Tứ đại thiên vương dùng tấm y lụa quý màu vàng nâng Bồ Tát đặt lên giường vàng, rồi đến trước hoàng hậu thưa rằng: “Phu nhân sinh ra người con đầy phúc lành này, thật hết sức đáng mừng. Chư thiên còn vui mừng huống chi người trần thế?”
When the Bodhisattva was born from the right side of his mother the four heavenly kings caught him in a piece of golden-colored fine cotton and placed him on a small gold table, which they carried into the presence of his mother, saying “It is truly a joyous event for celebration that Your Ladyship has given birth to such a blessed son. Even the heavenly beings are delighted, not to speak of the human beings of the earth.”
Cách những ngọn tháp nơi Tứ thiên vương nâng bế thái tử không xa, có một trụ đá lớn, trên đầu chạm hình con ngựa, do vua Vô Ưu dựng lên, về sau bị con rồng dữ hóa ra sấm sét làm trụ bị gãy ngang ở giữa, ngã lăn trên mặt đất.
Not far from the stupa where the four heavenly kings carried the prince there used to be a great stone pillar erected by King Asoka, with the figure of a horse on top. It was later broken in the middle by a thunderbolt caused by an evil dragon, and half of it fell onto the ground.
Bên cạnh đó có một con sông nhỏ chảy về hướng đông nam, tục gọi là sông Dầu. Khi hoàng hậu Ma-da vừa sinh thái tử, chư thiên hóa ra hồ nước mát mẻ trong trẻo để phu nhân tắm gội sạch hết cáu bẩn và trừ những bệnh phong khí, hư tổn [hậu sản]. Ngày nay hồ nước ấy biến thành dòng sông này, vẫn còn dấu vết cáu bẩn và chất nhờn [như nước tắm thải ra].
Beside the broken pillar is a rivulet flowing toward the east, called Oil River by the local people. After Lady Mahamaya had given birth [to the prince] the heavenly beings produced a pool of lucent and pure water at this place for the lady to bathe herself, so as to wash off the soil and dust. It has now become [an oily stream of] water.
Từ nơi đây đi về hướng đông đều là rừng hoang đồng trống, khoảng 65 km thì đến nước Lam-ma, thuộc miền Trung Ấn.
From here going eastward for more than two hundred li through a wild jungle, I reached the country of Rama[grama] (in the domain of Central India).
Nước Lam-ma đã từ lâu hoang vu trống trải, ranh giới không xác định được, thành ấp đổ nát hoang tàn, dân cư hết sức thưa thớt.
The country of Rama has been deserted for many years and it has no boundary marks. The towns and villages are in ruins and are sparsely populated.
Phía đông nam của thành cổ có một ngọn tháp xây bằng gạch nung, cao khoảng 30 mét.
To the southeast of the old capital city is a brick stupa less than one hundred feet high, built by a former king of this country.
Thuở xưa, sau khi đức Như Lai nhập diệt, vua nước này đến chia được một phần xá-lợi mang về, theo đúng phép tắc xây dựng tháp này, thường có nhiều điều linh hiển, thỉnh thoảng lại có hào quang tỏa chiếu.
When the Tathagata had entered nirvana the king of this country obtained a portion of his relic bones, which he brought back to his own country; he built this stupa for paying homage to his share of the relics. It shows spiritual manifestations from time to time and often emits a divine light.
Bên cạnh tháp có một hồ nước trong, có con rồng mỗi lần ra khỏi hồ thì hóa hình thành rắn bò nhiễu trọn vòng quanh tháp theo hướng về bên phải. Voi rừng họp thành bầy cùng nhau [dùng vòi] hái hoa rải trên tháp, như có thần linh âm thầm hộ trì giám sát nên chưa từng gián đoạn.
Beside the stupa is a clear pool from which a dragon often emerges in the shape of a snake to worship the stupa, circumambulating it from left to right. Wild elephants come in groups to pick flowers and scatter them on the stupa, which has been under spiritual protection without cease.
Thuở xưa, khi vua Vô Ưu phân chia xá-lợi để xây tháp thờ phụng khắp nơi, những tháp có xá-lợi trước đây do bảy nước xây dựng đều đã mở ra [để lấy xá-lợi phân chia lại], liền đến nước này, chuẩn bị bắt đầu việc mở tháp. Long vương ở hồ này sợ vua lấy xá-lợi đi liền hóa thành một người bà-la-môn đến lễ trước đầu voi của vua thưa rằng: “Đại Vương có lòng lưu giữ Phật pháp, rộng tạo phước lành, kẻ hèn này bạo gan dám thỉnh đại vương khó nhọc một phen giáng lâm tệ xá.”
When King Asoka was constructing more stupas for the dissemination of the Buddha’s relic bones, he opened up the stupas formerly built in seven countries to take out the relic bones [for redistribution]. When he came to this country and was about to start working [on the stupa], the dragon of the pool, fearing that he might be deprived of the relics, appeared as a brahman and halted the king’s elephant, saying, “Your Majesty’s goodwill extends to the buddha-dharma and you have widely cultivated the field of blessedness. I venture to invite you to deign to visit my abode.”
Vua hỏi: “Nhà ông ở đâu, gần hay xa?”
The king said, “Where is your home? Is it far away or nearby?”
Người bà-la-môn đáp: “Tôi là Long vương ở hồ này, thấy đại vương muốn tạo phước đức nên mới dám đến thưa thỉnh.”
The brahman said, “I am the dragon king of this pool. As Your Majesty wishes to perform superior deeds of blessedness, I have ventured to come and beg for an interview.”
Vua nhận lời mời, cùng đi vào Long cung. Ngồi được một hồi lâu, Long vương nói: “Tôi vì tạo nghiệp ác phải sinh làm thân rồng. Do vậy nên cúng dường xá-lợi Phật mong được tiêu trừ tội nghiệp. Thỉnh đại vương đích thân đến xem sự lễ kính của tôi.”
At his invitation, the king entered the dragon’s palace and, after sitting for a while, the dragon said, “Due to my past evil deeds I have been born in the shape of a dragon. I make offerings to the Buddha’s relics in the hope that I may eliminate my sins and faults. I wish for you to come see and worship the relics in person.”
Vua Vô Ưu xem qua rồi, kinh ngạc nói rằng: “Hết thảy những phẩm vật cúng dường này con người không thể có được.”
Seeing the dragon’s paraphernalia for worshiping the relics, the king was awed by their splendor and said, “These utensils for making offerings are not to be seen in the human world.”
Long vương liền nói: “Nếu đã là như vậy thì xin đừng phá bỏ chỗ cúng dường của tôi.”
The dragon said, “If that is so, I pray that you will not demolish them.”
Vua Vô Ưu tự lượng sức mình không chống nổi Long vương, nên hủy bỏ việc mở tháp này.
Thinking that he was not equal to the dragon in power, King Asoka relinquished the idea of opening up that stupa.
Nơi nhà vua đi ra khỏi hồ, nay vẫn được ngăn quanh và có dựng trụ làm dấu.
A mound marks the spot where he came out of the pool.
Cách ngọn tháp này không xa có một ngôi chùa, tăng chúng rất ít, rộng thoáng sạch đẹp, [đặc biệt là do] một sa-di đảm nhận hết công việc quản lý chung. Khách tăng từ xa đến luôn được tiếp đãi long trọng, mời ở lại ba ngày, cúng dường đầy đủ bốn thứ nhu yếu.
Not far from the stupa is a monastery with few monks. It is a quiet and clean place under the management of a sramanera (novice). Monks coming from distant places are well received with hospitality and invited to stay for three days to receive offerings of the four monastic requisites.
Xem trong các ghi chép xưa thấy viết rằng: “Ngày xưa có một vị tỳ-kheo cùng các vị tăng khác từ xa đến đây lễ tháp, nhìn thấy một bầy voi tất bật tới lui quanh tháp, dùng ngà xới cỏ hoặc dùng vòi tưới nước, lại cùng nhau mang những loài hoa lạ đến cúng dường. Bấy giờ, chúng tăng nhìn thấy đều xúc động thương cảm. Vị tỳ-kheo ấy [nhân việc này] liền xả giới cụ túc, nguyện ở lại để cúng dường [tháp Phật], nói lời từ biệt các vị khác rằng: “Tôi chỉ là nhờ được nhiều phước báu nên mới lạm đứng vào hàng tăng chúng, nhưng năm tháng qua mau mà sự tu tập chẳng có thành tựu gì. Nay trong tháp này có xá-lợi Phật, do đức độ của Phật mà âm thầm chiêu cảm cả bầy voi đến đây dọn cỏ, tưới nước. Nay tôi nguyện gửi thân nơi đất này, cùng với bầy voi dọn tháp cúng dường cho đến hết phần đời còn lại, được như vậy là điều may mắn nhất rồi.”
The local people say that once a bhiksu came with some fellow monks from a distant place to worship the stupa and they saw a group of elephants bustling about, weeding grass with their tusks and sprinkling water with their trunks, each of them holding different kinds of flowers to make offerings. At this sight the monks were deeply moved and sighed with pity. One of the bhiksus relin- guished his position as a fully ordained monk in order to stay behind [as a sramanera] to attend the stupa. He said farewell to the other monks, saying, “I am lucky to have become a member, though an incompetent one, of the community of monks. Through the passage of time I have made no achievement in my spiritual practice. As this stupa contains the Buddha’s relics, the elephants are inspired by his holy virtues to come to keep the place clean. I am willing to stay here to work together with them. If I can spend the rest of my life here I will be very fortunate indeed.”
Chúng tăng đều nói: “Việc này thật tốt đẹp thay. Chúng tôi đây tâm địa cũng cấu nhiễm nặng nề, chỉ là không đủ trí tuệ để quyết định như ông. Mong ông tự bảo trọng, không bỏ dở công hạnh thù thắng này.”
The other monks told him, “It is a good idea and we are so ignorant as not to have thought of it ourselves. Please take care of yourself and do not fail in your superior deed.”
Vị ấy sau khi rời khỏi chúng tăng, tự thân quyết chí thành tâm lập nguyện, an nhiên hoan hỷ sống một mình, lập chí sống như vậy cho đến cuối đời.
Having parted from his companions, the sramanera repeated his sincere vow and lived alone happily with the intention of living in this manner until the end of his life.
Từ đó, vị này cắt cỏ tranh làm nhà, dẫn nước vào thành hồ, tùy mùa hái hoa tươi [cúng dường], rưới nước quét dọn sạch sẽ quanh tháp, trải qua nhiều năm tháng phụng sự lòng không biếng trễ.
He built a thatched hut and channeled water into a tank. He plucked seasonal flowers [as offerings] and kept the place clean by sprinkling water and sweeping the ground, dong this for many years in succession without changing his mind.
Vua các nước quanh vùng nghe biết sự việc này, hết sức kính trọng, tranh nhau cúng dường tiền bạc châu báu, chung sức xây dựng [bên cạnh đó] một ngôi chùa lớn rồi thỉnh người giữ tháp này đảm nhận hết thảy công việc của chúng tăng. Từ đó về sau, để không quên công hạnh của vị [sa-di] ấy nên chùa này luôn đề cử sa-di đảm nhận tất cả công việc quản lý tăng chúng.
The kings of the neighboring countries heard about him [and felt] deep respect; they vied with one another to donate money and valuables for the construction of a monastery and invited the sramanera to supervise the monastic affairs. Since then the abbot of this monastery has always been a sramanera, in memory of the original institution.
Từ ngôi chùa này theo hướng đông đi trong rừng rậm khoảng 32 km thì đến một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi thái tử vượt thành đi đến đây thì cởi bỏ hoàng bào, chuỗi anh lạc, giao cho người hầu mang về.
Going east from Sramanera Monastery for more than a hundred li through a big forest, I reached a great stupa built by King Asoka at the place where
903a Prince Siddhartha halted after he had gone out over the city wall, taken off his precious garments, untied his necklace, and asked his servant, Chandaka, to return to the palace.
Thái tử vượt thành ra đi lúc nửa đêm, trời sáng thì đến nơi đây, đã đạt được tâm nguyện nên tự nghĩ rằng: “Đây là nơi ta dứt bỏ được mọi ràng buộc, cởi bỏ hết xiềng xích, là nơi cuối cùng lìa bỏ xa giá.” Rồi [thái tử] lấy viên bảo châu như ý cài trên mũ ra, dặn người đánh xe rằng: “Ông mang viên ngọc quý này về, thưa với phụ vương ta, nay ta đã lánh thân đi xa, chẳng phải sự xa lìa tạm thời, mà ta muốn dứt bỏ vô thường, trừ sạch hết lậu hoặc.”
The prince went over the city wall at midnight and reached this place at daybreak, and, having fulfilled his cherished desire, he said to himself, “This is the place where I escape from prison, unfasten the fetters, and unyoke myself at last!” He removed the mani pearl from his crown and said to his servant, “Take this pearl and go home to inform my father, the king, that my present retirement to a distant place is not an inconsiderate departure from home; I have done so because I wish to cut off what is impermanent and abandon all that causes pain and distress.”
[Người đánh xe là] Xiển-đạc-ca thưa rằng: “Kẻ tôi tớ này còn lòng dạ nào mà trở về với xa giá trống rỗng?”
Chandaka (formerly called Cheli erroneously) said, “How can I have the mind to drive the empty carriage home?”
Thái tử liền dùng lời khéo léo an ủi, [khiến cho người đánh xe] nhận hiểu được mà quay về.
The prince consoled the servant with good words, and Chandaka became awakened and returned home.
Phía đông tháp này có một cây thiệm-bộ (jambu), tuy cành lá đã khô nhưng gốc vẫn còn đó. Bên cạnh lại có một ngọn tháp nhỏ, là nơi thái tử lấy áo quý còn lại của mình đổi lấy áo bằng da hươu [của người thợ săn].
On the east of the stupa where the carriage was sent home there is a jambu free (Eugenia jambolana) whose branches and leaves have withered, but the decayed trunk is still there. Beside the tree is a small stupa marking the place where the prince changed his remaining precious garments for a deerskin robe.
Thái tử tuy đã cắt tóc, thay đổi y phục, cởi bỏ chuỗi ngọc, nhưng trên người vẫn còn một tấm thiên y, liền tự nghĩ: “Tấm áo này quý báu quá [thật không thích hợp với ta bây giờ], biết làm sao để thay đổi?”
Although he had already cut off his hair, changed his clothes, and taken off his pearl necklace, the prince still had his royal robe with him. He thought, “This robe is too luxurious; what shall I do for a change [of clothes]?”
Lúc đó, chư thiên cõi trời Tịnh Cư liền hóa thành người thợ săn mặc áo da hươu, mang cung tên [đi đến]. Thái tử nâng tấm y của mình lên nói rằng: “Tôi muốn đổi áo với ông, mong ông chấp thuận.”
At that moment a heavenly being of Suddhavasa (“Heaven of Pure Abode”) appeared as a hunter, wearing a deerskin robe, holding a bow and carrying some arrows. The prince, holding out his robe, said to the hunter, “I wish to exchange this [clothing] for yours. Will you kindly consent?”
Người thợ săn đáp ngay: “Tốt lắm!”
Thái tử liền cởi tấm y ra trao cho người thợ săn. Người thợ săn nhận lấy tấm y, [đổi áo cho Thái tử] rồi, hiện nguyên hình chư thiên, bay lên không trung.
The prince then took off his upper garment and handed it to the hunter, who resumed his heavenly form and flew away through the air with the garment he had bartered.
Từ nơi thái tử đổi áo, cách đó không xa có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi thái tử cắt tóc.
Not far away from the place where Prince Siddhartha changed his clothes is a stupa built by King Asoka at the spot where the prince had his hair shaved off.
Thái tử lấy con dao của Xiển-đạc-ca để tự cắt tóc. Thiên Đế Thích đón lấy [tóc ngài] mang về Thiên cung để thờ phụng cúng dường.
The prince asked for a razor from Chandaka and cut off his own locks, which Indra received and brought to his heavenly palace for worship.
Lúc bấy giờ, chư thiên cõi trời Tịnh Cư hóa làm người thợ cắt tóc, cầm một con dao sắc, thong thả đi đến. Thái tử đón hỏi: “Ông cạo tóc được không? Xin cạo sạch giúp tôi.” Người thợ do chư thiên hóa hình đó liền vâng lời cạo tóc [cho thái tử].
At that time a celestial being of the Heaven of Pure Abode appeared as a barber, approaching slowly with a razor in his hand. The prince asked him, “Can you shave my head? Please give me the tonsure.” Accordingly the transformed figure shaved his head.
Thời điểm thái tử vượt thành đi xuất gia cũng không được xác định, có nơi nói lúc Bồ Tát 19 tuổi, có nơi nói 29 tuổi, vào giữa đêm mồng tám tháng phệ-xá-khư, nhằm ngày mồng tám tháng ba theo lịch Trung Hoa. Hoặc có nơi nói là giữa đêm 15 tháng phệ-xá-khư, tức nhằm ngày 15 tháng 3 theo lịch Trung Hoa.
The exact time when the prince left home by going over the city wall, in order to become a monk, is uncertain. Some say it was when the Bodhisattva was nineteen years old, others say he was twenty-nine years old at the time. It is said that Prince Siddhartha renounced home on the eighth day of the second half of the month of Vaisakha, corresponding to the eighth day of the third month of our calendar; or that it was on the fifteenth day of the second half of the month of Vaisakha, corresponding to the fifteenth day of the third month of our calendar.
Từ ngọn tháp nơi thái tử cạo tóc, đi về hướng đông nam qua vùng đồng trống hoang vắng, khoảng 57-61 km, đến rừng Ni-câu-lô-đà thì có một ngọn tháp cao hơn 10 mét.
From the stupa where the prince had his head shaved, going southeast for one hundred eighty or ninety li through a wilderness, I reached a banyan grove in which there is a stupa over thirty feet high.
Ngày xưa, sau khi Như Lai tịch diệt, xá-lợi đã phân chia xong mà các vị bà-la-môn không nhận được gì, liền đến chỗ đất làm lễ niết-điệp-ban-na thu gom lấy phần tro than còn lại, mang về nước mình xây lên ngọn tháp này để thờ phụng cúng dường. Từ đó thường có nhiều điều linh ứng, những người có tật bịnh đến đây cầu nguyện rất nhiều người được khỏi.
When the Tathagata entered nirvana and his relics were distributed, the brahmans who had not obtained a share of the relics collected the ashes and charcoal from the ground of the nistapana (meaning “burning,” formerly known as shewei by mistake) and brought them home; they built this holy reliquary for worship. Since 903b then it has manifested many miracls and most of the sick people who have prayed for recovery here have received a response.
Bên cạnh tháp này, trong khuôn viên một ngôi chùa cổ, có di tích nơi bốn vị Phật quá khứ tọa thiền cùng kinh hành. Hai bên ngôi chùa cổ này có mấy trăm ngọn tháp, trong đó có một tháp lớn do vua Vô Ưu xây dựng, nền tháp tuy nghiêng lún nhưng vẫn còn cao hơn 33 mét.
In the old monastery beside the ash and charcoal stupa are places where the four past buddhas sat and walked up and down. On both sides of the old monastery are several hundred stupas, among which a large one was built by King Asoka. Although its lofty foundation has collapsed it is still over one hundred feet in height.
Từ nơi đây đi về hướng đông bắc là rừng rậm, đường đi gian nan hiểm trở, đầy khó khăn nguy hiểm, có bò rừng, voi hoang, đảng cướp, thợ săn... luôn chực chờ rình rập khách đi đường, sẵn sàng hãm hại. Ra khỏi khu rừng này là đến nước Câu-thi-na-yết-la, thuộc miền Trung Ấn.
From here going northeast I proceeded through a great forest along a rough and dangerous road with perilous obstacles all along the way. Mountain oxen and wild elephants, as well as brigands and hunters, watch for travelers and constantly do harm to them.
Coming out of this forest I reached the country of Kusinagara (in the domain of Central India).
4. Nước Câu-thi-na-yết-la
Nước Câu-thi-na-yết-la thành quách sụp đổ hư nát, xóm ấp tiêu điều. Nền thành cổ xây bằng gạch, chu vi khoảng 3.2 km, dân cư thưa thớt, đường sá hoang vu.
The city wall of the capital of the country of Kusinagara is in ruins and the towns and villages are deserted. The brick foundations of the city wall are more than ten li in circuit; there are very few inhabitants and the streets and lanes are in desolation.
Nơi góc đông bắc trong thành có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, trên nền nhà cũ của ông Chuẩn-đà. Trong nhà có một cái giếng, thuở xưa ngay lúc ông chuẩn bị cúng dường đức Phật thì mới đào cái giếng này. Tuy trải qua nhiều năm tháng nhưng nước giếng vẫn còn trong trẻo.
At the northeast comer of the original city is a stupa built by King Asoka at the old residence of Cunda (formerly mistranscribed as Xuntuo). In the residence there is a well that was dug at the time when a meal was prepared for the Buddha. Although the well has been there for many long years the water is still clear and sweet.
Về phía tây bắc của thành, cách khoảng 1-1.4 km, qua sông A-thị-đa-phạt-để, cách bờ sông phía tây không xa là rừng sa-la. Cây sa-la cùng họ với cây sồi nhưng vỏ màu trắng xanh, lá cây sáng láng. Có bốn cây đặc biệt cao hơn, chính là nơi đức Như Lai nhập Niết-bàn.
At a place three or four li to the northwest of the city I crossed the Ajitavati River (“Unsurpassed,” the name in common use, mistaken for the Airavati River in olden times; in the texts it is known as Hiranyavati [“Possessing Gold”] River). Not far from the west bank of the river is Sala Grove. The sala tree is similar to an oak, with a greenish-white bark and very glossy leaves. Four of the trees in the grove are unusually tall and mark the place where the Tathagata entered nirvana.
Nơi đây có một tinh xá lớn xây bằng gạch, bên trong có tượng đức Phật nhập Niết-bàn, nằm quay đầu về hướng bắc. Bên cạnh đó có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, tuy nền móng đã nghiêng lún nhưng vẫn còn cao khoảng 70 mét. Phía trước có dựng một trụ đá để ghi chép về sự tịch diệt của Như Lai, nhưng lại không thấy ghi ngày tháng.
In a large brick temple there is a statue of the Tathagata in the posture of entering nirvana, lying down with his head toward the north. Beside the temple is a stupa built by King Asoka. Although the foundation has collapsed it is still over two hundred feet high. In front of it is a stone pillar on which is inscribed a a record of the event of the Tathagata’s nirvana, but no date is mentioned in the record.
Đọc trong các ghi chép trước đây thấy ghi rằng: Phật sống đến năm 80 tuổi, vào ngày 15 tháng phệ-xá-khư nhập Niết-bàn, nhằm ngày 15 tháng 3 theo lịch Trung Hoa. Theo phái Thuyết nhất thiết hữu thì Phật nhập Niết-bàn vào ngày mồng tám tháng Ca-lạt-để-ca, nhằm ngày mồng tám tháng chín theo lịch Trung Hoa.
It is said in previous record, however, that the Buddha entered parinirvana (complete cessation of rebirth) at the age of eighty, on the fifteenth day of the second half of the month of Vaisakha, corresponding to the fifteenth day of the third month in our calendar. According to the tradition of the Sarvastivada school, the Buddha entered parinirvana on the eighth day of the second half of the month of Karttika, corresponding to the eighth day of the ninth month in our calendar.
Về [năm] Phật nhập Niết-bàn, các bộ phái nói khác nhau, hoặc cho là đã hơn 1.200 năm, hoặc nói hơn 1.300 năm, hoặc nói hơn 1.500 năm, hoặc nói hơn 900 năm nhưng chưa đến 1.000 năm.
The different schools hold variant views concerning the time elapsed since the Buddha’s nirvana; some say it has been more than one thousand two hundred years, others say one thousand three hundred, or one thousand five hundred, or more than nine hundred but less than one thousand.
Bên cạnh tinh xá này, cách đó không xa có một ngọn tháp. Ngày xưa đức Như Lai thuở còn tu hạnh Bồ Tát sinh làm con chim trĩ chúa cứu lửa, chính là ở nơi này.
Not far from the temple is a stupa marking the place where the Tathagata put out a fire when, in a previous life, in the course of cultivating the bodhisattva deeds, he was born as a pheasant.
Thuở ấy nơi đây là khu rừng lớn rậm rạp, là nơi cư trú của nhiều loài thú và chim muông. Hôm ấy trời nổi gió bão từ khắp bốn phương, khu rừng bị lửa cháy dữ dội. Có một con chim trĩ ôm lòng thương xót muôn loài, cố sức lao mình xuống suối nước cho ướt cánh rồi bay lên cao rảy cánh để dập lửa. Lúc ấy, Thiên Đế Thích nhìn thấy hiện đến nói: “Sao ngươi ngu si đến thế, chỉ phí sức mệt cánh vô ích? Lửa dữ đã bốc cao thiêu cả khu rừng, sức lực nhỏ nhoi của ngươi như vậy lại có thể dập tắt được sao?”
There once was a great forest at this place and the animals and birds lived in caves and nests. One day a gale blew hard just as a fire broke out and burned fiercely. A pheasant, having pity on the other creatures, flapped its wings in a stream and flew up into the air to sprinkle water over the fire. At that moment Indra lowered his head and said to the pheasant, “Why are you so foolishly working so hard with your wings, to no avail? The great fire has just broken out and the whole forest is ablaze. How can you put it out with the effort of your feeble body?”
Chim trĩ liền hỏi: “Ai đang nói đó?”
The pheasant said, “Who is it that is speaking to me?”
Đáp rằng: “Ta là Thiên Đế Thích.”
Indra said, “I am Indra.”
Chim trĩ nói: “Nay Thiên Đế có đại phước lực, muốn gì được nấy, việc trừ tai cứu nạn dễ như trở bàn tay, [nhưng đã không làm mà] ngược lại còn vặn hỏi ta sao làm việc phí công, vậy ai có lỗi? Lửa đang cháy mạnh, thôi đừng lắm lời.” Nói rồi tiếp tục bay nhanh đến suối lấy nước.
The pheasant said, “If you are Indra, a being possessing great power of blessedness, you may achieve anything you wish. To relieve creatures from disaster and rescue those who are in trouble are as easy for you as looking at the palm of your hand. Yet now you say that I am laboring without effect. Whoe will be blamed? The fire bums fiercely; I cannot talk with you any more!” The bird then flew vigorously to the stream to fetch more water.
Thiên Đế liền dùng tay vốc nước tưới khắp khu rừng, lửa tắt khói tan, muôn loài được cứu sống. Cho nên ngày nay gọi đây là tháp Cứu Hỏa.
Indra then scooped up water with his hands and sprinkled it over the forest. The fire was quenched, the smoke vanished, and the animals were saved from the flames. Therefore it is called the Stupa of Fire-fighting.
Cách tháp Cứu Hỏa không xa, có một ngọn tháp khác, là nơi đức Như Lai thuở còn tu hạnh Bồ Tát sinh làm con hươu cứu sống [muôn thú].
Not far from the place where the pheasant put out a fire is a stupa marking the spot where the Tathagata, born as a deer in a previous life when in the course of cultivating the bodhisattva deeds, saved creatures.
Ngày xưa, nơi đây có một khu rừng lớn, bị lửa cháy lan khắp, các loài thú chạy đã cùng đường, phía trước là dòng suối nước chảy siết ngăn lại, phía sau thì lửa dữ tràn tới, không thể thoát cảnh chết chìm dưới nước hoặc lửa thiêu mất mạng. [Bồ Tát] hươu khởi tâm thương xót, dùng thân mình vắt ngang qua dòng suối [để bắc cầu cho các loài thú đi qua], da rách xương gãy nhưng vẫn cố sức chịu đựng. Có một con thỏ què chân đi chậm đến sau cùng, hươu cố gắng chịu đựng cho đến khi thỏ lên được bờ bên kia rồi thì kiệt sức, rơi xuống suối chết chìm. Chư thiên [cảm động nên] vớt xác hươu, dựng tháp này đặt vào.
In the remote past there was a great forest at this place. A conflagration spread in the wilderness and the birds and animals were trapped and in a dangerous plight, with the impediments of a rapid stream in front and a violent fire pressing hard from the back. A few of them were not drowned in the stream and escaped death. A deer, having pity on the other animals, strained itself to stretch its body across the stream in order to save the others from drowning. Despite the pain caused by its injured skin and broken bones, the deer endured its fatigue and pain until the last animal, a lame hare, had crossed over and been rescued. Exhausted, the deer fell into the stream and drowned. The heavenly beings collected its carcass and built a stupa for it.
Không xa về phía tây của tháp này là nơi ông Tô-bạt-đà-la nhập diệt.
Not far to the west of the place where the deer rescued creatures from drowning is a stupa marking the spot where Subhadra (known as Shanxian, “Good Sage,” formerly mistranscribed as Subatuoluo) entered nirvana.
Ông Thiện Hiền vốn là một vị thầy Phạm chí đã 120 tuổi, là bậc kỳ cựu nhiều trí tuệ, nghe Phật nhập diệt liền tìm đến nói với ngài A-nan: “Đức Thế Tôn sắp nhập diệt nhưng lòng tôi còn nhiều nghi ngờ, xin được thỉnh vấn.”
Subhadra, originally a brahmanical teacher, was a wise man of one hundred and twenty years of age. When he heard that the Buddha was about to enter nirvana he came to the twin sala trees and asked Ananda, “As the Buddha, the World-honored One, is about to enter nirvana, may I ask him to solve the doubts I have in my mind?”
Ngài A-nan nói: “Phật sắp nhập Niết-bàn, mong ông đừng quấy rầy.”
Ananda said, “The Buddha is about to enter nirvana; please do not disturb him.”
Ông Thiện Hiền nói: “Tôi nghe rằng khó gặp Phật ra đời, Chánh pháp khó được nghe. Tôi có mối nghi sâu nặng, sợ không còn chỗ để thưa hỏi.”
[Subhadra] said, “I have heard that we rarely have a chance to be born at a time when a buddha is living in the world, and that we cannot often hear the right Dharma. I am afraid I will have no one else to resolve my deep doubts.”
Thiện Hiền được vào gặp Phật, trước hết hỏi rằng: “Các phái khác nhau ai cũng tự xưng là thầy, mỗi vị đều có pháp khác nhau, dẫn dắt kẻ đạo người tục, Kiều-đáp-ma có thể biết hết không?”
Subhadra then came into the Buddha’s presence and asked him, “There are different groups of self-styled teachers who have variant Dharmas to guide the world here below. Do you know them all, Gautama (formerly known as Qutan in an erroneous and abridged form)?”
Đức Phật đáp: “Ta đã nghiên cứu sâu xa tất cả.”
The Buddha said, “I have made a profound study of them all”
Rồi liền vì ông Thiện Hiền mà giảng thuyết, nghe xong liền được tâm thanh tịnh, tin hiểu, xin được xuất gia thọ giới Cụ túc.
and he then gave a description [of the different doctrines]. After having heard the Buddha’s words, Subhadra purified his mind with faith and understanding and asked for permission to become a fully ordained Buddhist monk.
Đức Như Lai dạy rằng: “Ông nghĩ là mình xuất gia được sao? Những người ngoại đạo, học pháp khác, muốn xuất gia tu Phạm hạnh trong giáo pháp của ta cần phải thử thách trong 4 năm, xem hành vi, xét tính nết, nếu được đủ oai nghi, tịch nhiên tĩnh lặng, lời nói thành thật, thì mới có thể được vào tu hạnh thanh tịnh trong pháp của ta. Nhưng điều này cũng tùy thuộc vào hành vi của mỗi người, chẳng có gì là khó.”
The Tathagata asked him, “Are you able to become a Buddhist monk? The heterodox disciples who wish to lead the life of purity have to go through probation for four years during which their demeanor and character are observed. If they are found to be quiet in behavior and honest in speech, they can then be admitted into my order to lead a life of purity. It all depends on one’s effort; there is no difficulty.”
Ông Thiện Hiền thưa: “Đức Thế Tôn từ bi thương xót, cứu độ khắp muôn người không phân biệt, qua bốn năm tập học như vậy thì ba nghiệp mới được thuần phục.”
Subhadra said, “World-honored One, you are so kind and sympathetic that you are impartial in saving living beings. Through four years’ probation, the three sorts of deeds (of body, speech, and mind) may be straightened in good order.”
Đức Phật dạy: “Như ta đã nói, điều này tùy thuộc vào hành vi của mỗi người.”
The Buddha said, “As I have already said, it all depends on one’s effort.”
Liền cho phép Thiện Hiền xuất gia, thọ giới Cụ túc. Ông chuyên cần gắng sức tu tập, thân tâm đều mạnh mẽ, vì đối với các pháp không còn gì nghi ngờ nên tự mình trải nghiệm, thực chứng. Vừa quá nửa đêm chưa được bao lâu, ông chứng quả A-la-hán, dứt hết các lậu hoặc, thành tựu phạm hạnh. Vì không muốn thấy cảnh Phật nhập Niết-bàn nên liền ở ngay trong chúng mà nhập định Hỏa giới, hiện các phép thần thông rồi tịch diệt trước [Phật]. Ông là người đệ tử cuối cùng của đức Như Lai nhưng lại nhập diệt trước, tiền thân trước đây chính là con thỏ què được Bồ Tát hươu cứu thoát cuối cùng.
Subhadra then became a monk and received full ordination. He diligently cultivated himself for both mental and physical strength. A moment later he cleared his mind of doubts concerning the Dharma and tried to achieve personal realization. Shortly after dusk, he actually attained arhatship with all the passions extirpated and the pure life established. Because he could not bear seeing the Buddha enter mahanirvana, he entered the samadhi (trance) of the element of fire and manifested supernatural powers and then he hinself entered nirvana before the Buddha. He became the Tathagata’s last disciple but died before him. In a previous life Subhadra was the lame hare, the last animal to be rescued [by the courageous deer].
Bên cạnh tháp nơi ông Thiện Hiền tịch diệt có một tháp khác, là nơi xưa kia thần Chấp Kim cương ngã lăn ngất xỉu.
Beside the spot where Subhadra entered nirvana is a stupa at the place where Vajrapani (“Holder of the Vajra”) fell into a swoon.
Đức Đại Bi Thế Tôn tùy căn cơ mà làm lợi lạc chúng sinh, việc hóa độ đã xong nên vào cảnh vui Niết-bàn, ở giữa hai cây sa-la, nằm xoay đầu về hướng bắc. Thần Chấp Kim cương, lực sĩ Mật Tích thấy Phật diệt độ liền sầu thảm than khóc rằng: “Như Lai bỏ con vào Niết-bàn rồi, không có chỗ nương tựa, không có ai bảo hộ che chở, con như bị tên độc, bị lửa sầu bi thiêu đốt.”
The great sympathetic World-honored One, having completed his task of edifying living beings according to their capacities and for their benefit, entered the blissful state of nirvana at the twin sala trees, lying down with his head toward the north. The deity Vajrapani, (alias) the warrior Guhyapati (“Lord of the Mysteries”), having seen the Buddha enter nirvana, cried sorrowfully, “The Tathagata has forsaken me and entered mahanirvana. I have no place in which to take refuge and no one to protect me. It is just as if a poisoned arrow has deeply struck me and a fire of distress fiercely bums me.”
Than khóc rồi ném chày kim cương, ngã lăn ra đất ngất xỉu. Hồi lâu mới tỉnh lại, bi ai luyến tiếc lại bảo nhau rằng: “Biển sanh tử lớn, còn đâu thuyền từ cứu độ? Đêm dài vô minh, biết ai thắp đuốc soi đường?”
He dropped his diamond (vajra) club and fell into a swoon. After a long while he stood up and said to the others, “In the great sea of birth and death, who will be our boat and oars? In the long night of ignorance, who will be our lamp and torch?”
Kế bên ngọn tháp nơi thần Kim cương ngã xuống đất, lại có một ngọn tháp nữa, là nơi [chư thiên] thiết lễ cúng dường trong bảy ngày sau khi Như Lai diệt độ.
Beside the place where Vajrapani fell into a swoon there is a stupa where [the remains of] the Tathagata were venerated for seven days after his nirvana.
Khi Như Lai sắp diệt độ, hào quang soi chiếu khắp nơi, trời người đều tụ hội đến, ai ai cũng đau buồn thương cảm, cùng bảo nhau rằng: “Đấng Đại Giác Thế Tôn nay sắp vào Niết-bàn, phước lành của chúng sinh đã hết, thế gian không còn nơi nương tựa.”
When the Tathagata was about to enter nirvana a bright light shone everywhere and human and heavenly beings gathered together in grief. They said to one another, “The great enlightened World-honored One is now about to enter nirvana. Living beings will come to the end of blessedness and the world will have no one on whom to depend.”
Đức Như Lai nằm nghiêng bên phải trên giường sư tử, bảo với đại chúng rằng: “Các ông đừng nói rằng Như Lai cuối cùng rồi cũng nhập diệt, vì pháp thân là thường trụ, lìa khỏi mọi sự biến đổi. Hãy trừ bỏ sự biếng nhác trễ nãi, sớm cầu giải thoát.”
The Tathagata, lying on his right side on a lion bed, told the gathering, “Do not say that the Tathagata has eventually entered nirvana, as the dharma body [of a buddha] is immutable and free from all changes. You should ward off indolence and try to gain liberation as quickly as possible.”
Các vị tỳ-kheo đều buồn đau, sụt sùi thương cảm khóc than. Lúc bấy giờ, ngài A-nê-luật-đà bảo các tỳ-kheo rằng: “Thôi đi, thôi đi! Các thầy đừng buồn đau than khóc nữa, kẻo chư thiên quở trách.”
The bhiksus and others wept sadly.
At that time Aniruddha (formerly mistranscribed as Anilu) told the bhiksus, “Stop, stop! Grieve no more! The heavenly beings will reproach you and ridicule you!”
Lúc bấy giờ, người dân nước Mạt-la cúng dường Phật đã xong, muốn đưa kim quan đến chỗ làm lễ Niết-điệp-ban-na (trà-tỳ) thì ngài A-nê-luật-đà liền bảo: “Hãy khoan! Chư thiên còn muốn lưu kim quan lại đây để cúng dường trong bảy ngày.”
After the Malla people had made offerings to the remains, they wished to carry the golden coffin to the fumeral ghat for burning. Aniruddha said to them, “Wait a moment! The heavenly beings wish to keep it here for seven days in order to make offerings to it.”
Liền đó chư thiên mang hoa đẹp cõi trời, từ trên không trung tán tụng thánh đức, mỗi vị đều đem hết tâm thành cùng lo việc cúng dường.
The heavenly beings, holding exquisite celestial flowers, flew through the air and chanted praise of the Buddha’s holy virtues. Every one of them worked with utmost sincerity to make offerings [to the Buddha’s remains].
Bên cạnh tháp cúng dường kim quan, có một ngọn tháp nữa, là nơi phu nhân Ma-ha-ma-da khóc thương Phật.
Beside the place where the coffin was lodged is a stupa at the place where Lady Mahamaya lamented the Buddha’s demise.
Sau khi đức Như Lai tịch diệt, việc nhập quan đã hoàn tất, ngài A-nê-luật-đà mới lên cung trời báo với phu nhân Ma-da rằng: “Đấng Đại Thánh Pháp Vương nay đã tịch diệt rồi.”
After the Tathagata had
904b entered nirvana and his remains had been laid in the coffin, Aniruddha ascended to the heaven to inform Lady Mahamaya, saying, “The great holy King of the Dharma has entered nirvana.”
Phu nhân Ma-da nghe như vậy buồn thương nghẹn ngào đau đớn, liền cùng chư thiên đến chỗ hai cây sa-la nơi Phật nhập Niết-bàn, nhìn thấy tấm y tăng-già-chi, bình bát và tích trượng [của Phật để lại], đưa tay sờ vào rồi sầu thảm khóc lớn, ngẹn ngào hồi lâu mới nói được rằng: “Phước lành của trời người đã hết, thế gian mất đi con mắt soi đường, nay những thánh vật này không còn ai làm chủ nữa.”
Hearing this news, Mahamaya was choked with sobs and fainted. [When she had recovered her consciousness] she went with the heavenly beings to the twin [saZa] trees, where she saw [the Buddha’s] samghdti (double robe), almsbowl, and pewter staff. She stroked these articles, weeping piteously, until she fainted again, and when she regained her voice she said, “Human and heavenly beings have come to the end of their blessedness and the Eye of the World has disappeared. Now these things are without an owner!”
Lúc ấy, đức Như Lai vận thánh lực, nắp kim quan tự mở ra, phóng chiếu hào quang [hiện hình] đức Phật ngồi chắp tay an ủi từ mẫu: “Nhọc sức mẹ từ xa xuống trần. Các pháp đều [vô thường] như thế, xin đừng quá sầu thương.”
By the Tathagata’s saintly power the coffin opened by itself. The Buddha emitted a bright light, sat up with his hands joined palm to palm, and consoled his compassionate mother for having come down from a far distance [to see him], saying, “Such is the law of all things. Please do not be overwhelmed by excessive grief.”
Ngài A-nan cũng bi ai thưa thỉnh Phật: “ Như người đời sau hỏi việc này, con nên trả lời thế nào?”
With a sorrowful mind, Ananda asked the Buddha, “What shall I say when people in the future ask me about today’s events?”
Phật dạy rằng: “Hãy nói rằng, khi Phật đã nhập Niết-bàn, từ mẫu Ma-da từ cung trời giáng hạ nơi rừng sa-la, đức Như Lai vì những chúng sanh bất hiếu [đời sau] nên từ kim quan trổi dậy, chắp tay thuyết pháp [cho mẹ].”
[The Buddha replied,] “You may say that after the Buddha’s nirvana his compassionate mother came down from the heavenly palace to the twin [s'aZa] trees. As a lesson to unfilial people, the Tathagata sat up in the golden coffin and preached the Dharma [for his mother] with his hands joined palm to palm.”
Về phía bắc của thành, qua sông rồi cách khoảng 500 mét có một ngọn tháp, là nơi làm lễ trà-tỳ nhục thân Như Lai. Mặt đất đến nay vẫn có màu đen ngả vàng, đất lẫn với tro than, những ai chí thành cầu thỉnh có khi cũng được xá-lợi.
More than three hundred paces across the river at the north of the city there was a stupa at the place where the Tathagata’s body was cremated. The earth is a dark yellow color and the soil is mixed with ashes and charcoal. If one prays earnestly he may obtain sariras (relic bones) at this place.
Khi đức Như Lai tịch diệt, trời người bi thương xúc cảm, dùng bảy món báu làm kim quan, ngàn cuộn vải mịn quấn quanh thân, thiết lễ hương hoa, tràng phan bảo cái trang nghiêm đẹp đẽ, dân chúng nước Mạt-la cung kính dẫn đường, [đại chúng] cùng theo trước sau [kim quan] đưa về hướng bắc, qua sông A-thị-đa-phạt-để, dùng rất nhiều các loại dầu thơm, chất nhiều gỗ thơm rồi nổi lửa trà-tỳ. Khi thiêu xong có hai lớp vải hoàn toàn không cháy, một là lớp quấn sát trong thân Phật, hai là lớp quấn ở ngoài cùng. Khi phân chia xá-lợi cho khắp thảy chúng sinh, thấy tóc và móng tay vẫn còn nguyên không hề bị cháy.
After the Tathagata had entered nirvana human and heavenly beings, lamenting sorrowfully, made a coffin out of the seven precious substances and enshrouded his body in a thousand layers of cotton cloth. Holding incense and flowers, as well as banners and canopies, the Mallas pulled the hearse in a procession, some at the front and some following behind the coffin, to the north of Gold River. They prepared a pyre with sufficient fragrant oil and sweet-scented wood and set fire to it. Two layers of the shroud, the innermost one next to the body and the outer one, were not burned. When the people distributed the sanras they found that the hair and nails were neatly intact.
Bên cạnh tháp chỗ trà-tỳ, có một ngọn tháp khác, là nơi đức Như Lai vì ngài Đại Ca-diệp-ba mà hiện đôi chân ra bên ngoài kim quan.
Beside the place of cremation is the spot where the Tathagata showed his feet to Mahakasyapa.
Sau khi đã chất đầy gỗ thơm bên dưới kim quan Như Lai nhưng đốt mãi không cháy, đại chúng đều kinh hãi. Ngài A-nê-luật-đà liền nói: “[Đó là Thế Tôn] muốn đợi ngài Ca-diệp-ba.”
After the Tathagata’s coffin had been laid down and the pyre of fragrant wood had already been piled up, it could not be kindled, to the astonishment of the assembly. Aniruddha said, “It is merely waiting for Kasyapa.”
Lúc ấy, ngài Đại Ca-diệp-ba cùng năm trăm đệ tử từ rừng núi xa vừa về đến thành Câu-thi, hỏi ngài A-nan: “Tôi có thể nhìn đức Thế Tôn lần cuối được chăng?”
At that moment, Mahakasyapa and his five hundred disciples came from the mountains to the city of Kusinagara, and he asked Ananda, “May I have a look at the World-honored One?”
Ngài A-nan đáp: “Đã quấn ngàn cuộn vải quanh thân, hai lớp áo quan đã niêm, gỗ thơm cũng chuẩn bị xong, đã đến lúc trà-tỳ.”
Ananda said, “His body is wrapped in a thousand layers of cotton cloth and laid in a double coffin, and fragrant wood has already been piled up for the cremation.”
Ngay lúc ấy, đức Phật từ trong kim quan đưa hai chân ra, trên luân tướng [trong lòng bàn chân Phật] thấy có màu khác lạ. Ngài Ca-diệp-ba liền hỏi ngài A-nan: “Sao có chuyện lạ này?”
At that time [the body of] the Tathagata lying in the coffin stretched out its feet. When Kasyapa noticed that the wheel sign on the soles of the Buddha’s feet had a strange color, he asked Ananda, “Why is this so?”
Ngài A-nan nói: “Khi Phật vừa nhập Niết-bàn, trời người đều than khóc, nước mắt như mưa, rơi thấm vào chân Phật nên biến sắc như vậy.”
[Ananda] said, “At the moment when the Buddha entered nirvana human and heavenly beings wept piteously, and their tears dyed his soles this strange color.”
Ngài Ca-diệp-ba liền lễ Phật, rồi đi nhiễu trọn vòng [quanh kim quan], tán thán công đức Phật. Lúc bấy giờ, gỗ thơm tự nhiên bốc cháy.
Then Kasyapa paid homage to the coffin by circumambulating it while chanting praises [of the Buddha], and the fragrant wood spontaneously burst into huge flames.
Như vậy, đức Như Lai tịch diệt rồi có ba lần hiện thân ra bên ngoài kim quan. Lần thứ nhất ngài đưa cánh tay ra, hỏi A-nan việc chuẩn bị đường đi. Lần thứ hai, ngài hiện thân ngồi chắp tay thuyết pháp cho thánh mẫu. Lần thứ ba ngài hiện đôi chân ra cho Ca-diệp-ba được thấy.
Thus after his nirvana the Tathagata thrice appeared from his coffin: first, he stretched his
904c arm to ask Ananda to repair the road; second, he sat up to preach the Dharma for his mother; and last, he showed his feet to Mahakasyapa.
Kế bên tháp nơi hiện chân ra của đức Phật, có một ngọn tháp khác do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi vua của 8 nước cùng phân chia xá-lợi Phật, phía trước có dựng trụ đá khắc ghi sự kiện này.
Beside the spot where the Buddha showed his feet is a stupa built by King Asoka at the place where the eight kings shared the relics. In front of the stupa is a stone pillar on which [a description of] the event is inscribed.
Đức Phật nhập Niết-bàn, sau khi lễ niết-điệp-ban-na (trà-tỳ) hoàn mãn, vua của tám nước mỗi vị đều mang theo đủ bốn binh chủng kéo đến, sai bà-la-môn Trực Tánh đến nói với các lực sĩ trong thành Câu-thi: “Đấng Đạo sư của hai cõi trời người đã tịch diệt ở nước này, cho nên chúng tôi từ xa lặn lội đến đây xin được thỉnh xá-lợi.”
After the Buddha’s body was cremated after his nirvana, the kings of eight countries arrived with their four divisions of troops and dispatched the stiaight-natuicd brahman to tell the Mallas of Kusinagara, “As the teacher of human and heavenly beings has entered nirvana in this country, we have come here from afar to share his relics.”
Các lực sĩ đáp rằng: “Đức Như Lai tôn quý đã giáng lâm tịch diệt tại nước này, thế gian mất đi bậc thầy sáng suốt, chúng sinh đều mất đi bậc cha lành. Xá-lợi của đức Như Lai [chúng tôi] tự lo việc cúng dường, các ngài chỉ nhọc mệt đường xa mà thôi, không thể nhận được gì.”
The Mallas said, “The Tathagata was in our country when we were bereaved of the Guide of the World and lost the father of living beings, so naturally we should keep the relics of the Tathagata for worship. You will receive nothing despite the weariness you endured on your journey.”
Bấy giờ, các vua dùng lời nhu thuận nhún nhường để thỉnh cầu nhưng chẳng được đáp ứng, liền [sai người đến] nói lần nữa rằng: “Chúng tôi theo lễ nghi cầu thỉnh không được, ắt phải dùng đến uy lực quân binh.”
Since the kings’ solicitation was not granted, they said again, “If you do not comply with our polite request we wil consider using force.”
Bà-la-môn Trực Tánh vội can ngăn rằng: “Xin nghĩ lại! Đức Đại Bi Thế Tôn chịu khó nhọc tu hành phước thiện đã qua nhiều kiếp, mọi người đều biết, nay muốn đánh nhau [để tranh giành xá lợi của Ngài] thật không thích hợp. Xá-lợi ở đây xin chia đều làm tám phần, mỗi vị đều được cúng dường, cần chi phải động binh?”
The straigh-natured brahman warned them, “Just think it over! The great sympathetic World-honored One patiently cultivated blessedness and good deeds for numerous kalpas in the past. I think that all of you have heard this. It is inappropriate for you to fight each other. Since the relics are in this country they should be divided into eight equal portions, and each of you can have a share for worship. What is the use of resorting to force?”
Các lực sĩ y theo lời này, liền phân lường xá-lợi, định chia ra làm tám phần đều nhau.
The Mallas listened to his words but when they were about to divide the relics into eight equal portions,
Khi ấy, Đế Thích nói với các vua rằng: “Cõi trời cũng có một phần, các ngươi đừng cậy sức mạnh mà giành lấy.”
Indra said to the kings, “The heavenly beings also have a right to share a portion of the relics. Do not compete for a share on the strength of your might.”
Các vị long vương A-na-bà-đáp-đa, long vương Văn Lân, long vương Y-na-bát-đát-la cùng nói: “Xin đừng quên chúng tôi, nếu muốn dùng sức để tranh giành, các ông không chống nổi đâu.”
Then the naga kings Anavatapta, Mucilinda, and Elapattra also made a proposal, saying, “Do not forget about us. As far as strength is concerned, none of you is our equal!”
Bà-la-môn Trực Tánh nói: “Không nên tranh cãi ồn ào, hãy cùng nhau chia đều.”
The stiaight-natured brahman said, “Do not quarrel! We should all share the relics.”
Sau đó liền chia ra ba phần, một phần dành cho chư thiên, một phần cho các long vương, một phần giữ lại cõi người, lại chia đều cho vua tám nước. Chư thiên, long vương cùng các vua [nhận xá-lợi Phật rồi], ai nấy đều bi thương cảm động.
The relics were then divided into three portions, one for the heavenly beings, one for the nagas, and one for the human world, and the third portion was further subdivided into eight parts and allotted to the eight kings. The heavenly beings, nagas, and kings were all deeply moved.
Từ chỗ ngọn tháp phân chia xá-lợi đi về hướng tây nam khoảng 65 km thì đến một ngôi làng lớn.
Going southwest for more than two hundred li from the stupa of the division of the relics I reached a great town.
Nơi đây [thuở trước] có một người bà-la-môn vô cùng giàu có nhưng không giống với những người bà-la-môn khác. Ông nghiên cứu ngũ minh, tôn sùng kính trọng Tam Bảo. Kế bên chỗ ở của mình, ông xây dựng một tăng phòng với đầy đủ những vật dụng cần thiết, lại trang hoàng bằng những món quý báu, mỗi khi có các vị tăng sĩ qua lại lỡ đường, ông ân cần mời thỉnh lưu lại và hết lòng cúng dường, dù chỉ ở lại một đêm hay lưu lại đến bảy ngày [cũng đều như vậy].
There was a brahman of enormous wealth, who was quite different from other brahmans. He was learned in the five vidyas (“knowledges”) and venerated the Triple Gem. He constructed a monastery, decorated with various kinds of jewels, next to his residence, and provided all sorts of daily requisites. Whenever monks traveled by way of this monastery he always earnestly invited them to stay and receive offerings for one night or up to seven days.
Về sau, khi vua Thiết-thưởng-ca (Sasahka) hủy phá Phật pháp, tăng chúng chẳng còn ai qua lại vùng này nữa. Năm tháng dần qua nhanh, nhưng vị bà-la-môn này vẫn luôn khắc khoải bi thương, hoài niệm [hình bóng các vị sa-môn].
Later, when King Sasahka persecuted the buddha-dharma, no groups of monks came this way for many years and the brahman regretfully cherished the memory of them.
Một hôm, ông đang đi trên đường thì thấy một vị sa-môn tóc bạc, lông mi dài, tay cầm tích trượng đang đi đến. Vị bà-la-môn vội vàng nghinh đón, hỏi xem từ đâu đến rồi cung thỉnh về tăng phòng, dâng đầy đủ các món cúng dường. Sáng sớm, bà-la-môn nấu cháo bằng loại sữa ngon nhất không pha tạp để dâng lên. Vị sa-môn nhận bát cháo, vừa nếm qua một muỗng thì đặt bình bát xuống, trầm ngâm suy nghĩ rồi thở dài. Vị bà-la-môn đang đứng hầu bữa bên cạnh liền quỳ xuống thưa hỏi: “Đại đức sáng suốt tùy duyên, hân hạnh được ngài hạ cố đến đây, chẳng biết có phải đêm qua chỗ nằm không an giấc, hay vì món cháo này không vừa miệng?”
One day he was taking a walk and saw a sramana with heavy eyebrows and white hair, approaching with a pewter staff in hand. He hurried to greet the monk and inquired where he had come from and where he was going, and invited him to the monastery to receive various kinds of offerings. The following morning he offered the monk some gruel cooked in pure milk. As soon as the monk tasted the gruel he put down the bowl and sighed heavily. The brahman who was serving the monk with food knelt down and said, “You grant benefit to the people according to circumstances and have come to favor me with your presence. Did you not sleep well last night? Or is the gruel unpalatable?”
Vị sa-môn tỏ vẻ xót thương, đáp rằng: “Ta thương cho chúng sanh phước lành mỏng manh. Nhưng thôi hãy gác lại chuyện này, đợi ta ăn xong sẽ nói.”
The monk said with regret, “I am sorry that the blessedness of living beings is decreasing. Let us not talk about it now. I shall tell you something after the meal.”
Vị sa-môn ăn xong, vén y [bước ra] mà không nói gì. Ông bà-la-môn thưa: “Ngài hứa là sẽ nói, sao giờ không nói gì?”
When breakfast was over the monk tidied his robe and made ready to depart. The brahman said, “You promised that you would say something. Why do you not say it now?”
Vị sa-môn đáp: “Không phải ta quên lời, nhưng việc này không dễ nói ra, chỉ sợ khiến [người nghe] sinh lòng nghi hoặc. Nay ông thật lòng muốn nghe, ta sẽ nói sơ qua. [Lúc nãy] ta thở dài đó không phải xem nhẹ bát cháo của ông. Từ mấy trăm năm nay, ta chưa nếm qua mùi vị như thế. Thuở Như Lai còn tại thế, ta thường được đi theo. Tại tinh xá Trúc Lâm ở thành Vương Xá, ta ra dòng nước trong rửa bát [của Như Lai], hoặc dùng nước ấy súc miệng, hoặc tắm rửa. Than ôi! Vị sữa ngon không pha tạp ngày nay lại không bằng ngụm nước trong thời xưa. Đó là vì phước báo của trời, người [đã suy giảm] khiến thành ra như thế.”
The monk told him, “I did not forget about it but it is not easy for me to say it. It might cause suspicion. If you insist on hearing what I have to say I shall tell you in brief. I sighed not because I disliked the gruel but because for several hundred years I have not tasted such a flavor. When the Tathagata was living in the world I used to follow him, serving as an attendant at Jetavana Temple in the city of Rajagrha to wash his eating bowl in a pure stream. I also bathed, rinsed my mouth, and washed my hands and face [in that stream]. What a pity that the pure milk of today is less tasty than the plain water of yore! This is because the blessedness of human and heavenly beings is decreasing.”
Bà-la-môn thưa: “Nếu vậy thì tự thân Đại đức đã từng gặp Phật?”
The brahman said, “In that case, great virtuous one, you must have seen the Buddha in person.”
Vị sa-môn đáp: “Tất nhiên là vậy. Ngươi lẽ nào lại không nghe tên La-hỗ-la, con của Phật, chính là ta đây. Vì hộ trì Chánh pháp nên chưa tịch diệt.”
The monk said, “Yes. Have you heard about Rahula, the son of the Buddha? I am Rahula. In order to protect the right Dharma I did not enter nirvana.”
Vừa nói xong lời ấy thì hốt nhiên không còn nhìn thấy nữa. Vị bà-la-môn liền quét dọn, xông hương căn phòng [ngài La-hỗ-la] đã ngủ lại, tạo tượng trang nghiêm, cung kính như người thật.
Having said this, the monk suddenly disappeared.
The brahman then daubed the room where the monk had spent the night with incense and swept it clean. An image of the monk was installed in the room in a solemn manner and was worshiped just as if the monk was present.
Từ nơi đây tiếp tục đi trong rừng rậm [về hướng tây nam], khoảng 163 km thì đến nước Bà-la-ni-tư, thuộc miền Trung Ấn.
Going through a great forest for more than five hundred li, I reached the country of Baranasi (formerly called the country of Boluonai by mistake, in the domain of Central India).
End of Fascicle VI of The Great Tang Dynasty Record of the Western Regions
Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua 4 nước trong Quyển 6 - Tây Vực Ký